Buddhist Dictionary

Manual of Buddhist Terms and Doctrines, 
by NYANATILOKA MAHATHERA

BuddhistDictionary_Nyanatiloka/bdict_cover.jpg (4684 bytes) Preface - Lời Nói Đầu

A B C D E F G H I J K L
M N O P R S T U V W Y Z

Appendix - Phụ Lục

Tab I, II, III - BẢNG NHÓM Ý THỨC >

BUDDHIST DICTIONARY

-K-

BUDDHIST DICTIONARY

-K-

kabalinkārāhāra: lit. 'food formed into balls', i.e. food formed into mouthfuls for eating (according to Indian custom); it denotes 'material food' and belongs, together with the three mental nutriments, to the group of four nutriments (s. āhāra).

Kabalinkārāhāra (nghĩa đen là 'thức ăn được vo thành từng viên'), tức là thức ăn được vo thành từng miếng để ăn (theo phong tục của Ấn Độ); nó biểu thị 'thực phẩm vật chất' và có Tứ thực: 1. Đoàn thực (Kabaliṅkārāhāra), là vật thực thô tế mà chúng sanh ăn uống nhai nếm như cơm cháo v.v... để nuôi dưỡng thân sắc pháp. Khi liễu tri đoàn thực cũng sẽ liễu tri tham phát sanh từ ngũ dục. 2. Xúc thực (Phassāhāra), là xúc tâm sở, sự hội tụ của căn - cảnh - thức - sẽ làm duyên cho Thọ sanh khởi. Khi liễu tri xúc thực cũng sẽ liễu tri tam thọ. 3. Tư niệm thực (Manosañcetanāhāra), là tư tâm sở, sự cố ý hành động tạo ra thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp, sẽ làm nhân cho quả tái tục trong các hữu. Khi đạt tri được tư niệm thực cũng sẽ đạt tri ba ái. 4. Thức thực (Viññāṇāhāra), là thức uẩn hay tâm thức, pháp làm duyên trợ danh sắc. Khi đạt tri thức thực cũng sẽ đạt tri danh sắc. Đoàn thực là sắc vật thực, còn xúc thực, tư niệm thực và thức thực là danh vật thực. Gọi là vật thực vì các pháp ấy nâng đỡ nuôi dưỡng danh pháp và sắc pháp, làm cho sự sống được phát triển. Cùng với ba chất dinh dưỡng tinh thần, thuộc nhóm bốn chất dinh dưỡng (xem āhāra - thực phẩm). (Kho Tang Phap Hoc - HT Giac gioi)

kalāpa, 'group', 'unit': 1. 'corporeal unit' (s. rūpa-kalāpa); 2. It has the meaning of 'group of existence' (khandha) in kalāpasammasana (s. sammasana), i.e. 'comprehension by groups', which is the application of 'methodical (or inductive) insight' (naya-vipassanā) to the comprehension of the 5 aggregates (khandha) as impermanent, painful and not-self. It is a process of methodical summarization, or generalization, from one's own meditative experience that is applied to each of the 5 aggregates, viewed as past, present, future, as internal and external, etc. In Vis.M. XX, where the 'comprehension by groups' is treated in detail, it is said to constitute 'the beginning of insight' as it leads to the 'knowledge of rise and fall', being the first of the 8 insightknowledges (s. visuddhi VI). It is necessary for accomplishing the 5th purification (s. visuddhi V; Vis.M. XX, 2, 6ff.).

kalāpa, 'nhóm', 'đơn vị': 1. nguyên tử, đơn vị nhỏ nhất của vật chất, gồm bốn yếu tố và các tính chất của chúng. (xem rūpa-kalāpa); 2. Nó có nghĩa là ‘nhóm hiện hữu’ (khandhā - uẩn, khối, nhóm kết hợp. Con người cấu tạo bởi ngũ uẩn là: sắc (rūpa), thọ (vedanā), tưởng (saññā), hành (saṅkhāra), thức (viññāna), trong kalāpasammasana (xem sammasana - hiểu biết toàn diện), tức là ‘sự hiểu biết theo các nhóm’, là sự áp dụng ‘sự hiểu biết sâu sắc có phương pháp (hoặc quy nạp)’ (naya-vipassanā) vào hiểu rõ 5 uẩn (khandha) là vô thường, khổ và vô ngã. Đó là một quá trình tóm tắt hoặc khái quát hóa có phương pháp, từ kinh nghiệm thiền định của chính người hành giả được áp dụng cho từng uẩn trong số 5 uẩn, được xem là quá khứ, hiện tại, tương lai, bên trong và bên ngoài, v.v. Trong Visuddhi Magga - Thanh Tịnh Đạo XX, trong đó 'sự hiểu biết theo nhóm' được bàn luận chi tiết, nó được cho là tạo thành 'sự khởi đầu của tuệ giác' vì nó dẫn đến 'tuệ sanh diệt', là tuệ đầu tiên trong 8 tuệ minh sát (xem visuddhi VI) ). Nó cần thiết để hoàn thành lần tịnh hóa thứ 5 (xem visuddhi V; Visuddhi Magga - Thanh Tịnh Đạo XX, 2, 6ff.).

kappa (q.v.) = kalpa: (Skr).

kappa (q.v.) = kalpa: (Skr)cuộc sống kéo dài nhiều triệu năm. Còn gọi là Đại kiếp, Trung Kiếp và Tiểu Kiếp..

kalyāna-mitta: 'noble (or good) friend', is called a senior monk who is the mentor and friend of his pupil, "wishing for his welfare and concerned with his progress", guiding his meditation; in particular, the meditation teacher (kammaṭṭhānācariya) is so called. For details see Vis.M. III, 28,57ff. The Buddha said that "noble friendship is the entire holy life" (S. III, 18; XLV, 2), and he himself is the good friend par excellence: "Ānanda, it is owing to my being a good friend to them that living beings subject to birth are freed from birth" (S. III, 18).

kalyāna-mitta: là Thiện hữu là người bạn tốt', được gọi là một tu sĩ trưởng lão, là người cố vấn và là bạn của học trò, "mong muốn phúc lợi cho học trò và quan tâm đến sự tiến bộ của học trò", hướng dẫn thiền định cho học trò; đặc biệt vị thiền sư (kammaṭṭhānācariya) được gọi như vậy. Để biết chi tiết, xem Visuddhi Magga - Thanh Tịnh Đạo III, 28,57ff. Đức Phật dạy rằng “toàn phần đời sống Phạm hạnh này thuộc về thiện hữu, thiện bạn lữ, thiện giao du. ” (Tương Ưng Bộ Kinh III, 18), và chính Ngài là người bạn tốt tuyệt hảo: “Này Ananda, chính vì Ta y cứ, làm bạn với thiện, nên các chúng sanh bị sanh được giải thoát khỏi sanh;” (Tương Ưng Bộ Kinh III, 18).

kāma may denote: 1. subjective sensuality, 'sense-desire'; 2. objective sensuality, the five sense-objects.

kāma có thể thị hiện: 1. tham đắm nhục dục, 'ham muốn giác quan'; 2. Cảm giác khách quan, năm trần.

1. Subjective sensuality, or sense-desire, is directed to all five sense-objects, and is synonymous with kāma-chanda, 'sensuous desire', one of the 5 hindrances (nīvaraṇa, q.v.); kāma-rāga, sensuous lust', one of the ten fetters (saṃyojana, q.v.); kāma-taṇhā, 'sensuous craving', one of the 3 cravings (taṇhā, q.v.); kāma-vitakka, 'sensuous thought', one of the 3 wrong thoughts (micchā-saṅkappa; s. vitakka). - Sense-desire is also one of the cankers (āsava, q.v.) and clingings (upādāna, q.v.).

1. Tham đắm nhục dục, hay dục vọng, hướng đến tất cả năm đối tượng giác quan, và đồng nghĩa với kāma-chanda là tham dục, là khát vọng duyên theo lục trần, một trong năm pháp Triền Cái (Nīvaraṇa, q.v.); kāma-rāga là tham đắm vào cõi dục', một trong mười kiết sử (saṃyojana, q.v.); kāma-taṇhā là sự khát vọng, mong muốn hưởng ngũ dục lạc; sự tham ái duyên theo cảnh sắc, thinh, hương, vị và xúc.’, một trong 3 ái (taṇhā, q.v.); kāma-vitakka, 'tư tưởng thú vui dục lạc', một trong 3 tà tư duy(micchā-saṅkappa; xem vitakka). - Tham dục cũng là một trong các lậu hoặc (āsava, q.v.) và chấp thủ (upādāna, q.v.).

2. Objective sensuality is, in the canonical texts, mostly called kāma-guṇa, 'cords (or strands) of sensuality'.

2. Ngũ dục,( sắc, thanh, hương, vị, xúc khả ái). Nếu không có sự khả ái trong các dục trần thì sẽ không có dục ái, trong các văn bản kinh điển, hầu hết được gọi là kāma-guṇa, 'dục lạc của cảm giác'.

"There are 5 cords of sensuality: the visible objects, cognizable by eye-consciousness, that are desirable, cherished, pleasant, lovely, sensuous and alluring; the sounds ... smells ... tastes ... bodily impressions cognizable by body-consciousness, that are desirable .... " (D. 33; M. 13, 26, 59, 66).

“Có ngũ dục: là các đối tượng thị giác sắc, thanh, hương, vị, xúc, được nhận thức bằng nhãn thức,sự khả ái, sự ưa thích, các dục lạc và lôi cuốn; các âm thanh... mùi... vị... xúc chạm được nhận thức bởi thân." -ý thức, đó là điều đáng mong muốn…” (Trường Bộ Kinh 33; Trung Bộ Kinh 13, 26, 59, 66).

These two kinds of kāma are called 1. kilesa-kāma, i.e. kāma as a mental defilement, 2. vatthu-kāma, i.e. kāma as the object-base of sensuality; first in MNid.. I, p. 1, and frequently in the commentaries.

Hai loại dục (kāma) này được gọi là: 1. kilesa-kāma - phiền não dục, sự tham ái cảnh trần, tức là một phiền não tinh thần, 2. vatthu-kāma - vật dục, là đối tượng của ngũ dục , đối tượng của tâm tham như là cảnh sắc, cảnh thinh, cảnh khí, cảnh vị, cảnh xúc, tức là kāma như đối tượng của dục lạc; trong Kinh Đại Nghĩa Tích (Mahā Niddesa).. I, p. 1, và thường xuất hiện trong các bài bình luận.

Sense-desire is finally eliminated at the stage of the Non-Returner (Anāgāmī; s. ariya-puggala, saṃyojana).

Tham dục, cuối cùng bị loại bỏ ở giai đoạn Bất Lai (Anāgāmī; xem ariya-puggala, saṃyojana).

The peril and misery of sense-desire is often described in the texts, e.g. in stirring similes at M. 22, 54, and in the 'gradual instruction' (s. ānupubbī-kathā). See further M. 13, 45, 75; Sn. v. 766ff.; Dhp. 186, 215.

Sự nguy hiểm và đau khổ của ham muốn dục vọng thường được mô tả trong kinh điển, ví dụ: trong những dụ ngôn thú vị trong Trung Bộ Kinh 22, 54, và trong “ hướng dẫn dần dần” (xem ānupubbī-kathā). Xem thêm Trung Bộ Kinh 13, 45, 75; Sn. câu 766ff.; Kinh Pháp Cú, kệ ngôn 186, 215.

The texts often stress the fact that what fetters man to the world of the senses are not the sense-organs nor the sense-objects but lustful desire (chandarāga). On this see A. VI, 63; S. XXXV, 122, 191. - (App.).

Kinh điển thường nhấn mạnh thực tế rằng thứ ràng buộc con người vào thế giới giác quan không phải là các cơ quan cảm giác hay đối tượng giác quan mà là sự tham muốn dục vọng (chandarāga). Về điều này xem trong Aṅguttara Nikāya Tăng Chi Bộ VI, 63; Saṃyutta Nikāya Tương Ưng Bộ Kinh XXXV, 122, 191. - (App.).

kāma-bhava: 'sensuous existence'; s. bhava.

kāma-bhava: Cõi dục giới; xem bhava.

kāma-chanda: 'sensuous desire', s. nīvaraṇa, chanda.

kāma-chanda: tham dục, là khát vọng duyên theo lục trần, một trong năm pháp Triền Cái , xem nīvaraṇa - sự cản trở, vật chướng ngại”, chanda.

kāma-guṇa: s. kāma.

kāma-guṇa: Là Ngũ dục - sắc, thanh, hương, vị, xúc khả ái. Nếu không có sự khả ái trong các dục trần thì sẽ không có dục ái. xem kāma.

kāma-loka: 'sensuous world', s. loka.

kāma-loka: 'Cõi dục', xem loka.

kāma-rāga: 'sensuous lust', is one of the 10 fetters (saṃyojana, q .v .) .

kāma-rāga: 'ham muốn dục ái', là một trong 10 kiết sử (saṃyojana, q .v .) .

kāmāsava: s: āsava.

kāmāsava: Dục lậu, xem: āsava.

kāma-sukh'allikānuyoga: 'being addicted to sensual pleasures', is one of the 2 extremes to be avoided by the monk; s. majjhima-paṭipadā.

kāma-sukh'allikānuyoga: 'ham muốn các dục lạc', là một trong 2 cực đoan người tu sĩ phải tránh; xem majjhima-paṭipadā.

kāma-taṇhā: 'sensuous craving'; s. taṇhā.

kāma-taṇhā: Dục ái, sự khát vọng, mong muốn hưởng ngũ dục lạc; sự tham ái duyên theo cảnh sắc, thinh, hương, vị và xúc.; xem taṇhā.

kāmāvacara : 'sensuous sphere'; s. avacara.

kāmāvacara : 'Cõi dục giới '; xem avacara .nghĩa là dạo đi, lưu chuyển, là cái gì linh động, thường hiện hữu di chuyển tới lui.

kāmesu-micchācāra: lit. 'wrong or evil conduct with regard to sensual things'; 'unlawful sexual intercourse' refers to adultery, and to intercourse with minors or other persons under guardianship. The abstaining from this unlawful act is one of the 5 moral rules (s. sikkhāpada) binding upon all Buddhists. Through any other sexual act one does not become guilty of the above transgression, which is considered a great crime. The monk, however, has to observe perfect chastity.

kāmesu-micchācāra: là “thực hành sái quấy trong dục lạc”. Theo nghĩa thường dùng thì kāmesu micchācāra là “hành dâm dục sái quấy (tà dâm). 'hành vi sai trái hay xấu xa liên quan đến các dục lạc'; 'quan hệ tình dục bất hợp pháp' đề cập đến ngoại tình và giao hợp với trẻ vị thành niên, với người đang có người giám hộ. Việc từ bỏ hành vi trái pháp luật này là một trong 5 giới luật (xem sikkhāpada - giới điều) ràng buộc đối với tất cả Phật tử. Thông qua bất kỳ hành vi tình dục nào khác, người tu sĩ không được phạm các tội trên, đây được coi là một tội lớn. Tuy nhiên, tu sĩ phải tuân theo sự khiết tịnh hoàn hảo.

In many Suttas (e.g. A.X., 176) we find the following explanation: "He avoids unlawful sexual intercourse, abstains from it. He has no intercourse with girls who are still under the protection of father or mother, brother, sister or relatives, nor with married women, nor female convicts, nor, lastly, with betrothed girls."

Trong nhiều bài kinh (ví dụ Aṅguttara Nikāya - Tăng Chi Bộ X., 176 - Kinh Cunda Người Thợ Rèn) chúng ta tìm thấy lời giải thích sau: “từ bỏ tà hạnh trong các dục, với hạng nữ nhân có mẹ che chở, có cha che chở, có anh che chở, có chị che chở, có bà con che chở, có pháp che chở, đã có chồng, được hình phạt gậy gộc bảo vệ, cho đến những nữ nhân được trang sức bằng vòng hoa." (HT Minh Châu dịch)

kamma: (wholesome or unwholesome) action; s. kamma.

kamma: có nghĩa là tất cả những hành động thiện và ác; xem Kamma - nghiệp.

kamma-bhava: s. bhava, paṭiccasamuppāda.

kamma-bhava: Nghiệp hữu là hành động tích lũy của quả dị thục, tiến trình dẫn đến hữu (nghiệp), Nghiệp hữu là nghiệp dẫn đến tái sanh. Ðức Phật mô tả nó là phước hành, phi phước hành và bất động hành. Ðó là những nghiệp dẫn đến những cõi dục, sắc và vô sắc. Ngài cũng đồng hóa nghiệp hữu với tất cả những nghiệp làm sanh khởi kiếp sống mới. (trích trong Pháp Duyên Khởi (Paticcasamuppàda) Ðại Trưởng Lão Mahàsi Sayadaw - Tỳ kheo Minh Huệ dịch Việt) (xem bhava, paṭiccasamuppāda - Thập nhị nhân duyên.

kammaja-rūpa: 'kamma-produced corporeality'; s. samuṭṭhāna.

kammaja-rūpa: sắc pháp sanh khởi do Nghiệp; xem samuṭṭhāna sự phát sanh, căn nguyên, nguyên nhân.

kammaññatā: 'adaptability', i.e. of corporeality (rūpassa; s. khandha, Summary I), mental factors (kāya), and of consciousness (citta); cf. Tab. II.

kammaññatā: Sắc thích nghiệp, nghĩa là “sự sẵn sàng, sự thích ứng', tức là của sắc (rūpassa; xem khandha, Summany I), các yếu tố tinh thần (kāya), và thức (citta); xem. Tab. II.

kammanta, sammā-: 'right action'; s. magga.

kammanta, sammā-kammanta: Chánh Nghiệp; xem magga.

kamma-paccaya: 'kamma as condition'; s. paccaya (13).

kamma-paccaya: Nghiệp duyên; xem paccaya (13).

kamma-patha: 'course of action', is a name for the group of 10 kinds of either unwholesome or wholesome actions, viz.

kamma-patha: là nghiệp đạo, là quá trình hành động', là tên của nhóm 10 loại hành động bất thiện hoặc thiện, tức là.

I. The tenfold unwholesome courses of action (akusala-kamma-patha):

I. Thập ác (akusala-kamma-patha):

3 bodily actions: killing, stealing, unlawful sexual intercourse;

3 thân hành: sát sinh, trộm cắp, tà dâm

4 verbal actions: lying, slandering, rude speech, foolish babble;

4 lời nói: nói dối, nói xấu, nói lời thô lỗ, nói lảm nhảm ngu xuẩn;

3 mental actions: covetousness, ill-will, evil views.

3 ý ác hạnh: tham lam, sân hận, ác kiến.

Unwholesome mental courses of action comprise only extreme forms of defiled thought: the greedy wish to appropriate others' property, the hateful thought of harming others, and pernicious views. Milder forms of mental defilement are also unwholesome, but do not constitute 'courses of action'.

Những tư tưởng bất thiện chỉ bao gồm những hình thức cực đoan của ý nghĩ ô nhiễm: tham lam muốn chiếm đoạt tài sản của người khác, ý nghĩ sân hận muốn làm hại người khác và quan điểm ác độc. Những hình thức ô nhiễm tinh thần nhẹ hơn cũng là bất thiện, nhưng không tạo thành “ hành động”.

II. The tenfold wholesome course of action (kusala-kamma-patha):

II. thập thiện nghiệp(kusala-kamma-patha):

3 bodily actions: avoidance of killing, stealing, unlawful sexual intercourse;

3 thân thiện hạnh: tránh sát sinh, trộm cắp, tà dâm

4 verbal actions: avoidance of lying, slandering, rude speech, foolish babble; i.e. true, conciliatory, mild, and wise speech;

4 khẩu thiện hạnh: tránh nói dối, nói hai chiều, nói lời thô lỗ, nói lảm nhảm ngu xuẩn; tức là lời nói chân thật, hòa giải, ôn hòa và khôn ngoan;

3 mental actions: unselfishness, good-will, right views.

3 ý thiện hạnh: không tham, không sân, chánh kiến.

Both lists occur repeatedly, e.g. in A. X, 28, 176; M. 9; they are explained in detail in M. 114, and in Com. to M. 9 (R. Und., p. 14), Aṭṭhasālinī Tr. I, 126ff.

Cả hai danh sách đều được nhắc đến nhiều lần, ví dụ: ở Aṅguttara Nikāya Tăng Chi Bộ X, 28, 176; M.9; và được giải thích chi tiết trong Majjhima Nikāya Trung Bộ Kinh 114, và trong Chú Gải đến Majjhima Nikāya Trung Bộ Kinh 9 (R. Und., p. 14),trong Chú giải Pháp Tụ Aṭṭhasālinī Tr. I, 126ff.

kamma-samuṭṭhāna-rūpa: 'corporeality produced through kamma'; s. samuṭṭhāna.

kamma-samuṭṭhāna-rūpa: Sắc nghiệp, sắc chất được tạo ra do nghiệp; xem samuṭṭhāna. tức hiện tượng sanh khởi của những phần khác nhau cấu thành sắc pháp, như mười-thành-phần-mắt v.v...

kammaṭṭhāna: lit. 'working-ground' (i.e. for meditation), is the term in the Com. for 'subjects of meditation'; s. bhāvanā.

kammaṭṭhāna: Ðề Mục Hành Thiền, là thuật ngữ trong Chú Giải đối với 'đối tượng hành thiền'; xem bhāvanā là phương thức hành thiền, còn gọi là pháp hành

kamma-vatta: 'kamma-round'; s. vatta.

kamma-vatta: 'Vòng Quanh của Nghiệp'; xem vattalà luân hồi

kammāyūhana: s. āyūhana.

kammāyūhana: là tích trữ nghiệp xem āyūhana nghĩa là tích trữ

kāmupādāna: 'sensuous clinging', is one of the 4 kinds of clinging (upādāna, q.v.).

kāmupādāna: là dục thủ, là 'sự bám víu vào giác quan', là nắm giữ vững chắc sáu trần cảnh: sắc, thinh, hương, vị, xúc và pháp trần:, là một trong 4 loại bám víu (upādāna - thủ, q.v.).

kaṅkhā: 'doubt', may be either an intellectual, critical doubt or an ethically and psychologically detrimental doubt. The latter may either be a persistent negative skepticism or wavering indecision. Only the detrimental doubt (identical with vicikicchā , q.v.) is to be rejected as kammically unwholesome, as it paralyses thinking and hinders the inner development of man. Reasoned, critical doubt in dubious matters is thereby not discouraged.

kaṅkhā: 'sự nghi ngờ, không chắc ý', có thể là nghi ngờ trí tuệ, phê phán hoặc nghi ngờ có hại về mặt đạo đức và tâm lý. Điều sau có thể là thái độ hoài nghi tiêu cực dai dẳng hoặc sự do dự dao động. Chỉ có nghi ngờ có hại (đồng nhất với hoài nghi - vicikicchā, q.v.) mới bị bác bỏ vì coi đó là bất thiện về nghiệp, vì nó làm tê liệt suy nghĩ và cản trở sự phát triển nội tâm của con người. Do đó, chúng tôi không khuyến khích sự nghi ngờ có lý, có tính phê phán đối với các vấn đề đáng ngờ.

The 16 doubts enumerated in the Suttas (e.g. M. 2) are the following: "Have I been in the past? Or, have I not been in the past? What have I been in the past? How have I been in the past? From what state into what state did I change in the past? - Shall I be in the future? Or, shall I not be in the future? What shall I be in the future? How shall I be in the future? From what state into what state shall I change in the future? - Am I? Or, am I not? What am I? How am I? Whence has this being come? Whither will it go?"

16 nghi ngờ được liệt kê trong các Kinh (ví dụ Majjhima Nikāya - Trung Bộ Kinh 2 Kinh Tất Cả Các Lậu Hoặc như sau: "Ta có mặt trong thời quá khứ, hay ta không có mặt trong thời quá khứ? Ta có mặt trong thời quá khứ như thế nào? Ta có mặt trong thời quá khứ hình vóc như thế nào? Trước kia ta là gì và ta đã có mặt như thế nào trong thời quá khứ? Ta sẽ có mặt trong thời vị lai hay ta sẽ không có mặt trong thời vị lai? Ta sẽ có mặt trong thời vị lai như thế nào? Ta sẽ có mặt trong thời vị lai, hình vóc như thế nào? Trước kia ta là gì và ta sẽ có mặt như thế nào trong thời vị lai?" Hay nay vị ấy có nghi ngờ về mình trong thời hiện tại: "Ta có mặt hay ta không có mặt? Ta có mặt như thế nào? Ta có mặt hình vóc như thế nào? Chúng sanh này từ đâu đến? Và rồi nó sẽ đi đâu?". (HT Thích Minh Châu dịch Việt)

kaṅkhā-vitarana-visuddhi: 'purification by overcoming doubt', is the 4th of the 7 stages of purification (visuddhi, q.v.).

kaṅkhā-vitarana-visuddhi: 'Đoạn nghi thanh tịnh', là sự thanh tịnh do thoát khỏi mọi hoài nghi, giai đoạn thứ 4 trong 7 giai đoạn thanh lọc (visuddhi, q.v.).

kappa (Sanskrit kalpa): 'world-period', an inconceivably long space of time, an aeon. This again is subdivided into 4 sections: world-dissolution (saṃvaṭṭa-kappa) dissolving world), continuation of the chaos (saṃvaṭṭa-ṭṭhāyī), world-formation (vivaṭṭa -kappa), continuation of the formed world (vivaṭṭa-ṭṭhāyī).

kappa (tiếng Phạn là kalpa): A-tăng-kỳ, Kappa (kiếp), ở đây chỉ cho kiếp địa cầu, cuộc sống kéo dài nhiều triệu năm, còn gọi là Đại kiếp', một khoảng thời gian dài không thể tưởng tượng được, một aeon. Điều này lại được chia thành 4 phần: (1) Hoại kiếp (Saṃvaṭṭa-kappa). (2) Hoại trụ kiếp (Saṃvaṭṭaṭṭhāyī-kappa). (3) Thành kiếp (Vivaṭṭa-kappa). (4) Thành trụ kiếp (Vivaṭṭaṭṭhāyī-kappa).

"How long a world-dissolution will continue, how long the chaos, how long the formation, how long the continuation of the formed world, of these things; o monks, one hardly can say that it will be so many years, or so many centuries, or so many millennia, or so many hundred thousands of years" (A. IV, 156)

Khi kiếp chuyển thành, này các Tỷ-kheo, thật không dễ gì để ước tính có bao nhiêu năm như vậy, có nhiều trăm năm như vậy, có nhiều ngàn năm như vậy. Có nhiều trăm ngàn năm như vậy. Khi kiếp đã chuyển thành và dừng lại, này các Tỷ-kheo, thật không dễ gì ước tính như vậy. Khi kiếp chuyển hoại, này các Tỷ-kheo, thật không dễ gì ước tính có nhiều năm như vậy ... như vậy. Khi kiếp đã chuyển hoại và dừng lại, này các Tỷ-kheo, thật không dễ gì ước tính ... như vậy. Này các Tỷ-kheo, có bốn vô lượng của kiếp này. (Aṅguttara Nikāya - Tăng Chi Bộ IV, 156)(HT Thích Minh Châu dịch Việt)

A detailed description of the 4 world-periods is given in that stirring discourse on the all-embracing impermanence in A. VII, 62.

Một mô tả chi tiết về bốn vô lượng của kiếp được đưa ra trong bài kinh gây chấn động về sự vô thường bao trùm tất cả trong Aṅguttara Nikāya - Tăng Chi Bộ VII, 62.

The beautiful simile in S. XV, 5 may be mentioned here: "Suppose, o monks, there was a huge rock of one solid mass, one mile long, one mile wide, one mile high, without split or flaw. And at the end of every hundred years a man should come and rub against it once with a silken cloth. Then that huge rock would wear off and disappear quicker than a world-period. But of such world-periods, o monks, many have passed away, many hundreds, many thousands, many hundred thousands. And how is this possible? Inconceivable, o monks, is this saṃsāra (q.v.), not to be discovered is any first beginning of beings, who obstructed by ignorance and ensnared by craving, are hurrying and hastening through this round of rebirths."

Một ví dụ trong kinh Saṃyutta Nikāya Tương Ưng Bộ Kinh XV, 5 có thể được đề cập ở đây: “Này các Tỷ-kheo, giả sử có một tảng đá khổng lồ nguyên khối, dài một dặm, rộng một dặm, cao một dặm, không có vết nứt hay vết nứt. Cứ sau một trăm năm, một người đến và chà xát nó một lần bằng vải lụa. Khi đó tảng đá khổng lồ đó sẽ mòn đi và biến mất nhanh hơn một vô lượng kiếp. Nhưng, này các Tỷ-kheo, nhiều vô lượng kiếp như vậy đã qua, nhiều trăm, nhiều ngàn, nhiều trăm ngàn. Và làm sao điều này có thể được? Này các Tỳ kheo, không thể nghĩ bàn được đây là luân hồi (q.v.), không thể khám phá được bất kỳ sự khởi đầu đầu tiên nào của chúng sinh, những kẻ bị vô minh che lấp và bị tham ái trói buộc, đang vội vã trôi lăn, và nhanh chóng vượt qua vòng tái sinh này.”

Compare here Grimm's German fairy-tale of the little shepherdboy: 'In Farther Pommerania there is the diamond-mountain, one hour high, one hour wide, one hour deep. There every hundred years a little bird comes and whets its little beak on it. And when the whole mountain is ground off, then the first second of eternity has passed."

Ở đây, So sánh câu chuyện cổ tích Grimm của Đức về cậu bé chăn cừu: 'Ở xa hơn từ tỉnh Pommerania có ngọn núi kim cương, cao một giờ, rộng một giờ, sâu một giờ. Ở đó cứ mỗi trăm năm lại có một con chim nhỏ đến và cái mỏ nhỏ của nó mổ vào ngọn núi. Và khi cả ngọn núi bị san phẳng, thì giây phút đầu tiên của thời gian vô tận đã trôi qua.”

kamma: (Sanskrit : karma): 'action', correctly speaking denotes the wholesome and unwholesome volitions (kusala- and akusala-cetanā) and their concomitant mental factors, causing rebirth and shaping the destiny of beings. These kammical volitions (kamma cetanā) become manifest as wholesome or unwholesome actions by body (kāya-kamma), speech (vacī-kamma) and mind (mano-kamma). Thus the Buddhist term 'kamma' by no means signifies the result of actions, and quite certainly not the fate of man, or perhaps even of whole nations (the so-called wholesale or mass-kamma), misconceptions which, through the influence of theosophy, have become widely spread in the West.

kamma: (tiếng Phạn: karma): 'hành động', có nghĩa là hành động có tác ý, nói một cách chính xác là biểu thị các hành động thiện và bất thiện (kusala- và akusala-cetanā) và các tâm sở đi kèm của chúng, tạo nên sự tái sinh và định hình số phận của chúng sinh. Những nghiệp có tác ý (kamma cetanā) này trở thành biểu hiện dưới dạng những hành động thiện hay bất thiện bằng thân (kāya-kamma), khẩu (vacī-kamma) và ý (mano-kamma). Vì vậy, thuật ngữ Phật giáo “kamma” không hề có nghĩa là kết quả của hành động, và chắc chắn không phải là số phận của con người, hay thậm chí có lẽ của cả một quốc gia (cái gọi là nghiệp báo bán buôn hay nghiệp hàng loạt), những quan niệm sai lầm do ảnh hưởng của thần học, đã trở nên phổ biến rộng rãi ở phương Tây.

"Volition (cetanā), o monks, is what I call action (cetanāhaṃ bhikkhave kammaṃ vadāmi), for through volition one performs the action by body, speech or mind. . There is kamma (action), o monks, that ripens in hell.... Kamma that ripens in the animal world.. Kamma that ripens in the world of men.... Kamma that ripens in the heavenly world.... Threefold, however, is the fruit of kamma: ripening during the life-time (diṭṭha-dhamma-vedanīya kamma), ripening in the next birth (upapajja-vedanīya kamma), ripening in later births (aparāpariya-vedanīya kamma) ...." (A.VI, 63).

Tác ý (cetanā), này các Tỷ-kheo, là điều mà Ta gọi là hành động (cetanāhambhikkhave kammaṃ vadāmi), vì nhờ tác ý người ta thực hiện hành động bằng thân, khẩu hoặc ý. . Này các Tỷ-kheo, có nghiệp (hành động), chín muồi trong địa ngục... Nghiệp chín muồi trong cõi súc sinh.. Nghiệp chín muồi trong cõi người.... Nghiệp chín muồi trong cõi trời.... Tuy nhiên, có ba phần là quả của nghiệp: Hiện báo nghiệp là nghiệp trỗ sanh ngay trong kiếp hiện tại (diṭṭha-dhamma-vedanīya kamma), Sanh báo nghiệp, nghiệp đưa đến kết quả trong đời sau, kế liền kiếp hiện tại (upapajja-vedanīya kamma), Hậu báo nghiệp là nghiệp trỗ quả từ kiếp sau (aparāpariya-vedanīya kamma) ...." (Tăng Chi Bộ VI, 63).

The 3 conditions or roots (mūla, q.v.) of unwholesome kamma (actions) are greed, hatred, delusion (lobha, dosa, moha); those of wholesome kamma are: unselfishness (alobha), hatelessness (adosa = mettā, good-will), undeludedness (amoha = paññā, knowledge) .

3 căn nguyên hay gốc rễ (mūla, q.v.) của (nghiệp) bất thiện là tham, sân, si (lobha, dosa, moha); những nghiệp thiện là: vô tham (alobha), vô sân (adosa = mettā, thiện chí), vô si (amoha = paññā, tuệ).

"Greed, o monks, is a condition for the arising of kamma; hatred is a condition for the arising of kamma; delusion is a condition for the arising of kamma ...." (A. III, 109).

“Này các Tỷ-kheo, tham là duyên cho nghiệp sinh khởi; sân là duyên cho nghiệp sinh khởi; si là duyên cho nghiệp sinh khởi…” (Tăng Chi Bộ III, 109).

"The unwholesome actions are of 3 kinds, conditioned by greed, or hate, or delusion.

Những hành động bất thiện có 3 loại, do tham, sân, si tạo nên.

"Killing ... stealing ... unlawful sexual intercourse ... lying ... slandering ... rude speech ... foolish babble, if practised, carried on, and frequently cultivated, leads to rebirth in hell, or amongst the animals, or amongst the ghosts" (A. III, 40). "He who kills and is cruel goes either to hell or, if reborn as man, will be short-lived. He who torments others will be afflicted with disease. The angry one will look ugly, the envious one will be without influence, the stingy one will be poor, the stubborn one will be of low descent, the indolent one will be without knowledge. In the contrary case, man will be reborn in heaven or reborn as man, he will be long-lived, possessed of beauty, influence, noble descent and knowledge" (cf. M. 135).

Sát sanh... trộm cắp... tà dâm... nói dối... nói xấu... nói lời thô lỗ... nói lảm nhảm ngu xuẩn, nếu thực hành, thực hành và thường xuyên trau dồi, sẽ đưa đến tái sinh vào địa ngục hoặc súc sinh , hoặc ở giữa những con ma" (Tăng Chi Bộ III, 40). "Ai giết hại và tàn ác sẽ phải đọa vào địa ngục hoặc nếu tái sinh làm người, sẽ chỉ tồn tại trong thời gian ngắn. Kẻ nào hành hạ người khác sẽ bị bệnh tật. Kẻ giận dữ sẽ trông xấu xí, kẻ đố kỵ sẽ không có ảnh hưởng, kẻ keo kiệt sẽ nghèo khó, kẻ bướng bỉnh sẽ thấp kém, kẻ lười biếng sẽ không có tri thức. Ngược lại, con người sẽ tái sinh vào cõi trời hoặc tái sinh làm người, họ sẽ trường thọ, có sắc đẹp, có ảnh hưởng, xuất thân và tri thức cao quý” (xem Trung Bộ Kinh 135).

For the above 10-fold wholesome and unwholesome course of action, see kamma-patha. For the 5 heinous crimes with immediate result, s. ānantarika-kamma.

Về tiến trình hành động thiện và bất thiện gồm 10 lần ở trên, hãy xem kamma-patha nghiệp đạo. Đối với 5 trọng tội gây hậu quả ngay lập tức, xem ānantarika kamma.

"Owners of their kamma are the beings, heirs of their kamma, their kamma is their womb from which they are born, their kamma is their friend, their refuge. Whatever kamma they perform, good or bad, thereof they will be the heirs" (M. 135).

Này Thanh niên, các loài hữu tình là chủ nhân của nghiệp, là thừa tự của nghiệp. Nghiệp là thai tạng, nghiệp là quyến thuộc, nghiệp là điểm tựa, nghiệp phân chia các loài hữu tình; nghĩa là có liệt, có ưu. (Trung Bộ Kinh 135

With regard to the time of the taking place of the kamma-result (vipāka), one distinguishes, as mentioned above, 3 kinds of kamma:

Về thời gian nghiệp trổ quả (vipāka), như đã đề cập ở trên, có 3 loại quả của nghiệp:

1. kamma ripening during the life-time (diṭṭha-dhamma-vedanīya kamma);

1. Hiện báo nghiệp diṭṭha-dhamma-vedanīya kamma là nghiệp trỗ sanh ngay trong kiếp hiện tại

2. kamma ripening in the next birth (upapajja-vedanīya kamma);

2. Sanh báo nghiệp (upapajja-vedanīya kamma); là nghiệp dẫn đi tái sanh trong kiếp kế tiếp. Nói chính xác thì quả của nghiệp nầy tạo nên kiết sanh thức và tiềm thức cho ngay kiếp sau của hiện kiếp.

3. kamma ripening in later births (aparāpariya-vedanīya kamma)

3. Hậu báo nghiệp (aparāpariya-vedanīya kamma) là nghiệp trỗ quả từ kiếp sau - ngoại trừ kiết sanh thức và tiềm thức – cho đến khi không còn khả năng trỗ quả

The first two kinds of kamma may be without kamma-result (vipāka), if the circumstances required for the taking place of the kamma-result are missing, or if, through the preponderance of counteractive kamma and their being too weak, they are unable to produce any result. In this case they are called ahosi-kamma, lit. 'kamma that has been', in other words, ineffectual kamma.

Hai loại nghiệp đầu tiên có thể không trổ quả nghiệp (vipāka), nếu thiếu các hoàn cảnh cần thiết để trổ quả nghiệp, hoặc nếu do sự vượt trội của nghiệp phản tác dụng và chúng quá yếu nên chúng không thể trổ quả được. để tạo ra bất kỳ kết quả nào. Trong trường hợp này chúng được gọi là ahosi-kamma, nghĩa là nghiệp không cho quả, nói cách khác, là nghiệp Vô Hiệu Lực.

The third type of kamma, however, which bears fruit in later lives, will, whenever and wherever there is an opportunity, be productive of kamma-result. Before its result has ripened, it will never become ineffective as long as the life-process is kept going by craving and ignorance.

Tuy nhiên, loại nghiệp thứ ba là Hậu Báo Nghiệp sẽ trổ quả trong những đời sau, bất cứ khi nào và ở bất cứ nơi nào có cơ hội, sẽ tạo ra quả của nghiệp. Trước khi kết quả của nó chín muồi, nó sẽ không bao giờ trở nên vô hiệu chừng nào tiến trình sống vẫn được tiếp tục bởi tham ái và vô minh.

According to the Com., e.g. Vis.M. XIX, the 1st of the 7 kammical impulsive-moments (kamma-javana; s. javana) is considered as 'kamma ripening during the life-time', the 7th moment as 'kamma ripening in the next birth', the remaining 5 moments as 'kamma ripening in later births'.

Theo các Chú Giải., như trong: Visuddhi Magga - Thanh Tịnh Đạo XIX, sát na thứ nhất trong 7 sát na đổng lực nghiệp (kamma-javana; xem. javana) được coi là 'nghiệp chín muồi trong kiếp sống', sát na thứ 7 là 'nghiệp chín muồi trong lần tái sinh tiếp theo', 5 sát na còn lại như 'nghiệp chín muồi trong những kiếp sau'.

With regard to their functions one distinguishes:

Về chức năng của chúng, được phân biệt như sau:

1. regenerative (or productive) kamma (janaka-kamma),

1. regenerative (or productive) kamma - Sinh Nghiệp, Là nghiệp lực chi phối sự tái sinh (janaka-kamma - Sinh Nghiệp),

2. supportive (or consolidating) kamma (upatthambhaka kamma),

2. supportive (or consolidating) kamma - Nghiệp Trợ Duyên hay còn gọi là Trì Nghiệp, Là nghiệp lực duy trì sự sinh tồn hay thọ mạng của một chúng sanh từ khi mới sinh cho đến lâm chung. (upatthambhaka kamma - Trì Nghiệp),

3. counteractive (suppressive or frustrating) kamma (upapīḷaka kamma)

3. counteractive (suppressive or frustrating) kamma là Chướng nghiệp, là nghiệp lấn áp sanh nghiệp khác có thực tánh đối nghịch lại với mình, là quả nghiệp đối lập với sanh nghiệp và tri nghiệp (upapīḷaka kamma - Chướng Nghiệp)

4. destructive (or supplanting) kamma (upaghātaka- or upacchedaka kamma).

4.destructive (or supplanting) Sát-Hại-Nghiệp upaghātaka - or upacchedaka kamma - đoạn nghiệp, là nghiệp có khả năng phá vỡ hiệu lực trổ quả của nghiệp khác, làm cho nghiệp khác mất hiệu quả.(Kho Tàng Pháp Bảo - HT Giác Giới)

(1) produces the 5 groups of existence (corporeality, feeling, perception, mental formations, consciousness) at rebirth as well as during life-continuity.

(1) tạo ra 5 nhóm hiện hữu (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) vào lúc tái sinh cũng như trong kiếp sống tương tục.

(2) does not produce kamma-results but is only able to maintain the already produced kamma-results.

(2) không tạo ra quả của nghiệp mà chỉ có thể duy trì những quả nghiệp đã được tạo.

(3) counteracts or suppresses the kamma-results.

(3) chống lại hoặc ngăn chặn các kết quả của nghiệp.

(4) destroys the influence of a weaker kamma and effects only its own result.

(4) phá hủy ảnh hưởng của nghiệp yếu hơn và chỉ tạo ra kết quả của chính nó.

With regard to the priority of their result one distinguishes:

Về mức độ ưu tiên của quả, được phân biệt như sau:

1. weighty kamma (garuka kamma),

1. Trọng-Yếu-Nghiệp- garuka kamma - Trọng-Yếu-Nghiệp là nghiệp trọng có quyền ưu tiên cho quả tái-sinh kiếp sau.

2. habitual kamma (āciṇṇaka- or bahula-kamma),

2. Thường-hành-nghiệp (āciṇṇaka kamma- or bahula-kamma)Thường-hành-nghiệp là nghiệp thường hành hằng ngày đêm, Nếu không có cận-tử-nghiệp thì thường-hành-nghiệp này cho quả tái-sinh kiếp sau.

3. death-proximate kamma (maraṇāsanna kamma),

3. Cận-tử-nghiệp (maraṇāsannakamma hoặc Āsannakamma), Cận-tử-nghiệp là nghiệp phát sinh trong lúc lâm chung.Nếu không có trọng-yếu-nghiệp thì cận-tử-nghiệp này cho quả tái-sinh kiếp sau.

4. stored-up kamma (kaṭattākamma).

4. Bình-thường-nghiệp - Kaṭattākamma: Bình-thường-nghiệp là nghiệp bình thường kém thua 3 loại nghiệp trên, hoặc nghiệp trong kiếp quá-khứ. Nếu không có 3 loại nghiệp trên thì bình-thường- nghiệp này cho quả tái-sinh kiếp sau.

(Nghiệp và Quả của Nghiệp - Tỳ Khưu Hộ Pháp)

(1, 2) The weighty (garuka) and the habitual (bahula) wholesome or unwholesome kamma are ripening earlier than the light and rarely performed kamma. (3) The death-proximate (maraṇāsanna) kamma - i.e. the wholesome or unwholesome volition present immediately before death, which often may be the reflex of some previously performed good or evil action (kamma), or of a sign of it (kamma-nimitta), or of a sign of the future existence (gati-nimitta) - produces rebirth. (4) In the absence of any of these three actions at the moment before death, the stored-up (katattā) kamma will produce rebirth.

(1, 2) Trọng-Yếu-Nghiệp (garuka) và Thường-hành-nghiệp thiện hay bất thiện (bahula) nhẹ hơn và hiếm khi hoàn thành nghiệp. (3) Nghiệp cận tử (maraṇāsanna) - tức là tác ý thiện hay bất thiện có ngay trước khi chết, thường có thể là phản ánh của một số hành động thiện hay ác (kamma) đã thực hiện trước đó, hoặc của một dấu hiệu của nó (kamma- nimitta), hay dấu hiệu của kiếp sống tương lai (gati-nimitta) - tạo ra tái sinh. (4) Bình-thường-nghiệp - Kaṭattākamma, Khi không có bất kỳ hành động nào trong ba nghiệp trên vào thời điểm trước khi chết, nghiệp tích lũy (katattā) sẽ tạo ra tái sinh.

A real, and in the ultimate sense true, understanding of Buddhist kamma doctrine is possible only through a deep insight into the impersonality (s. anattā) and conditionality (s. paṭiccasamuppāda, paccaya) of all phenomena of existence. "Everywhere, in all the forms of existence ... such a one is beholding merely mental and physical phenomena kept going by their being bound up through causes and effects.

Sự hiểu biết thực sự và đúng đắn về giáo lý nghiệp của Phật giáo chỉ có thể thực hiện được thông qua một cái nhìn sâu sắc về tính vô ngã (xem anattā) và giáo lý Thập Nhị Nhân Duyên (xem paṭiccasamuppāda, paccaya - nhân duyên) của mọi hiện tượng hiện hữu. “Ở khắp mọi nơi, trong mọi hình thức hiện hữu... chẳng hạn như con người chỉ là các hiện tượng thân và tâm đơn thuần tiếp tục diễn ra bởi chúng bị ràng buộc bởi nhân và quả.

"No doer does he see behind the deeds, no recipient apart from the kamma-fruit. And with full insight he clearly understands that the wise ones are using merely conventional terms when, with regard to the taking place of any action, they speak of a doer, or when they speak of a receiver of the kamma-results at their arising. Therefore the ancient masters have said:

Vị ấy không thấy người thực hiện đằng sau hành động, không có người nhận ngoài nghiệp quả. Và với trí tuệ hoàn toàn, người ấy hiểu rõ ràng những bậc trí tuệ chỉ sử dụng những thuật ngữ quy ước khi nói về việc xảy ra của bất kỳ hành động nào, họ nói về người thực hiện, hoặc khi họ nói về người nhận quả nghiệp vào lúc chúng phát sinh. Vì thế các bậc thầy xưa đã nói:

'No doer of the deeds is found,
No one who ever reaps their fruits;
Empty phenomena roll on:
This view alone is right and true.

'And whilst the deeds and their results
Roll on, based on conditions all,
There no beginning can be seen,
Just as it is with seed and tree.' " (Vis.M. XIX)

Không có người làm nghiệp
cũng không người gặt quả báo
Chỉ có hiện tượng trôi chảy
thấy khác thế là không đúng

Và khi nghiệp và báo
duy trì vòng quay theo nhân duyên
như hột và cây tiếp nối lẫn nhau
người ta không thể chỉ ra khởi thủy
trong vòng sinh tử ở tương lai
cũng không thể nói là chúng không sanh " (Visuddhi Magga - Thanh Tịnh Đạo XIX)

Kamma (kamma-paccaya) is one of the 24 conditions (paccaya, q.v.) (App.: Kamma).

Nghiệp duyên (kamma-paccaya) là một trong 24 duyên (paccaya, q.v.) (xem phần phụ lục : Kamma).

Literature: Kamma and Rebirth, by Nyanatiloka (WHEEL 9); Survival and Kamma in Buddhist Perspective, by K.N. Jayatilleke (WHEEL 141/143); Kamma and its Fruit (WHEEL 221/224).

Tác phẩm: Nghiệp và Tái sinh, của Nyanatiloka (WHEEL 9); Sự sống còn và Nghiệp theo quan điểm Phật giáo, của K.N. Jayatilleke (WHEEL 141/143); Nghiệp và Quả của nó (WHEEL 221/224)

kamma-accumulation: āyūhana (q.v.)

kamma-accumulation: thành tựu tích luỹ nghiệp, āyūhana (q.v.)

kamma-formations: saṅkhāra, i.e. wholesome or unwholesome volitions (cetanā) manifested as actions of body, speech or mind, form the 2nd link of the formula of dependent origination (paṭiccasamuppāda, q.v.).

kamma-formations : saṅkhāra - pháp hành, tức là các hành thiện hay bất thiện (cetanā) biểu hiện dưới dạng hành động của thân, khẩu hoặc ý, tạo thành mắt xích thứ 2 của thuyết lý duyên khởi (paṭiccasamuppāda, q.v.).

kamma-process: s. bhava, paṭiccasamuppāda.

kamma-process: Hữu xem bhava, Theo nghĩa đen, bhava là trở thành, paṭiccasamuppāda lý duyên khởi.

kamma-produced corporeality: s. samuṭṭhāna.

kamma-produced corporeality: xem samuṭṭhāna = sự phát sanh, căn nguyên, nguyên nhân, khởi sinh, tức hiện tượng sanh khởi của những phần khác nhau cấu thành sắc pháp.

kamma-result: vipāka (q.v.).

kamma-result: vipāka - quả (q.v.).

kamma-round: kamma vatta (s. vatta).

kamma-round: kamma vatta - vòng quanh nghiệp (xem vatta).

kammically acquired corporeality: upādinnarūpa (q.v.).

kammically acquired corporeality: upādinnarūpa - Sắc Thủ Hay Hữu Chấp Thọ Sắc, gồm 18 Sắc Pháp do Sắc Nghiệp sanh, do tham ái và tà kiến chấp thọ chi phối nên chấp cứng không buông bỏ do đó gọi là Sắc Thủ (q.v.).

kammically wholesome, unwholesome, neutral: kusala (q.v.), akusala(q.v.) avyākata (q.v.); cf. Tab. I.. .

kammically wholesome = kusala thiện (q.v.), unwholesome = akusala bất thiện (q.v.), neutral = avyākata vô ký (q.v.); xem Tab. I.. .

karunā: 'compassion', is one of the 4 sublime abodes (brahma-vihāra, q.v.).

karunā: 'từ bi', là một trong Tứ Vô Lượng Tâm (brahma-vihāra, q.v.).

kasiṇa: (perhaps related to Sanskrit krtsna, 'all, complete, whole'), is the name for a purely external device to produce and develop concentration of mind and attain the 4 absorptions (jhāna q.v.). It consists in concentrating one's full and undivided attention on one visible object as preparatory image (parikamma-nimitta), e.g. a colored spot or disc, or a piece of earth, or a pond at some distance, etc., until at last one perceives, even with the eyes closed, a mental reflex, the acquired image (uggaha-nimitta). Now, while continuing to direct one's attention to this image, there may arise the spotless and immovable counter-image (paṭibhāga-nimitta), and together with it the neighbourhood-concentration (upacāra-samādhi) will have been reached. While still persevering in the concentration on the object, one finally will reach a state of mind where all sense-activity is suspended, where there is no more seeing and hearing, no more perception of bodily impression and feeling, i.e. the state of the 1st mental absorption (jhāna, q.v.).

kasiṇa: là biến xứ, là hình ảnh của đề mục đối tượng tu tập tâm (tiếng Phạn krtsna, 'tất cả, hoàn tất, trọn vẹn'), là tên gọi một phương tiện hoàn toàn bên ngoài để tạo ra và phát triển sự tập trung của tâm và đạt được 4 tầng thiền (jhāna q.v.). Nó bao gồm việc tập trung sự chú ý hoàn toàn và không phân tán vào một đối tượng thị giác như hình ảnh chuẩn bị tướng gọi là sơ tướng (parikamma-nimitta), ví dụ: một đốm màu hay một cái đĩa, một mảnh đất, hay một cái ao ở một khoảng cách nào đó, v.v., cho đến khi cuối cùng người ta nhận thức được, ngay cả khi nhắm mắt lại, một phản xạ tinh thần, hình ảnh thu được là học tướng hay là thô tướng (uggaha-nimitta). Bây giờ, trong khi tiếp tục hướng sự chú ý của ta đến hình ảnh này, hình ảnh phản ảnh không tì vết và bất động quang tướng (paṭibhāga-nimitta) có thể khởi lên, và cùng với nó, ta sẽ đạt đến cận định (upacāra-samādhi). Trong khi vẫn kiên trì tập trung vào đối tượng, cuối cùng người ta sẽ đạt đến trạng thái tâm trong đó mọi hoạt động giác quan bị đình chỉ, không còn thấy và nghe, không còn nhận thức về ấn tượng và cảm giác của cơ thể, tức là trạng thái định (jhāna, q.v.)

The 10 kasiṇas mentioned in the Suttas are: earth-kasiṇa, water, fire, wind, blue, yellow, red, white, space, and consciousness. "There are 10 kasiṇa-spheres: someone sees the earth kasiṇa, above, below, on all sides, undivided, unbounded .... someone see the water-kasiṇa, above, below, etc." (M. 77; D. 33) Cf. abhibhāyatan, bhāvanā; further s. Fund. IV.

10 kasiṇa biến xứ được đề cập trong kinh là: 1. Kasiṇa Đất (paṭhavi kasiṇa), 2. Kasiṇa Nước (āpo kasiṇa), 3. Kasiṇa Lửa (tejo kasiṇa), 4. Kasiṇa Gió (vāyo kasiṇa), 5. Kasiṇa Xanh (nīla kasiṇa), 6. Kasiṇa Đỏ (lohita kasiṇa), 7. Kasiṇa Vàng (pīta kasiṇa), 8. Kasiṇa Trắng (odāta kasiṇa), 9. Kasiṇa Ánh sáng (āloka kasiṇa) , 10. Kasiṇa Hư không (ākāsa kasiṇa). “Có 10 biến xứ: có người thấy kasiṇa đất, trên, dưới, tứ phía, không phân chia, không giới hạn… có người thấy kasiṇa nước, trên, dưới, v.v.” (Trung Bộ Kinh 77; Trường Bộ Kinh. 33) Xem abhibhāyatan, bhāvanā;

For space and consciousness-kasiṇa we find in Vis.M. V the names limited space-kasiṇa (paricchinnākāsa-kasiṇa; . . . s. App. ) and light-kasiṇa (āloka-kasiṇa).

Về biến xứ kasiṇa hư không và ánh sáng trong Visuddhi Magga - Thanh Tịnh Đạo V có giải thích cách dùng hư không làm đề mục (paricchinnākāsa-kasiṇa; . . xem phần phụ lục. ) và ánh sáng làm đề mục (āloka-kasiṇa).

For full description see Vis.M. IV-V; also Aṭṭhasālinī Tr. I, 248.

Để rõ chi tiết xem Visuddhi Magga - Thanh Tịnh Đạo chương IV-V và Chú Giải Aṭṭhasālinī Tr. I, 248

kaṭattākamma: 'stored-up kamma'; s. kamma.

kaṭattākamma: 'Tích lũy nghiệp', Còn gọi là nghiệp Vô ý, tức là những loại nghiệp tạo ra trong lúc vô tình, hay những nghiệp nhỏ nhoi chút ít. Loại nghiệp nhỏ nhoi này tích lũy lâu ngày cũng trở thành nhiều và có kết quả lớn.; xem kamma.

kāya (lit: accumulation): 'group', 'body', may either refer to the physical body (rūpa-kāya) or to the mental body (nāma-kāya). In the latter case it is either a collective name for the mental groups (feeling, perception, mental formations, consciousness; s. khandha), or merely for feeling, perception and a few of the mental formations (s. nāma), e.g. in kāya-lahutā, etc. (cf. Tab. II). Kāya has this same meaning in the standard description of the 3rd absorption (jhāna, q.v.) "and he feels joy in his mind or his mental constitution (kāya)", and (e.g. Pug. 1-8) of the attainment of the 8 deliverances (vimokkha, q.v.); "having attained the 8 deliverances in his mind, or his person (kāya)." - Kāya is also the 5th sense-organ, the body-organ; s. āyatana, dhātu, indriya.

kāya (lit: tích lũy): 'nhóm', 'thân thể', có thể ám chỉ cơ thể vật chất (rūpa-kāya - sắc thân, thân vật lý) hoặc danh thân (nāma-kāya). Trong trường hợp sau, nó hoặc là tên gọi chung của các nhóm tâm (thọ, tưởng, hành, thức; xem khandha), hoặc chỉ đơn thuần là cảm giác, tưởng và một số hành (xem nāma), ví dụ: trong kāya-lahutā, v.v. (xem Tab. II). Kāya có ý nghĩa tương tự trong mô tả tiêu chuẩn về tầng thiền thứ 3 (jhāna, q.v.) "và vị hành giả cảm thấy vui vẻ trong tâm hoặc thể chất tinh thần của mình (kāya)", và (ví dụ: Pug. 1-8) về việc đạt được 8 tầng thiền. các giải thoát (vimokkha, q.v.); “đã đạt được 8 sự giải thoát trong tâm mình, hay trên thân (kāya) của mình.” - Kāya cũng là giác quan thứ 5, cơ quan thân thể; xem āyatana, dhātu, indriya.

kāya-gatā-sati: 'mindfulness with regard to the body', refers sometimes (e.g. Vis.M. VIII, 2) only to the contemplation on the 32 parts of the body, sometimes (e.g. M. 119) to all the various meditations comprised under the 'contemplation of the body' (kāyānupassanā), the 1st of the 4 'foundations of mindfulness' (Satipaṭṭhāna, q.v.), consisting partly in concentration (samādhi) exercises, partly in insight (vipassanā) exercises. On the other hand, the cemetery meditations (sīvathika, q.v.) mentioned in the Satipaṭṭhāna S.(M. 10) are nearly the same as the 10 contemplations of loathsomeness (asubha-bhāvanā, q.v.). of Vis.M. VI, whereas elsewhere the contemplation on the 32 parts of the body is called the 'reflection on impurity' (paṭikkūla-saññā).

kāya-gatā-sati: 'Niệm Thân hay là Thân Hành Niệm', đôi khi (ví dụ trong Visuddhi Magga - Thanh Tịnh Đạo VIII, 2) chỉ đề cập đến việc quán 32 bộ phận của cơ thể, trong khi (ví dụ Trung Bộ Kinh 119) đề cập đến tất cả các bộ phận khác nhau của cơ thể 'Thân quán niệm xứ' (kāyānupassanā), thiền thứ nhất trong 4 'nền tảng của chánh niệm' (Satipaṭṭhāna, q.v.), bao gồm một phần trong các bài Thiền Chỉ (samādhi), một phần trong các bài tập Thiền Quán Thiền Minh Sát (vipassanā). Mặt khác, các Thiền Quán tha ma mộ địa (sīvathika, q.v.) được đề cập trong Kinh Niệm Xứ - Satipaṭṭhāna xem (Trung Bộ Kinh 10) gần giống như 10 quán tưởng bất tịnh (asubha-bhāvanā, q.v.). của Visuddhi Magga - Thanh Tịnh Đạo VI, trong khi ở những nơi khác, việc quán 32 phần của cơ thể được gọi là 'quán tưởng về sự bất tịnh' (paṭikkūla-saññā).

In such texts as: 'One thing, o monks, developed and repeatedly practised, leads to the attainment of wisdom. It is the contemplation on the body' (A.I), the reference is to all exercises mentioned in the 1st Satipaṭṭhāna.

Trong những kinh văn như: ‘Này các Tỷ-kheo, có một điều, được tu tập và thực hành nhiều lần, sẽ dẫn đến sự đạt được trí tuệ. Đó là quán thân' (A.I), ám chỉ đến tất cả các sự tu tập được đề cập trong kinh Niệm Xứ Satipaṭṭhāna điều thứ nhất.

Vis.M. VIII, 2 gives a detailed description and explanation of the method of developing the contemplation on the 32 parts of the body. This exercise can produce the 1st absorption only (jhāna, q.v.) The stereotype text given in the Satipaṭṭhāna Sutta and elsewhere - but leaving out the brain - runs as follows:

Visuddhi Magga - Thanh Tịnh Đạo VIII, cho 2 mô tả và giải thích chi tiết phương pháp phát triển quán niệm 32 phần thể trược của thân. Bài tập này chỉ có thể tạo ra sự nhập định tầng thiền thứ nhất (jhāna, q.v.). Kinh Văn giống như vậy được đưa ra trong Kinh Niệm Xứ Satipaṭṭhāna và những nơi khác - nhưng không tính đến trí tuệ- như sau:

"And further, o monks, the monk contemplates this body from the soles of the feet upward, and from the tops of the hairs downward, with skin stretched over it, and filled with manifold impurities: 'This body has hairs of the head, hairs of the body, nails, teeth, skin, flesh, sinews, bones, marrow, kidneys, heart, liver, diaphragm, spleen, lungs, intestines, bowels, stomach, excrement, bile, phlegm, pus, blood, sweat, fat, tears, skin grease, spittle, nasal mucus, oil of the joints, and urine ...."

“Và nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo quán thân này từ lòng bàn chân trở lên, từ đỉnh đầu tóc trở xuống, với lớp da trải dài trên nó, và chứa đầy chất bất tịnh: 'Thân này có tóc, lông, móng, răng, da, thịt, gân, xương, tủy, thận, tim, gan, cơ hoành, lá lách, phổi, ruột, ruột, dạ dày, phân, mật, đờm, mủ, máu, mồ hôi, mỡ, nước mắt, mỡ da, nước bọt, nước mũi, dầu khớp, nước tiểu…”

Vis.M. VIII, 2 says "By repeating the words of this exercise one will become well acquainted with the wording, the mind will not rush here and there, the different parts will become distinct and appear like a row of fingers, or a row of hedge-poles. Now, just as one repeats the exercise in words, one should do it also in mind. The repeating in mind forms the condition for the penetration of the characteristic marks.... He who thus has examined the parts of the body as to colour, shape, region, locality and limits, and considers them one by one, and not too hurriedly, as something loathsome, to such a one, while contemplating the body, all these things at the same time are appearing distinctly clear. But also when keeping one's attention fixed outwardly (i.e. to the bodies of other beings), and when all the parts appear distinctly, then all men and animals moving about lose the appearance of living beings and appear like heaps of many different things. And it looks as if those foods and drinks, being swallowed by them, were being inserted into this heap of things. Now, while again and again one is conceiving the idea 'Disgusting! Disgusting!' - omitting in due course several parts - gradually the attainment - concentration (appanā-samādhi, i.e. the concentration of the jhāna) will be reached. In this connection, the appearing of forms ... is called the acquired image (uggaha-nimitta), the arising of loathsomeness, however, the counter-image (paṭibhāga-nimitta)."

Visuddhi Magga - Thanh Tịnh Đạo VIII, 2 nói: “Bằng cách lặp lại các từ của bài tập này, người ta sẽ quen dần với cách diễn đạt, tâm trí sẽ không vội vã đây đó, các phần khác nhau sẽ trở nên rõ ràng và xuất hiện như một hàng ngón tay, hoặc một loại cột hàng rào. Bây giờ, giống như người ta lặp lại bài tập bằng lời nói, người ta cũng nên làm điều đó trong tâm. Sự lặp lại trong tâm tạo điều kiện cho sự thâm nhập của các dấu hiệu đặc trưng… Như vậy, người đã khảo sát các bộ phận của thân về màu sắc, hình dạng, vùng, vị trí và giới hạn, và xem chúng từng phần một, và không quá vội vàng, như một cái gì đáng ghê tởm đối với một người như vậy, trong khi quán thân, tất cả những điều này. mọi thứ cùng lúc đang xuất hiện rõ ràng rõ ràng. Nhưng cũng vậy khi giữ sự chú ý của mình cố định hướng ra ngoài (tức là quán cơ thể của những chúng sinh khác), và khi tất cả các bộ phận xuất hiện rõ ràng, thì tất cả con người và động vật di chuyển đều mất đi hình dáng của chúng sinh và xuất hiện như một đống nhiều thứ khác nhau. Và có vẻ như những đồ ăn thức uống đó, bị chúng nuốt chửng, đã được nhét vào đống đồ vật này. Bây giờ, trong khi người ta cứ tưởng tượng đi nghĩ lại ý tưởng 'Thật kinh tởm! Kinh tởm!' - bỏ qua một số phần theo đúng trình tự - dần dần đạt được - định (appanā-samādhi, tức là định của thiền jhāna) sẽ đạt được. Trong mối liên hệ này, sự xuất hiện của các sắc tướng... được gọi là hình ảnh thu được (uggaha-nimitta), sự phát sinh của sự bất tịnh, tuy nhiên, sự xuất hiện của hình ảnh phản tác dụng (paṭibhāga-nimitta)."

kāya-kamma: 'bodily action'; s. kamma, kammapatha.

kāya-kamma: 'thân nghiệp'; xem kamma, kammapatha là nghiệp đạo, theo nghĩa đen "tiến trình của hành động" cũng được sử dụng trong ý nghĩa nầy.

kāya-kammaññatā, k.-lahutā, k.-mudutā, k.-pāguññatā, k.-passaddhi, k.-ujukatā ; s. Tab. II. For passaddhi, s. further bojjhaṅga.

kāya-kammaññatā là Thích Thân, kāya-lahutā là khinh thân, kāya-mudutā là nhu thân, kāya-pāguññatā là Thuần thân, kāya-passaddhi là tịnh thân, kāya-ujukatā là Trực Tánh ; xem Tab. II. cho từ vựng passaddhi, xem ý nghĩa khác bojjhaṅga - Giác Chi.

kāya-lahutā: agility or lightness of mental factors (s. lahutā).

kāya-lahutā: Thân Khinh An, sự nhanh nhẹn hay nhẹ nhàng của các tâm sở (s. lahutā). (xem lahutā).

kāyānupassanā: 'contemplation of the body', is one of the 4 foundations of mindfulness; s. Satipaṭṭhāna.

kāyānupassanā: 'Thân quán niệm xứ’, là một trong Tứ Niệm Xứ', xem Satipaṭṭhāna.

kāya-passaddhi: tranquillity of mental factors, s. bojjhaṅga.

kāya-passaddhi: Tịnh-thân sự yên tĩnh của các yếu tố tinh thần, xem bojjhaṅga - Giác Chi.

kāya-sakkhi: 'body-witness', is one of the 7 noble disciples (s. ariya-puggala, B.). He is one who "in his own person (lit. body) has attained the 8 deliverances (vimokkha, q.v.), and after wisely understanding the phenomena, the cankers have partly come to extinction" (Pug. 32). In A. IX, 44 it is said: "A monk, o brother, attains the 1st absorption (jhāna, q.v.), and as far as this domain reaches,- so far he has realized it in his own person. Thus the Blessed One calls such a person a body-witness in certain respects. (The same is then repeated with regard to the 7 higher absorptions). Further again, o brother, the monk attains the extinction of perception and feeling (s. nirodha-samāpatti), and after wisely understanding the phenomena, all the cankers come to extinction. Thus, o brother, the Blessed One calls such a person a body-witness in all respects."

kāya-sakkhi: là hạng Thân Chứng. là người tự Thân chứng đắc các tịch tịnh giải thoát vô sắc vượt qua các sắc, và sau khi thấy với trí tuệ, một số lậu hoặc của vị ấy đã được đoạn trừ. Là một trong 7 thánh đệ tử (xem ariya-puggala-Thánh nhân.). Vị ấy là người “trong chính con người của mình (thân) đã đạt được 8 sự giải thoát (vimokkha, q.v.), và sau khi hiểu biết một cách sáng suốt các hiện tượng, các lậu hoặc đã phần nào diệt trừ” (Pug. 32). Trong Tăng Chi IX, 44 có nói: “Này Hiền giả, một tu sĩ đạt đến tầng thiền thứ nhất (jhāna, q.v.), và cho đến khi đạt đến địa hạt này, – cho đến nay vị ấy đã chứng ngộ nó trong chính con người mình. Ở một số khía cạnh, người ta gọi một người như vậy là thân chứng (điều tương tự sau đó được lặp lại đối với 7 tầng thiền cao hơn). và sau khi trí tuệ hiểu biết các hiện tượng, tất cả các lậu hoặc đều tiêu diệt. Như vậy, này Hiền giả, Thế Tôn gọi người như vậy là thân chứng trong mọi phương diện.”

kāya-viññatti: s. viññatti.

kāya-viññatti: Thân biểu tri, xem viññatti.

khalu-pacchā-bhattikaṅga: s. dhutaṅga .

khalu-pacchā-bhattikaṅga: Hạnh không ăn hậu thời, tức là khi đã dừng bữa ăn rồi thì không ăn thêm thức ăn khác sau đó nữa. Xem dhutaṅga - pháp đầu đà, pháp khổ hạnh..

khaṇa: moment'; s. citta-kkhaṇa

khaṇa: 'sát na, một chập, một giây, một dịp thuận tiện'; xem citta-kkhaṇa - sát na tâm.

khandha: the 5 'groups (of existence)' or 'groups of clinging' (upādānakkhandha); alternative renderings: aggregates, categories of clinging's objects. These are the 5 aspects in which the Buddha has summed up all the physical and mental phenomena of existence, and which appear to the ignorant man as his ego, or personality, to wit:

khandha: là Uẩn là khối, nhóm, ngũ uẩn hay ‘năm nhóm tập hợp’ (upādānakkhandha);, gồm những gì được xem là chúng sanh, con người là một tổng hợp của năm uẩn (khandha), những cách diễn đạt khác: các uẩn, các loại đối tượng của sự bám víu. Đây là 5 khía cạnh mà Đức Phật đã tóm tắt tất cả các hiện tượng vật chất và tinh thần của sự hiện hữu, và chúng xuất hiện đối với người vô minh như bản ngã hay tính cách, như sau:

(1) the corporeality group (rūpa-kkhandha),

(1) Sắc Uẩn là nhóm thể chất vô tri, hằng tiêu hoại đổi thay. Nên Sắc Uẩn ví như bọt nước. (rūpa-kkhandha),

(2) the feeling group (vedanā-kkhandha),

(2)Thọ Uẩn là nhóm cảm thọ có 5 thứ cảm thọ: Khổ, Lạc, Ưu, Hỷ và Xả. Thọ Uẩn ví như bong bóng nước.(vedanā-kkhandha)

(3) the perception group (saññā-kkhandha),

(3) 3) Tưởng Uẩn là nhóm ký ức nhớ lại, nhận ra, hồi, tưởng. Có 6 thứ là Sắc Tưởng, Thinh Tưởng, Khí Tưởng, Vị Tưởng, Xúc Tưởng và Pháp Tưởng. Tưởng Uẩn ví như hoa đóm trên hư không. (saññā-kkhandha),

(4) the mental-formation group (saṅkhāra-kkhandha)

(4) Hành Uẩn là nhóm hành động Thiện và Bất Thiện. Hành Uẩn ví như cây chuối (không có lõi). (saṅkhāra-kkhandha)

(5) the consciousness-group (viññāṇa-kkhandha).

(5) Thức Uẩn là nhóm năng tri (biết cảnh). Thức Uẩn có 6 thứ: Nhãn Thức, Nhĩ Thức, Tỷ Thức, Thiệt Thức, Thân Thức và Ý Thức. Thức Uẩn dụ như người đóng kịch. (viññāṇa-kkhandha).

(Vi Diệu Pháp Nhập Môn - HT Giác Chánh)

"Whatever there exists of corporeal things, whether past, present or future, one's own or external, gross or subtle, lofty or low, far or near, all that belongs to the corporeality group. Whatever there exists of feeling ... of perception ... of mental formations ... of consciousness ... all that belongs to the consciousness-group" (S. XXII, 48). - Another division is that into the 2 groups: mind (2-5) and corporeality (1) (nāma-rūpa), whilst in Dhammasaṅganī, the first book of the Abhidhamma, all the phenomena are treated by way of 3 groups: consciousness (5), mental factors (2-4), corporeality (1), in Pāḷi citta, cetasika, rūpa. Cf. Guide I.

Bất cứ sinh vật nào có sự sinh tồn, dù quá khứ, hiện tại hay vị lai, bên trong hay bên ngoài, thô thiển hay vi tế, cao thượng hay thấp hèn, xa hay gần, tất cả đều thuộc nhóm sắc pháp. Bất cứ sinh vật sinh tồn nào thuộc về thọ... thuộc tưởng... thuộc hành... của thức... tất cả những gì thuộc về nhóm thức" (S. XXII, 48). - Một cách phân chia khác là chia thành 2 nhóm : tâm (2-5) và sắc pháp (1) (nāma-rūpa), trong khi ở Dharmasaṅganī, cuốn đầu tiên của Vi Diệu Pháp, tất cả các hiện tượng được xử lý theo 3 nhóm: tâm (5), tâm sở (2- 4), sắc thể (1), trong Pāḷi citta, cetasika, rūpa. Xem Hướng dẫn I.

What is called individual existence is in reality nothing but a mere process of those mental and physical phenomena, a process that since time immemorial has been going on, and that also after death will still continue for unthinkably long periods of time. These 5 groups, however, neither singly nor collectively constitute any self-dependent real ego-entity, or personality (attā), nor is there to be found any such entity apart from them. Hence the belief in such an ego-entity or personality, as real in the ultimate sense, proves a mere illusion.

Cái gọi là sự sinh tồn của một chúng sinh trong thực tế không gì khác hơn là một quá trình đơn thuần của những hiện tượng vật chất (Sắc) và tinh thần (Danh) , một quá trình đã diễn ra từ thời xa xưa và cả sau khi chết, vẫn sẽ tiếp tục trong những khoảng thời gian dài không thể tưởng tượng được. Tuy nhiên, Ngủ Uẩn này không tạo thành một thực thể tự ngã hay nhân cách (attā) thực sự độc lập hay tập thể nào, cũng như không tìm thấy thực thể nào như vậy ngoài chúng. Do đó, niềm tin vào một thực thể bản ngã hay cá tính như vậy là có thật theo nghĩa tối thượng, chứng tỏ chỉ là một ảo tưởng.

"When all constituent parts are there,
The designation 'cart' is used;
Just so, where the five groups exist,
Of 'living being' do we speak." (S. V. 10).

Chúng sanh được hình thành,
Như bộ phận quy tụ,
Tên xe được nói lên.
Cũng vậy, uẩn quy tụ,
Thông tục gọi chúng sanh.

(Tương Ưng V. 10 - Kinh Vajirà - HT Minh Châu dịch Việt)

The fact ought to be emphasized here that these 5 groups, correctly speaking, merely form an abstract classification by the Buddha, but that they as such, i.e. as just these 5 complete groups, have no real existence, since only single representatives of these groups, mostly variable, can arise with any state of consciousness. For example, with one and the same unit of consciousness only one single kind of feeling, say joy or sorrow, can be associated and never more than one. Similarly, two different perceptions cannot arise at the same moment. Also, of the various kinds of sense-cognition or consciousness, only one can be present at a time, for example, seeing, hearing or inner consciousness, etc. Of the 50 mental formations, however, a smaller or larger number are always associated with every state of consciousness, as we shall see later on.

Sự thật cần được nhấn mạnh ở đây là Ngũ Uẩn, nói một cách chính xác, chỉ đơn thuần là sự phân loại trừu tượng của Đức Phật, nhưng xét về bản chất, chúng, tức là Ngũ Uẩn này, không tồn tại thực sự, vì chỉ có những đại diện duy nhất của các nhóm này xuyên qua các căn là nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt và thân thức , hầu hết đều có thể thay đổi, có thể phát sinh với bất kỳ trạng thái ý thức nào. Ví dụ, với cùng một đơn vị ý thức, chỉ có một loại cảm giác duy nhất, chẳng hạn như niềm vui hay nỗi buồn, có thể được liên kết và không bao giờ nhiều hơn một. Tương tự như vậy, hai nhận thức khác nhau không thể nảy sinh cùng một lúc. Ngoài ra, trong số các loại giác quan hoặc ý thức khác nhau, chỉ có một loại có thể hiện diện tại một thời điểm, chẳng hạn như thấy, nghe hoặc ý thức bên trong, v.v. Tuy nhiên, trong số 50 tâm sở, số lượng ít hơn hoặc lớn hơn luôn đi kèm với nhau. với mọi trạng thái ý thức, như chúng ta sẽ thấy sau này.

Some writers on Buddhism who have not understood that the five khandha are just classificatory groupings, have conceived them as compact entities ('heaps', 'bundles'), while actually, as stated above, the groups never exist as such, i.e. they never occur in a simultaneous totality of all their constituents. Also those single constituents of a group which are present in any given body- and -mind process, are of an evanescent nature, and so also their varying combinations. Feeling, perception and mental formations are only different aspects and functions of a single unit of consciousness. They are to consciousness what redness, softness, sweetness, etc. are to an apple and have as little separate existence as those qualities.

Một số tác giả về Phật giáo không hiểu rằng Ngũ Uẩn chỉ là những nhóm phân loại, đã quan niệm chúng như những thực thể nhỏ gọn ('đống', 'nhóm'), trong khi thực tế, như đã nói ở trên, các nhóm không bao giờ tồn tại như vậy, tức là chúng không bao giờ tồn tại. xảy ra trong một tổng thể đồng thời của tất cả các thành phần của chúng. Ngoài ra, những thành phần đơn lẻ của một nhóm hiện diện trong bất kỳ quá trình cơ thể và tâm trí nào cũng có tính chất ảo tưởng và sự kết hợp khác nhau của chúng cũng vậy. Thọ, tưởng và hành chỉ là những khía cạnh và chức năng khác nhau của một đơn vị ý thức duy nhất. Đối với ý thức, chúng có màu đỏ, độ mềm, vị ngọt, v.v. như thế nào đối với một quả táo và có rất ít sự tồn tại riêng biệt như những đặc tính đó.

In S. XXII, 56, there is the following short definition of these 5 groups:

Trong Tương Ưng XXII, 56, có định nghĩa ngắn gọn sau đây về Ngũ Uẩn này:

(Kinh Thủ Chuyển - Parivatta Sutta(SN 22.56) HT Minh Châu dịch Việt)

"What, o monks, is the corporeality-group? The 4 primary elements (Mahā-bhūta or dhātu) and corporeality depending thereon, this is called the corporeality-group.

Này các Tỷ-kheo, thế nào là sắc?
-Bốn đại chủng 1 và sắc do bốn đại chủng tạo thành. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là sắc.
-Do các món ăn tập khởi nên sắc tập khởi.
-Do các món ăn đoạn diệt nên sắc đoạn diệt.
-Đây là con đường Thánh đạo Tám ngành đưa đến sắc đoạn diệt, tức là Chánh tri kiến, Chánh Tư duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh tấn, Chánh Niệm, Chánh định.
-Duyên sắc khởi lên lạc hỷ gì, đây là vị ngọt của sắc.
-Sự vô thường, khổ, chịu sự biến hoại của sắc, đây là sự nguy hại của sắc.
-Sự nhiếp phục dục tham đối với sắc, sự đoạn tận dục tham đối với sắc, đây là xuất ly của sắc.

"What, o monks, is the feeling-group? There are 6 classes of feeling: due to visual impression, to sound impression, to odour impression, to taste impression, to bodily impression, and to mind impression....

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là thọ?
-Này các Tỷ-kheo, có sáu thọ thân này:
Thọ do nhãn xúc sanh.
Thọ do nhĩ xúc sanh.
Thọ do tỷ xúc sanh.
Thọ do thiệt xúc sanh.
Thọ do thân xúc sanh.
Thọ do ý xúc sanh.
-Này các Tỷ-kheo, đây gọi là thọ.
-Do xúc tập khởi nên thọ tập khởi.
-Do xúc đoạn diệt nên thọ đoạn diệt.
-Đây là con đường Thánh đạo Tám ngành đưa đến thọ đoạn diệt, tức là Chánh tri kiến, Chánh Tư duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh tấn, Chánh Niệm, Chánh định.
-Do duyên thọ khởi lên lạc hỷ gì, đây gọi là vị ngọt của thọ.
-Cảm thọ vô thường, khổ, vô ngã, đây gọi là nguy hiểm của thọ.
-Sự nhiếp phục dục tham, sự đoạn tận dục tham đối với thọ, đây gọi là xuất ly của thọ.

"What, o monks, is the perception-group? There are 6 classes of perception: perception of visual objects, of sounds, of odours, of tastes, of bodily impressions, and of mental impressions....

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là tưởng?
Này các Tỷ-kheo, có sáu tưởng thân này:
Sắc tưởng,
Thanh tưởng,
Hương tưởng,
Vị tưởng,
Xúc tưởng,
Pháp tưởng.
-Này các Tỷ-kheo, đây gọi là tưởng.
-Do xúc tập khởi nên tưởng tập khởi.
-Do xúc đoạn diệt nên tưởng đoạn diệt.
-Đây là con đường Thánh đạo Tám ngành đưa đến thọ đoạn diệt, tức là Chánh tri kiến, Chánh Tư duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh tấn, Chánh Niệm, Chánh định.
-Do duyên tưởng khởi lên lạc hỷ gì, đây gọi là vị ngọt của tưởng.
-Tưởng vô thường, khổ, vô ngã, đây gọi là nguy hiểm của tưởng.
-Sự nhiếp phục dục tham, sự đoạn tận dục tham đối với thọ, đây gọi là xuất ly của tưởng.

"What, o monks, is the group of mental formations? There are 6 classes of volitional states (cetanā): with regard to visual objects, to sounds, to odours, to tastes, to bodily impressions and to mind objects....

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là các hành?
Này các Tỷ-kheo, có sáu tư thân:
Sắc tư thân,
Thanh tư thân,
Hương tư thân,
Vị tư thân,
Xúc tư thân,
Pháp tư thân.
-Này các Tỷ-kheo, đây được gọi là các hành.
-Do xúc tập khởi nên các hành tập khởi.
-Do xúc đoạn diệt nên các hành đoạn diệt.
-Đây là con đường Thánh đạo tám ngành, tức là Chánh tri kiến, Chánh Tư duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh tấn, Chánh Niệm, Chánh định.
-Do duyên hành khởi lên lạc hỷ gì, đây là vị ngọt của hành.
-Các hành vô thường, khổ, vô ngã, đây là nguy hiểm của hành.
-Sự nhiếp phục dục tham, sự đoạn tận dục tham đối với các hành, đây là xuất ly của các hành.

"What, o monks, is the consciousness-group? There are 6 classes of consciousness: eye-consciousness, ear-consciousness, nose-consciousness, tongue-consciousness, body-consciousness, and mind-consciousness."

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là thức?
Này các Tỷ-kheo, có sáu thức thân này:
Nhãn thức,
Nhĩ thức,
Tỷ thức,
Thiệt thức,
Thân thức,
Ý thức.
-Này các Tỷ-kheo, đây gọi là thức.
-Do danh sắc tập khởi nên thức tập khởi.
-Do danh sắc đoạn diệt nên thức đoạn diệt.
-Đây là con đường Thánh đạo Tám ngành đưa đến thức đoạn diệt đối với thức, tức là Chánh tri kiến, Chánh Tư duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh tấn, Chánh Niệm, Chánh định.
-Do duyên thức khởi lên lạc hỷ gì, đây là vị ngọt của thức.
-Thức vô thường, khổ, vô ngã, đây là nguy hiểm của thức.
-Sự nhiếp phục dục tham, sự đoạn tận dục tham đối với thức, đây là xuất ly của thức.

About the inseparability of the groups it is said:

Trong kinh văn nói về sự không thể tách rời của các nhóm như sau:

''Whatever, o brother, there exists of feeling, of perception and of mental formations, these things are associated, not dissociated, and it is impossible to separate one from the other and show their difference. For whatever one feels, one perceives; and whatever one perceives, of this one is conscious" (M. 43).

Này Hiền giả, cảm thọ như vậy, tưởng như vậy, thức như vậy, những pháp này được kết hợp, không phải không được kết hợp. Không có thể nêu lên sự sai khác giữa những pháp này, sau khi phân tích chúng nhiều lần. Này Hiền giả, điều gì cảm thọ được là tưởng tri được, điều gì tưởng tri được là cảm thọ được. Do vậy, những pháp này được kết hợp, không phải không được kết hợp, và không có thể nêu lên sự sai khác giữa những pháp này, sau khi phân tích chúng nhiều lần. (Trung Bộ Kinh - 43 Kinh Đại Kinh Phương Quảng - Mahavedalla Sutta - HT Minh Châu dịch).

Further: "Impossible is it for anyone to explain the passing out of one existence and the entering into a new existence, or the growth, increase and development of consciousness independent of corporeality, feeling, perception and mental formations" (S. XII, 53)

Hơn nữa: “Không ai có thể giải thích được sự chấm dứt của một kiếp sống và sự tái sinh một kiếp sống mới, hay sự tăng trưởng, lớn mạnh và phát triển của ý thức độc lập với sắc, thọ, tưởng và hành” (Tương Ưng Kinh XII, 53 )

For the inseparability and mutual conditionality of the 4 mental groups s. paccaya (6, 7).

Vì sự bất khả phân và sự hỗ tương của 4 nhóm tâm xem paccaya (6.sahajāta paccaya = Câu Sanh Duyên và 7. aññamañña paccaya = Hổ Tương Duyên ).

Regarding the impersonality (anattā) and emptiness (suññatā) of the 5 groups, it is said in S. XXII, 49:

Về tính vô ngã (anattā) và tính không (suññatā) của ngũ uẩn, Tương Ưng Kinh XXII, 49 có nói:

"Whatever there is of corporeality, feeling, perception, mental formations and consciousness, whether past, present or future, one's own or external, gross or subtle, lofty or low, far or near, this one should understand according to reality and true wisdom: 'This does not belong to me, this am I not, this is not my Ego.' "

“Bất cứ cái gì thuộc sắc, thọ, tưởng, hành và thức, dù quá khứ, hiện tại hay vị lai, hoặc nội hay ngoại, thô hay tế, cao hay thấp, xa hay gần, người này nên hiểu theo thực tế và trí tuệ thực sự. : 'Cái này không thuộc về tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải là Bản ngã của tôi.' "

Further in S. XXII, 95: "Suppose that a man who is not blind were to behold the many bubbles on the Ganges as they are driving along; and he should watch them and carefully examine them. After carefully examining them, however, they will appear to him empty, unreal and unsubstantial. In exactly the same way does the monk behold all the corporeal phenomena ... feelings ... perceptions ... mental formations ... states of consciousness, whether they be of the past, present or future ... far or near. And he watches them and examines them carefully; and after carefully examining them, they appear to him empty, unreal and unsubstantial."

Hơn nữa trong Tương Ưng Kinh XXII, 95: -"Ví như, này các Tỷ-kheo, sông Hằng này chảy mang theo đống bọt nước lớn. Có người có mắt nhìn đống bọt nước ấy, chuyên chú, như lý quán sát. Do nhìn chuyên chú, như lý quán sát nó, đống bọt nước ấy hiện rõ ra là trống không, hiện rõ ra là rỗng không, hiện rõ ra là không có lõi cứng. Làm sao, này các Tỷ-kheo, lại có lõi cứng trong đống bọt nước được? Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, phàm có sắc ... thọ.... tưởng ... hành.... thức gì thuộc quá khứ, vị lai, hiện tại, hoặc nội hay ngoại, hoặc thô hay tế, hoặc liệt hay thắng, hoặc xa hay gần; vị Tỷ-kheo thấy sắc ... thọ.... tưởng ..... hành.....thức..... , chuyên chú, như lý quán sát sắc ... thọ.... tưởng ..... hành.....thức..... Do vị Tỷ-kheo nhìn chuyên chú, như lý quán sát, chúng hiện rõ ra là trống không, hiện rõ ra là rỗng không, hiện rõ ra là không có lõi cứng. Làm sao, này các Tỷ-kheo, lại có lõi cứng trong sắc ... thọ.... tưởng ..... hành.....thức..... được"

The 5 groups are compared, respectively, to a lump of froth, a bubble, a mirage, a coreless plantain stem, and a conjuring trick (S. XXII, 95).

Ngũ Uẩn lần lượt được so sánh với một khối bọt, một bong bóng, một ảo ảnh, một thân cây chuối không lõi và một trò ảo thuật (Tương Ưng Kinh XXII, 95).

See the Khandha Saṃyutta (S. XXII); Vis.M. XIV.

Xem kinh Khandha Saṃyutta Tương Ưng Uẩn, Tương Ưng Kinh. XXII); Visuddhi Magga - Thanh Tịnh Đạo XIV.

>

SUMMARY OF THE 5 GROUPS

I. Corporeality Group

(rūpa-kkhandha)

SUMMARY OF THE 5 GROUPS

I. Nhóm Vật Chất Uẩn

(Sắc Uẩn)

A. Underived (no-upādā): 4 elements

the solid, or earth-element (paṭhavī-dhātu)

the liquid, or water-element (āpo-dhātu)

heat, or fire-element (tejo-dhātu)

motion, or wind-element (vāyo-dhātu)

A. Không phát sinh (no-upādā): 4 yếu tố

Địa giới (Paṭhavīdhātu), nguyên tố đất, là sắc thực tính có trạng thái cứng hoặc mềm, nguyên tố tạo ra hình thể của các sắc pháp khác. (paṭhavī-dhātu)

Thủy giới (Āpodhātu), nguyên tố nước, là sắc thực tính có trạng thái kết dính, quến tụ... làm cho các sắc pháp bọn được gom lại. (āpo-dhātu)

Hỏa giới (Tejodhātu), nguyên tố lửa, là sắc thực tính có trạng thái nóng hoặc lạnh; có tính năng đốt cháy, làm cho các sắc pháp khác biến đổi. (tejo-dhātu)

Phong giới (Vāyodhātu), nguyên tố gió, là sắc thực tính có trạng thái di động, chuyển động, có tính năng làm cho các sắc pháp khác co giãn chuyển dịch. (vāyo-dhātu)

(Kho Tàng Pháp Học - HT Giác Giới)

B. Derived (upādā): 24 secondary phenomena

Physical sense-organs of: seeing, hearing, smelling, tasting, body

B. Nguồn gốc (upādā): 24 hiện tượng phụ

Các cơ quan cảm giác vật lý: nhìn, nghe, ngửi, nếm, thân

Physical sense-objects: form, sound, odour, taste, (bodily impacts)

Các đối tượng giác quan vật lý: sắc, thinh, khí, vị, (xúc)

Bodily impacts' (phoṭṭhabba) are generally omitted in this list, because these physical objects of body-sensitivity are identical with the afore-mentioned solid element, heat and motion element. Hence their inclusion under 'derived corporeality' would be a duplication.

Xúc (phoṭṭhabba) thường bị bỏ qua trong danh sách này, bởi vì những đối tượng vật chất nhạy cảm với cơ thể này giống hệt với yếu tố địa giới, hỏa giới và phong giới đã đề cập ở trên. Do đó, việc đưa chúng vào danh sách 'sở tạo sắc / sắc y đại sinh' sẽ là một sự trùng lặp.

femininity (itthindriya)

virility (purisindriya)

physical base of mind (hadaya-vatthu, q.v.)

bodily expression (kāya-viññatti; s. viññatti)

verbal expression (vacī-viññatti)

physical life (rūpa jīvita; s. jīvita)

space element (ākāsa-dhātu, q.v.)

physical agility (rūpassa lahutā)

physical elasticity (rūpassa mudutā)

physical adaptability (rūpassa kammaññatā)

physical growth (rūpassa upacaya)

physical continuity (rūpassa santati; s. santāna)

decay (jarā, q.v.)

impermanence (aniccatā)

nutriment (āhāra, q.v.)

Nữ quyền (itthindriya)

Nam quyền (purisindriya)

sắc ý vật (hadaya-vatthu, q.v.)

Thân biểu tri (kāya-viññatti; s. viññatti)

sắc ngữ biểu tri (vacī-viññatti)

mạng sống (rūpa jīvita; s. jīvita)

Hư Không Giới (ākāsa-dhātu, q.v.)

Sắc nhẹ (rūpassa lahutā)

Sắc mềm (rūpassa mudutā)

Sắc thích sự (rūpassa kammaññatā)

Sắc tích tập (rūpassa upacaya)

Sắc thừa kế (sự liên tục của sắc thực tính) (rūpassa santati; s. santāna)

lão (jarā, q.v.)

Trạng thái vô thường , sanh diệt, biến đổi (aniccatā)

vật thực (āhāra, q.v.)

II. Feeling Group

(vedanā-kkhandha)

II. Cảm Thọ

(Thọ Uẩn)

All feelings may, according to their nature, be classified as 5 kinds:

Tất cả cảm thọ, tùy theo bản chất, có thể được phân thành 5 loại:

bodily agreeable feeling sukha = kāyikā sukhā vedanā

Thọ Lạc, cảm giác thoải mái của thân = kāyikā sukhā vedanā

bodily painful feeling dukkha = kāyikā dukkhā vedanā

Thọ Khổ, cảm giác khó chịu của thân = kāyikā sukhā vedanā

mentally agreeable feeling somanassa = cetasikā sukhā vedanā

Thọ Hỷ, cảm giác vui thích của tâm = cetasikā sukhā vedanā

mentally painful feeling domanassa = cetasikā dukkhā vedanā

Thọ Ưu, cảm giác bực phiền của tâm = cetasikā dukkhā vedanā

indifferent feeling upekkhā = adukkha-m-asukhā vedanā

Thọ Xả, cảm giác thản nhiên của tâm = adukkha-m-asukhā vedanā

III. Perception Group

(saññā-kkhandha)

III. Nhóm Tưởng

(Tưởng Uẩn)

All perceptions are divided into 6 classes: perception of form, sound, odour, taste, bodily impression, and mental impression.

Tất cả các tưởng được chia thành 6 loại: tưởng về hình sắc, âm thanh, mùi, vị, cảm giác về thân và cảm giác về tâm.

IV. Group of Mental Formations

(saṅkhāra-kkhandha)

IV. Group of Mental Formations

(Hành Uẩn)

This group comprises 50 mental phenomena, of which 11 are general psychological elements, 25 lofty (Sobhana) qualities, 14 kammically unwholesome qualities. Cf. Tab. 11.

Nhóm này bao gồm 50 tâm sở , trong đó có 11 tâm sở Bất Định, nghĩa là có thể thiện, bất thiện hay trung tính tuỳ thuộc vào tâm (thức) mà chúng tương ưng, 25 tâm sở Tịnh Hảo (Sobhana), 14 tâm sở Bất Thiện xem Tab. 11.

V. Consciousness Group

(viññāṇa-kkhandha)

V. Consciousness Group

(Thức Uẩn)

The Suttas divide consciousness, according to the senses, into 6 classes: eye-, ear-, nose-, tongue-, body-, mind-consciousness.

Kinh văn chia nhóm thức biết cảnh theo giác quan, thành 6 loại: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý thức

The Abhidhamma and commentaries, however, distinguish, from the kammical or moral viewpoint, 89 classes of consciousness. Cf. viññāṇa and Tab. 1.

Tuy nhiên, Vi Diệu Pháp và các chú giải, theo quan điểm nghiệp hoặc đạo đức, phân biệt 89 loại tâm. đọc thêm ở viññāṇa và Tab. 1.

The moral quality of feeling, perception and consciousness is determined by the mental formations.

Phẩm chất đạo đức của cảm giác, nhận thức và ý thức được xác định bởi sự tạo tác tinh thần.

khandha-parinibbāna: s. Nibbāna.

khandha-parinibbāna: là sự dứt bỏ hoàn toàn những uẩn, chấm dứt sự tử sanh luân hồi trong tam giới. Xem Nibbāna.

khandha-santāna: s. santāna.

khandha-santāna: Khandha là uẩn, Xem santāna sự liên tục, sự liên tiếp, sự tương tục

khanti : 'patience', forbearance', is one of the 10 perfections (pāramī, q.v.).

khanti: 'kiên nhẫn', nhẫn nại, là một trong 10 Ba La Mật (pāramī, q.v.).

khayānupassanā: 'contemplation of dissolution', is one of the 18 chief kinds of insight (s. vipassanā).

khayānupassanā: 'quán sự diệt của danh pháp', tuệ thứ 8 trong 18 loại tuệ giác chính, là Trí tuệ thiền tuệ theo dõi thấy rõ, biết rõ sự tận diệt của danh pháp, sắc pháp, nên diệt được tâm lầm tưởng cho là ngã tưởng đồng nhất (ghanasaññā). (Tìm hiểu PHÁP HÀNH THIỀN TUỆ - Tỳ khưu HỘ PHÁP) (xem vipassanā).

khidda-padosikā devā: 'the celestial beings corruptible by pleasures', are a class of devas (q.v.) of the sensuous sphere. They waste their time in merriment, play and enjoyment, and thereby become thoughtless, and in their thoughtlessness they fall from that world (D. 1; 24).

khidda-padosikā devā. Này các Hiền giả, có những hạng chư Thiên gọi là Khiddàpadosikà devā (bị nhiễm hoặc bởi dục lạc). Những vị này sống lâu ngày, mê say trong hý tiếu dục lạc. Vì sống lâu ngày, mê say trong hý tiếu dục lạc, nên bị thất niệm. Do thất niệm, chư Thiên ấy thác sanh, từ bỏ thân thể của họ.(Trường Bộ Kinh 1 Kinh Phạm võng (Brahmajàla sutta); Trường Bộ Kinh 24 Kinh Ba-lê (Pàtika sutta)). HT Minh Châu Việt dịch

khīnāsava: 'the one in whom all cankers are destroyed' is a name for the Arahat, or Holy One; s. āsava.

khīnāsava: Bậc Lậu Tận, người mà mọi lậu hoặc đều bị tiêu diệt, là tên của bậc A-la-hán, hay Thánh nhân, Bậc Giải Thoát được gọi là Khīnāsava (Bậc Lậu Tận), danh hiệu này rõ ràng cho thấy những gì vị ấy đã thành tựu, đó là bứng gốc hay diệt đoạn, xem āsava.

kicca 'function'. Regarding the 14 functions of consciousness, s. viññāṇa-kicca.

kicca 'chức năng'. Về 14 chức năng của thức, hay phận sự của tâm, xem viññāṇa-kicca.

kilesa: 'defilements', are mind-defiling, unwholesome qualities. Vis.M. XXII, 49, 65: "There are 10 defilements, thus called because they are themselves defiled, and because they defile the mental factors associated with them. They are:

(1) greed (lobha),
(2) hate (dosa),
(3) delusion (moha),
(4) conceit (māna),
(5) speculative views (diṭṭhi),
(6) skeptical doubt (vicikicchā ),
(7) mental torpor (thīna),
(8) restlessness (uddhacca);
(9) shamelessness (ahirika ),
(10) lack of moral dread or unconscientiousness (anottappa).

" For 1-3, s. mūla;
4, s. māna;
5, s. diṭṭhi;
6-8, s. nīvaraṇa;
9 and 10, s. ahirika -anottappa.

kilesa: 'phiền não', là những phẩm chất làm ô nhiễm tâm trí, bất thiện. Thanh Tịnh Đạo XXII, 49, 65: “Có 10 phiền não, được gọi như vậy vì bản thân chúng là ô nhiễm, và vì chúng làm ô nhiễm các tâm sở liên quan đến chúng. Đó là:

(1) tham (lobha),
(2) sân (dosa),
(3) Si mê (moha),
(4) Ngã mạn (māna),
(5) Kiến thức - tà kiến (diṭṭhi),
(6) hoài nghi về nhân quả (vicikicchā),
(7) tâm dụ dự, uể oải, buồn ngủ (thīna),
(8) trạo cử, phóng tâm (uddhacca) ;
(9) vô liêm sỉ không hổ thẹn tội lỗi (ahirika),
(10) không ghê sợ tội lỗi hay vô lương tâm (anottappa).

” Trong 1 đến 3, xem mula; (theo ngữ cảnh trong kinh): Có nghĩa là gốc, căn bản.
4 xem māna;ngã mạn
5 xem. diṭṭhi; lưu ý, chữ diṭṭhi khi đứng đơn độc thường hiểu là tà kiến (micchādiṭṭhi), nếu chỉ cho trí thì trước chữ diṭṭhi là chữ sammā (chánh)
6-8 xem nīvaraṇa; là “sự cản trở, vật chướng ngại”
9 và 10, xem ahirika-anottappa. Không hổ không sợ (ahirika-anottapa) : không lấy làm xấu hổ đối với những điều làm cho chúng ta xấu hổ, không xấu hổ khi phạm tội ác ; không sợ hãi đối với những điều đáng sợ hãi, không sợ đạo lý, nhất là nguyên lý nhân quả (mà không phải sợ thần linh). Hai yếu tố tâm lý này đi theo sau vô minh và có mặt trong tất cả các trạng thái tâm lý xấu ác và có khả năng thúc đẩy con người phạm tội ác.(Kinh Phá hủy ác thú HT Thích Thiện Châu)

The ten are explained in Dhs. 1229f and enumerated in Vibh. XII. No classification of the k. is found in the Suttas , though the term occurs quite often in them. For the related term, upakkilesa (q.v.; 'impurities') different lists are given - (App.).

Mười phiền não được giải thích trong Dhammasaṅgaṇi - Bộ Pháp Tụ 1229 và được liệt kê trong Vibhaṅga - Bộ Phân Tích XII. Không có sự phân loại của những phiền não được tìm thấy trong các bài kinh, mặc dù thuật ngữ này xuất hiện khá thường xuyên trong đó. Đối với thuật ngữ liên quan, tùy phiền não - upakkilesa (coi như là 'tính pha trộn') trong danh sách khác nhau được ghi trong (phần phụ lục - App.).

kilesa-kāma: 'sensuality considered as defilement' (s. kilesa) might well be called 'subjective sensuality', in contradistinction to 'objective sensuality' (vatthu-kāma), i.e. the sensuous objects (kāma-guṇa). Cf. kāma.

kilesa-kāma: Phiền-não dục 'cảm giác nhục dục được coi là phiền não' (xem kilesa) có thể được gọi là 'cảm giác chủ quan', trái ngược với 'vật dục' (vatthu-kāma), tức là các đối tượng giác quan; sắc, thanh, hương, vị, xúc khả ái (kāma-guṇa). như kama.

kilesa-parinibbāna: s. Nibbāna (1).

kilesa-parinibbāna: Phiền Não Niết Bàn. Nghĩa là, phiền não đã bị diệt trừ, xem. Nibbāna (1).

killing: s. kamma, kammapatha, sikkhāpada.

killing: xem kamma có nghĩa là hành động. Vào thời đức Phật, nó đã được dùng với nghĩa như thế, kammapatha thuật ngữ nghiệp đạo (Kammapatha) theo nghĩa đen "tiến trình của hành động" cũng được sử dụng trong ý nghĩa nầy, sikkhāpada điều học, học giới, điều giới.

kiñcana: 'something', i.e. something evil that sticks or adheres to character. 'Evil appendant', is a name for the 3 unwholesome roots (mūla). "There are 3 appendants: greed (lobha) is an appendant, hate (dosa) is an appendant, delusion (moha) is an appendant" (D. 33). 'Freed from appendants' (akiñcana) is a term for the perfectly Holy One (Arahat).

kiñcana: 'chướng ngại' là những trở ngại cho sự tiến bộ tinh thần như Tham, Sân, Si, tức là thứ gì đó xấu xa dính chặt hoặc bám chặt vào . 'Bất Thiện Căn', là tên gọi của 3 bất thiện căn (mūla). “Có 3 phụ thuộc: tham (lobha) là bất thiện căn, sân (dosa) là bất thiện căn, si mê (moha) là bất thiện căn” (Kinh Trường Bộ. 33). ‘Giải thoát khỏi những ràng buộc’ - vô phiền não, vô sở hữu) (akiñcana) là thuật ngữ chỉ Đấng Thánh Alahan (Arahat).

kiriya (or kriya)-citta: 'functional consciousness' or 'kammically inoperative consciousness', is a name for such states of consciousness as are neither kammically wholesome (kusala), nor unwholesome (akusala), nor kamma-results (vipāka); that is, they function independently of kamma. Thus are also called all those worldly mental states in the Arahat which are accompanied by 2 or 3 noble roots (greedlessness, hatelessness, undeludedness), being in the Arahat kammically neutral and corresponding to the kammically wholesome states of a non-Arahat (s. Tab. 1-8 and 73-89), as well as the rootless mirth-producing (hasituppāda) mind-consciousness-element of the Arahat (Tab. 72); further, that mind-element (mano-dhātu) which performs the function of advertence (āvajjana) to the sense object (Tab. 70), and that mind-consciousness-element (manoviññāṇa-dhātu) which performs the functions of deciding (voṭṭhapana) and advertence to the mental object (Tab. 71). The last-named 2 elements, of course, occur in all beings.

kiriya (hoặc kriya)-citta: Tâm Tố hay là Tâm Duy Tác là 'tâm chức năng' hay 'tâm bất tác nghiệp', là tên gọi của những trạng thái tâm không thiện (kusala), không bất thiện (akusala), cũng không phải quả nghiệp (vipāka); nghĩa là chúng hoạt động độc lập với nghiệp. Như vậy cũng được gọi là tất cả những trạng thái tâm thế tục của bậc A-la-hán đi kèm với 2 hoặc 3 nhân thiện(vô tham, vô sân, vô si), ở trong vị A-la-hán trung tính về nghiệp và tương ứng với các trạng thái thiện nghiệp của một người không phải A-la-hán (xem Tab. 1-8 và 73-89), cũng như yếu tố tâm thức tạo ra vui vẻ Tiếu Sanh Tâm, hay tâm làm mĩm cười (hasituppāda) vô nhân của A La Hán (Tab. 72); hơn nữa, yếu tố tâm, ý giới (mano-dhātu) thực hiện chức năng chú ý , hướng về (āvajjana) Chức năng khai môn (Āvajjana), là phận sự khai mở lộ tâm khách quan để bắt cảnh mới, đối với đối tượng giác quan (Tab. 70), và tâm ý thức giới (manoviññāṇa-dhātu) thực hiện các chức năng quyết định gọi là đoán định tâm (voṭṭhapana) và hướng đến đối tượng tinh thần (Tab. 71). Tất nhiên, 2 yếu tố cuối cùng xuất hiện ở mọi sinh vật.

Together with kamma-resultant consciousness (vipāka) it belongs to the group of 'kammically neutral consciousness' (avyākata). See Tab. I (last column). - (App.).

Cùng với quả nghiệp (vipāka), nó thuộc nhóm 'vô ký' (avyākata) là bất định, không chỉ rõ thiện hay bất thiện. Xem Tab. I (cột cuối cùng). - (App. Phụ Lục).

knowledge: cf. paññā, ñāṇa, vijjā, vipassanā, abhiññā.

knowledge: cf. paññā - tuệ, ñāṇa - trí, vijjā - là sự sáng suốt, hiểu biết, vipassanā - minh sát, abhiññā - Năng lực cao siêu, diệu trí, thần thông, diệu trí.

kolaṅkola: 'passing from one noble family to another', is the name for one of the 3 kinds of Sotāpanna (q.v.).

kolaṅkola: Lục chủng sanh, là bậc Dự lưu mà còn sanh cõi dục từ hai đến sáu lần nữa mới đắc A-la-hán và viên tịch, 'chuyển từ gia đình quý tộc này sang gia đình quý tộc khác', là tên của một trong 3 loại Thánh Nhập Lưu (q.v.).

kiriya-citta = kiriya (q.v.).

kiriya-citta = tâm tố tâm duy tác thuộc về vô ký ,kiriya - Duy Tác(q.v.).

kukkucca: lit. 'wrongly-performed-ness' (ku+krta+ya), i.e. scruples, remorse, uneasiness of conscience, worry, is one of the kammically unwholesome (akusala) mental faculties (Tab. II) which, whenever it arises, is associated with hateful (discontented) consciousness (Tab. I and III, 30, 31). It is the 'repentance over wrong things done, and right things neglected' (Com. to A. I). Restlessness and scruples (uddhacca-kukkucca), combined, are counted as one of the 5 mental hindrances (nīvaraṇa, q.v.).

kukkucca: là trạng thái lo âu, không hài lòng đối với việc làm của mình, 'làm sai' (ku+krta+ya), tức là đắn đo, hối hận, lương tâm bất an, lo lắng, là một trong những tâm bất thiện (akusala) về mặt tâm trí (Tab. II), bất cứ khi nào nó phát sinh, đều liên quan đến với ý thức sân hận (bất mãn) (Tab. I và III, 30, 31). Đó là 'sám hối những điều sai đã làm, và bỏ những điều đúng' (Com. to A. I). Phóng dật - lo âu (uddhacca-kukkucca), kết hợp lại, được tính là một trong 5 chướng ngại tinh thần (nīvaraṇa, q.v.).

kuppa-dhamma 'liable to perturbation', is one who has not yet attained full mastery over the absorptions. In Pug. 3 it is said: "What person is liable to perturbation? Such a person gains the attainments of the fine-material and immaterial sphere (s. avacara). But he does not gain them at his wish, nor without toil and exertion; and not at his wish as regards place, object and duration, does he enter them or arise from them. Thus it is well possible that in case of such a person, through negligence, the attainments will become perturbed. This person is liable to perturbation."

kuppa-dhamma: Di động pháp, pháp tánh để biến động, là người chưa hoàn toàn làm chủ được các tầng thiền. Ở Puggala-Paññatti - Bộ Nhân Chế Định 3 Người ta nói: "Người nào dễ bị nhiễu loạn? Người như vậy đạt được các thành tựu của cõi sắc giới và vô sắc giới (xem avacara). Nhưng người đó không đạt được chúng theo ý muốn, cũng không phải không cần lao nhọc và nỗ lực; và không theo ý muốn của mình về nơi chốn, đối tượng và thời gian, người ấy nhập vào chúng hay khởi sinh từ chúng.Do đó, rất có thể trong trường hợp người như vậy, do sơ suất, các chứng đắc sẽ bị xáo trộn.Người này dễ bị nhiễu loạn. "

kusala: 'kammically wholesome' or 'profitable', salutary, morally good, (skillful) Connotations of the term, according to Com. (Aṭṭhasālinī), are: of good health, blameless, productive of favourable kamma-result, skillful. It should be noted that Com. excludes the meaning 'skillful', when the term is applied to states of consciousness.

kusala: thiện' hay tốt về mặt đạo đức, (khéo léo) Ý nghĩa của thuật ngữ này, theo Chú giải (Aṭṭhasālinī), là: tốt, tạo ra quả thiện nghiệp, khéo léo. Cần lưu ý theo Chú Giải loại trừ ý nghĩa 'khéo léo', khi thuật ngữ này được áp dụng cho các trạng thái ý thức.

It is defined in M. 9 as the 10 wholesome courses of action (s. kammapatha). In psychological terms, 'kammically wholesome' are all those kammical volitions (kamma-cetanā) and the consciousness and mental factors associated therewith, which are accompanied by 2 or 3 wholesome roots (s. mūla), i.e. by greedlessness (alobha) and hatelessness (adosa), and in some cases also by non-delusion (amoha: wisdom, understanding). Such states of consciousness are regarded as 'kammically wholesome' as they are causes of favourable kamma results and contain the seeds of a happy destiny or rebirth. From this explanation, two facts should be noted: (1) it is volition that makes a state of consciousness, or an act, 'good' or 'bad'; (2) the moral criterion in Buddhism is the presence or absence of the 3 wholesome or moral roots (s. mūla).

Trong Trung Bộ Kinh 9 kinh Chánh Tri Kiến kusala được định nghĩa là 10 hành động thiện (xem kammapatha - nghiệp đạo). Theo thuật ngữ tâm lý học, “thiện nghiệp” là tất cả những tác ý nghiệp (kamma-cetanā) và các tâm thức và các yếu tố tinh thần liên quan đến chúng, đi kèm với 2 hoặc 3 thiện căn (xem mūla), tức là bằng vô tham (alobha) và vô sân (adosa), và trong một số trường hợp cũng bằng vô si (amoha: trí tuệ, hiểu biết). Những trạng thái ý thức như vậy được coi là 'thiện nghiệp' vì chúng là nguyên nhân của những kết quả nghiệp thiện và chứa đựng những hạt giống của một kiếp sống hạnh phúc cho sự tái sinh. Từ lời giải thích này, cần lưu ý hai thực tế: (1) chính ý chí tạo nên trạng thái ý thức, hay một hành động, 'tốt' hay 'xấu'; (2) tiêu chuẩn đạo đức trong Phật giáo là sự có mặt hay vắng mặt của 3 thiện căn hay đạo đức (xem mūla).

The above explanations refer to mundane (lokiya, q.v.) wholesome consciousness. Supermundane wholesome (lokuttara-kusala) states, i.e. the four paths of sanctity (s. ariyapuggala), have as results only the corresponding four fruitions; they do not constitute kamma, nor do they lead to rebirth, and this applies also to the good actions of an Arahat (Tab. I, 73-80) and his meditative states (Tab. 1, 81-89), which are all kammically inoperative (functional; s. kiriya).

Những giải thích trên đề cập trong cõi thế tục (lokiya, q.v.). Các trạng thái thiện siêu thế (lokuttara-kusala), tức là bốn con đường thánh thiện (xem ariyapuggala -bậc cao quý, bậc thánh ), chỉ có kết quả là bốn quả tương ứng; chúng không tạo thành nghiệp, cũng không dẫn đến tái sinh, và điều này cũng áp dụng cho những hành động tốt của một vị A la hán (Tab. I, 73-80) và các trạng thái thiền định của vị ấy (Tab. 1, 81-89), tất cả đều là nghiệp không có tác dụng (chức năng; xem kiriya).

Kusala belongs to a threefold division of all consciousness, as found in the Abhidhamma (Dhs.), into wholesome (kusala), unwholesome (akusala) and kammically neutral (avyākata), which is the first of the triads (tika) in the Abhidhamma schedule (mātikā); s. Guide, pp. 4ff., 12ff; Vis.M. XIV, 83ff.

Kusala thuộc về sự phân chia ba loại của tất cả các tâm, như được tìm thấy trong Vi Diệu Pháp (Dhs.), thiện (kusala), bất thiện (akusala) và vô ký về nghiệp (avyākata), là tâm đầu tiên trong bộ ba (tika) trong Vi Diệu Pháp. mẫu đề (mātikā); xem Hướng dẫn, trang 4ff., 12ff; Visuddhi Magga - Thanh Tịnh Đạo XIV, 83ff.

kusala-kammapatha: 'wholesome course of action'; s. kammapatha.

kusala-kammapatha: 'mưới thiện nghiệp đạo'; xem kammapatha.

kusala-mūla: the 'wholesome roots' or 'roots of wholesome action', are greedlessness (alobha), hatelessness (adosa), and non-delusion (amoha; s. mūla). They are identical with kusala-hetu (s . paccaya, 1).

kusala-mūla: là nguồn cội, căn nguyên xuất phát, trong sạch, tinh khiết, là nguyên nhân có tánh chất tạo quả an vui hạnh phúc., là vô tham (alobha), vô sân (adosa) và vô si (amoha; s. mūla). Chúng giống với Nhân Duyên (xem paccaya, 1).

kusala-vipāka: the (mental) 'kamma-result of wholesome kamma' (s. kamma).

kusala-vipāka: (thuộc về tinh thần)'quả nghiệp thiện' (xem kamma).

 

Trang 1 | A | B | C | D | E | F | G | H | I | J | K | L | M | N | O | P | Q | R | S | T | U | V | W | Y | Z


 | | Cập nhập ngày: Thứ Năm ngày 2 tháng 3, 2023

webmasters: Nguyễn Văn Hòa & Minh Hạnh

trở về đầu trang
| Home page |