Psychotheraphy, Meditation

Kệ Ngôn 258

Bậc Trí Không Nói Nhiều



Thap Nhi Nhan DuyenGiảng Sư: TT Trí Siêu

 

Không phải do nói nhiều
Mà thành bậc hiền trí
Tự tại, không oán sợ
Xứng gọi bậc trí hiền



.
Chánh văn kệ ngôn pháp cú do Thượng Tọa Trí Siêu dịch từ Pali

Na tena pa.n.dito hoti yaavataa bahu bhaasati
Khemii averii abhayo pa.n.dito-ti pavuccati.

Minh Hạnh chuyển biên:

TT Trí Siêu giảng : Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Kính bạch Chư Tăng, thưa quí Phật tử, trong bài kệ Pháp Cú 258, hôm nay chúng ta sẽ học về bài kệ có tựa đề là " Bậc Trí Không Nói Nhiều ". Ở đây chúng ta thấy rõ một điểm là trong bài kệ này hoàn toàn không có từ ngữ nào Đức Phật sử dụng có liên quan đến phẩm Pháp Trụ (Dhammatthavagga) như tựa đề dẫn nhập của phẩm thứ 19, ngoài hai câu 256 và 257 mà chúng ta đã học ngày hôm qua. Nhưng thưa quí vị xét cho cùng thì chúng ta cũng nhận được một ý nghĩa, mà ở nơi đây chúng ta tìm thấy có dính dấp đến một vị trú pháp, nhưng mà vị trú pháp theo tinh thần của bài kệ ngày hôm nay chúng ta học, thì trú pháp ở đây tức là an trú trong pháp của bậc Thánh, an trú trong sự giác ngộ, an trú trong pháp giải thoát, chớ không phải trụ pháp hay là pháp trụ mà được đề cập đến trong kệ 256 và 257 ám chỉ cho những vị cầm cán cân công lý. Ở đây trong bài kệ này chúng ta đã được nghe duyên sự mà vị điều hợp đã đọc lại cho chúng ta nghe một cách tóm tắt, thì chúng ta cũng thấy là đối với một vị thật sự đã được giải thoát, một vị hành sử tự tại không gây oan trái với ai và cũng không biết sợ ai, như vậy mới đáng là bậc hiền trí.

Bậc hiền trí ở đây là chỉ cho người trú pháp, ở đây chúng ta cần phải hiểu rằng một người có kiến thức uyên bác học nhiều hiểu rộng. Nói nhiều cho người khác nghe những điều không lợi ích thì điều này chúng ta không được kể vào ở đây. Bởi vì bậc trí cho dù Ngài nói nhiều, nhưng Ngài nói những điều lợi ích đến cho người khác, khiến cho người khác nghe có sự tịnh lạc, có sự hoan hỷ, thì điều này không phải là người nói nhiều, không phải là người kém trí tuệ, mà chính đó là người có được kiến thức uyên thâm, chúng ta nên hiểu như vậy.

Còn ở đây trong bài kệ Đức Phật Ngài dạy rằng: "không phải do nói nhiều mà thành bậc hiền trí", qua duyên sự của bài kệ chúng ta sẽ thấy rõ, một người chỉ biết nói nhiều, nói huênh hoang, tự cho rằng mình là người trí thì người đó không phải là người trí, không phải chỗ nói nhiều khoe khoang nhiều mà được gọi là người trí, chúng ta cần phải hiểu như vậy, không phải người ít nói thành ra người ngu dốt. Người trí là người hiểu biết tất cả sự việc, là người có thể nhìn xuyên thấu mọi vấn đề, nhưng người trí chỉ nói khi cần phải nói và chỉ nói những điều có lợi ích, có tác dụng mạnh thôi, chớ không phải gặp đâu cũng nói, nói một cách phi thời và gặp đối tượng nào cũng nói, nói một cách không thích hợp với đối tượng, không phải vấn đề gì cũng bàn bạc, những điều không có lợi ích thì Ngài không nói, chúng ta cần phải hiểu bậc trí ít nói là như vậy, và nói nhiều là như vậy. Ít nói ở đây không phải vì sự ngu dốt không hiểu biết cho nên không biết việc gì để nói, không biết bàn luận về vấn đề gì, mà hiểu ít nói của bậc trí là sự chế ngự bản thân mình, như người ta có câu nói rằng người trí là người mau nghe mà chậm nói, người xưa có sự nhận xét như vậy và họ bình luận một câu như vậy, không phải là điều vô ích, không phải là một câu nói tầm thường.

Ở đây thưa quí vị, quả thật vậy người trí tức là người khôn ngoan, hễ là người khôn ngoan họ chỉ biết nói khi nào đáng nói, nhưng mà tất cả những điều gì mà người khác nói, người khác trình bày, người trí đều lắng nghe cả, gọi là mau nghe nhưng mà chậm nói bởi vì trước khi nói phải uốn lưỡi bẩy lần, suy xét xem có nên nói hay không trong trường hợp này, và nói như vậy xem nó có ích lợi hay không ích lợi, nếu như nói những lời nói ích lợi thì như vậy sẽ không bị phí mất thời gian, còn khi mà mình nói nhiều, nói một cách phi thời, một cách vô ích thì như vậy sẽ làm phí thời gian, mà đối với người trí thì xem thời gian là quí giá, thay vì thời gian đó để chiêm nghiệm để suy tư, thì như vậy càng hiểu thông suốt thêm nữa, càng nắm vững vấn đề thêm nữa. Còn khi mình nói ra nhiều quá, nói không nhằm chỗ, không nhằm lúc, không nhằm ý nghĩa, thì như vậy sự nói đó quả thật là người dốt nát chứ không phải là người trí, ở đây chúng ta cần phải biết vấn đề đó.

Ở đây có hai từ để chúng ta gọi người có trí là bậc hiền trí , là một người có trí tuệ hiểu biết, mà lại là người biết phán đoán cân nhắc mọi vấn đề như vậy mới gọi là bậc hiền trí, còn khi mà ta gọi người trí tuệ là chúng ta chỉ nói đến người có học thức sâu rộng, chỉ vậy thôi, còn về sở hành của người trí tuệ thì chúng ta chưa có xét được.

Bậc hiền trí phải là người có đặc tánh như thế nào, ở đây Đức Phật dạy có 7 pháp để trở thành bậc hiền trí . Bậc hiền trí tức là người : tri nhân, tri quả, tri kỷ, tri bỉ, tri thời, tri hội và tri độ.

- Pháp thứ nhất là tri nhân , tri nhân có nghĩa là biết được nhân sanh của các pháp, biết được nguồn gốc phát sanh lên hậu quả, thì gọi như vậy là tri nhân, gặp bất cứ việc gì người trí cũng phải hiểu rõ cái nguyên nhân đó chứ không phải là xử sự một cách hấp tấp, một cách hồ đồ. Thí dụ như khi gặp người khác, mà người khác họ có thái độ chệch thượng hoặc là xúc phạm đến mình, thì lúc bấy giờ người trí sẽ cạn xét suy nghĩ xem mình đã làm điều gì khuyết điểm, điều gì lỗi lầm hay không mà để cho người ta có thái độ đó đối với mình như vậy v.v...và trong cuộc sống hàng ngày gặp chuyện gì xảy ra bậc hiền trí cũng có trí tuệ biết nguyên nhân của sự kiện đó như vậy gọi là tri nhân.

- Pháp thứ hai gọi tri quả, tức là khi làm những gì, khi nói những gì, khi suy nghĩ những gì, bậc hiền trí đều biết rõ , đều suy xét ra hậu quả của hành động đó ra sao, và nhờ biết rõ hậu quả của hành động này như thế nào, cho nên bậc hiền trí bao giờ cũng có thể tránh được những điều đáng tiếc xảy ra. Khi chúng ta chuẩn bị nói điều gì đó, thường thường thì chúng ta không phải là bậc hiền trí, chúng ta nghĩ sao chúng ta nói vậy, chúng ta nghĩ sao thì chúng ta làm vậy. Nhưng ở đây đối với bậc hiền trí thì không làm như thế, mặc dầu suy nghĩ như vậy, nhưng trước khi làm hay trước khi nói, bậc hiền trí suy xét xem lời nói này có hợp thời hay không, có lợi ích hay không, người nghe họ có ưa thích hay không và nói như vầy nó có lợi hay nó có hại, phải suy xét hậu quả của nó, rồi Ngài mới nói hoặc là hành động, như thế gọi là tri quả.

Trong hai từ ngữ tri nhân và tri quả, có một trường hợp khác chúng ta cần phải hiểu đó là tri pháp và tri nghĩa, ở một trường hợp khác Đức Phật Ngài giải thích điểm này như sau. Một người Tỳ kheo thông suốt kinh điển, hiểu biết thuộc lòng nhiều Phật ngôn, thì như vậy gọi là vị tri pháp, và mỗi một câu Phật ngôn có ý nghĩa như thế nào, mỗi một điều pháp, mỗi một chi pháp có bản thể pháp ra sao, thì vị Tỳ kheo đó cũng biết rõ, cũng thông suốt thì như vậy gọi là tri nghĩa. Như vậy vấn đề chúng ta phải hiểu theo hai khía cạnh, nếu như bậc hiền trí thông thường, chúng ta nên xem như đây là trường hợp tri nhân tri quả, còn đối với bậc hiền trí, những vị Tỳ kheo xuất gia tu theo pháp này thì cái vấn đề cần phải hiểu đó là tri pháp,tri nghĩa, chúng ta cần phải hiểu biết như thế.

- Pháp thứ ba và pháp thứ tư nữa đối với bậc hiền trí là tri kỷ, tri bỉ . Tri kỷ tức là biết được mình, còn tri bỉ tức là biết được người khác. Biết được mình là biết ra sao, bậc hiền trí khi biết mình, tức là biết khả năng của mình, trình độ của mình, nhờ như vậy mà vị hiền trí có thể ứng xử một cách khéo léo một cách khôn ngoan, những vấn đề nào mình biết không rõ, biết không tới, bậc hiền trí sẽ không bao giờ huênh hoang khoe khoang, bởi vì nếu huênh hoang như vậy gặp những người khác đặt những vấn đề để chất vấn, thì lúc bấy giờ sẽ trả lời không được, cho nên bậc hiền trí sẽ không nông nỗi như vậy, bậc hiền trí biết rõ trình độ của mình rồi từ đó, chỗ nào khiếm khuyết, kiến thức nào thiếu thốn thì vị đó sễ bổ túc, còn kiến thức nào đầy đủ rõ ràng thì bậc hiền trí sẽ triển khai vấn đề này, do đó đối với bậc hiền trí nhờ có pháp tri kỷ, tức là biết được mình mà bậc hiền trí sẽ ít gặp sự thất bại. Và tri bỉ tức là biết người khác, người trí không bao giờ chỉ biết chính mình mà không biết người khác, bậc hiền trí luôn luôn vừa biết mình vừa biết người khác, biết người khác tức là cũng biết trình độ của người khác ra sao, biết tánh tình của người khác ra sao để mà mình ứng xử một cách thích nghi, một cách thích hợp không mích lòng và nói một cách hợp tình hợp lý thì mới nhiếp phục được người khác, thì như vậy là tri kỷ, tri bỉ.

Trong vấn đề này chúng ta cũng được biết, là ở đây người xưa vẫn thường nói trong sách binh thơ của Tôn Tẫn cũng thường đề cập đến gọi là : " Tri kỷ, tri bỉ, bách chiến bách thắng ", một vị tướng ra trận, nếu vị tướng đó biết tri kỷ tri bỉ, tức là biết thế lực của mình và biết thế lực của quân địch thì gọi là tri kỷ tri bỉ. Nhờ biết rõ như vậy cho nên vị tướng đó cầm quân sẽ không bao giờ thất bại, hoặc nếu như gặp trường hợp thua cũng không bị hao tổn binh mã. Trong trường hợp này chúng ta nói rộng thêm một chút,để chúng ta hiểu được vấn đề tại sao người trí lại là người tri kỷ, tri bỉ , nếu như chúng ta tiếp xúc với người khác mà chúng ta không biết rõ trình độ của mình, không biết rõ sở trường của mình như vậy chúng ta sẽ dễ dàng đi vào ngõ cụt, và chúng ta dễ dàng bị người khác bắt bí. Nếu chúng ta nói chuyện với người khác chúng ta không biết được người khác trình độ như thế nào , khả năng như thế nào, sở thích như thế nào, trong trường hợp đó chúng ta sẽ bị thất bại, nói chuyện không nhằm đề tài, không nhằm vấn đề. Thí dụ chúng ta rành về y học, chúng ta giỏi về thuốc men, nhưng khi chúng ta tiếp xúc với một người nông dân tay lấm chân bùn, cày sâu cuốc bẩm gieo trồng lúa gạo hay trồng rau cải v.v...mà chúng ta đem vấn đề y học hoặc vấn đề khoa học để nói thì dầu cho chúng ta có trí tuệ thông minh, chúng ta là người có học thức rộng, chúng ta nói như vậy không thích ứng, không thích hợp, câu chuyện trở nên buồn tẻ, đơn điệu nhàm chán, bởi vì người nghe họ không hiểu gì thì lúc đó họ sẽ chán chúng ta thôi. Cho nên ở đây thưa quí vị, vấn đề hết sức quan trọng là đối với người trí, tri kỷ tri bỉ là như vậy.

- Pháp thứ năm là tri thời, gọi là hiền trí là người biết rõ thời điểm nào là thích hợp, thời nào không thích hợp, lúc nào nên ăn, lúc nào nên uống, lúc nào nên đứng, nên đi, nên nằm, nên ngồi, lúc nào nên nói. Vị đó biết rõ, chứ không phải lúc nào cũng nói được, dầu cho chúng ta nói hay, mà không đúng thời điểm thì cũng không có lợi ích, không có tác dụng gì cả, lời nói hay và muốn có tác dụng thì lời nói đó phải là lời nói hợp thời. Ngạn ngữ Ấn có câu nói rằng : " nếu nói không hợp thời, chẳng thà câm còn hơn. " Bởi vì khi chúng ta câm miệng, im lặng, lúc nào có việc thì chúng ta nói, chứ nói nhiều, nói huênh hoang mà chúng ta nói không hợp thời không đúng lúc, thì như vậy làm cho người ta ghét thôi. Thí dụ bây giờ chúng ta đi đến tham dự một tang lễ của một người quen biết nào, lúc bấy giờ giữa đám tang như vậy, tang quyến đang rầu buồn, chúng ta đi đến với mục đích viếng tang, thì chúng ta phải giữ nghiêm trang im lặng, chúng ta không nên đến đó nói chuyện cười đùa giởn hớt, không nên nói những câu chuyện trào phúng để chọc cười cho thiên hạ, nói như vậy là không hợp thời, chúng ta cũng không nên bàn bạc về những vấn đề liên quan trong cuộc sống, thí dụ như bàn bạc về chuyện làm ăn, kinh tế, chính trị thời sự chẳng hạn ở giữa tang lễ như vậy, bởi vì làm như thế chúng ta sẽ là người nông nỗi nói chuyện không đúng thời, và người khác họ thấy như thế họ không cho rằng mình trí tuệ uyên thâm, mà họ nói mình là con người lố bịch bởi vì đi đến giữ tang lễ mà lại nói như thế đó là không hợp thời, cho nên họ không đánh giá chúng ta là người trí, mà người ta nói chúng ta là người lố bịch, cần phải biết như vậy.

- Pháp thứ sáu là tri hội, khi chúng ta đến giữa hội chúng, người trí biết rõ hội chúng này là như thế nào, chúng ta phải biết rõ mục đích của hội chúng đó, họ tụ họp lại để làm cái gì, họ tụ họp lại để họ nghe pháp, hay tụ họp lại để bàn bạc về vấn đề kinh tế, hay họ trao đổi với nhau về khoa học kỹ thuật v.v....Chúng ta phải biết rõ mục đích của cuộc họp đó. Thí dụ như đối với tôn giáo, chúng ta biết rõ giáo lý, nhưng nếu chúng ta đến giữa hội chúng có các nhà khoa học, họ đang bàn luận với nhau về các công cuộc thí nghiệm, lúc bấy giờ chúng ta đem giáo lý tôn giáo này, tôn giáo khác chúng ta bàn luận thì đó là điều chúng ta không có tri hội. Chúng ta không biết rõ hội chúng đó như thế nào, người ta có thích nghe hay không thích nghe, và chúng ta nói điều đó người ta có chấp nhận, người ta có phụ họa với mình hay không, chúng ta cần phải biết rõ cái đó. Và người nào biết rõ như vậy, người đó được gọi là tri hội và người tri hội tức là người có trí tuệ hay là bậc hiền trí.

- Pháp thứ bảy là tri độ, vấn đề này khá quan trọng. Tri nhân, tri quả, tri kỷ, tri bỉ, tri thời, tri hội đã gọi là bậc hiền trí rồi, nhưng thiếu một pháp cũng chưa phải hoàn toàn xứng đáng gọi là bậc hiền trí, đó là tri độ. Tri độ ở đây có nghĩa là biết tiết độ, biết vừa phải, người trí trong việc hành xử hàng ngày, bất cứ cái gì cũng biết vừa chừng, việc ăn, việc uống, việc ngủ nghỉ hay là việc chúng ta giao tiếp, chúng ta phải biết vừa phải, cái gì nó vừa phải là nó hay, ăn vừa phải thì ngon, nhưng ăn quá độ thì không ngon. Khi chúng ta ăn, chúng ta biết tiết độ vừa chừng, ăn vừa đủ để cho no thôi, vừa đủ no để nuôi thân thôi, chứ không nên thấy món ngon rồi ăn nhiều quá, ăn đến nỗi tức bụng đến phát ách thì trong trường hợp này không đáng để gọi là người trí, uống cũng vậy, trong việc uống phải biết tiết độ, trong việc ngủ nghỉ cũng vậy, bậc trí sẽ phân định thời gian ngủ nghĩ như thế nào vừa phải, chớ không thể nằm ngủ nướng kéo dài thời gian, suốt cả ngày chỉ kiếm chỗ mà ngủ thì như vậy không đáng được gọi là bậc hiền trí. Còn lúc giao tiếp với mọi người cho dù mình là thần tượng của hội chúng, mình sẽ được hội chúng hoan nghênh khi mình phát biểu, nhưng trong trường hợp này đã gọi là người trí thì phát biểu vừa phải với thời gian và ý nghĩa của lời nói của bài phát biểu thôi, bởi vì chúng ta nói thì hay, nhưng mà nói nhiều quá thì nó cũng đâm ra nhàm chán, và nhất là những trường hợp chúng ta nói không hay, mà chúng ta nói dài thì điều đó nó sẽ không tốt đẹp, người ta nói rằng : " Nói dai, nói dài, nói dở, thì người này không phải là bậc hiền trí." do vậy ở đây thưa quí vị, bậc hiền trí là người phải biết tiết độ trong mọi trường hợp, cho việc ăn, việc uống, việc sinh sống, việc cư xử giao tiếp, cái gì cũng phải biết tiết độ, vì chính do sự tiết độ đó, biết tiết độ như vậy cho nên người trí sẽ không bị mắc vào những lỗi lầm, những khuyết điểm có thể làm cho người khác chê trách được.

Bởi vậy cho nên ở đây chúng ta cần phải hiểu rằng người trí là người có bảy pháp : tri nhân, tri quả, tri kỷ, tri bỉ, tri thời, tri hội và tri độ là như thế, mới đáng được gọi là bậc hiền trí. Thì khi chúng ta nghe xong bảy pháp này rồi thì chúng ta mới thấy rõ rằng không phải là nói nhiều mới gọi là bậc hiền trí, người mà biết dừng lại, người biết tiết độ hay là biết đúng thời hoặc là biết rõ mình và biết rõ người khác, biết nhân, biết quả thì như thế mới đáng gọi là bậc hiền trí. Thì ở đây thưa quí vị, một vấn đề mà chúng ta cần phải lưu ý thêm nữa, là trong bài học này Đức Phật Ngài đã mô tả bậc hiền trí với nét sống động, nét sống động đó như thế nào.

Khi nãy chúng tôi vừa trình bày bảy điểm của bậc hiền trí, nhưng khi chúng ta đọc qua bài kệ thì Đức Phật Ngài đã tóm gọn chỉ trong ba đặc tánh thôi :

- Đặc tánh thứ nhất là tự tại an ổn, nghĩa là tâm không bị chao động, tâm không bị phiền toái, không bị âu lo những việc không đáng âu lo, thì người đó gọi là bậc an tịnh, bậc tự tại. Một điểm thứ nhất mà Đức Phật đã minh hoạ về người trí.

- Đặt tánh thứ hai nữa là Đức Phật Ngài minh hoạ người trí là người không gây oan trái, quả thật vậy. Gọi là người hiền trí trong cư xử bằng hành động hay là lời nói, trong tư tưởng cũng vậy, luôn luôn lúc nào cũng đưa đến một sự thiện cảm với người khác, làm cho người khác có sự thiện cảm, không có sự tức giận, không có sự oan trái, không có sự oán thù. Như chúng ta thấy Lục Quần Tỳ Kheo nói nhiều quá và huênh hoang lúc nào cũng cho rằng mình là những người học cao hiểu rộng hơn các vị Tỳ Kheo khác, và gây gỗ ở trai đường trong chùa, làm cho các vị Tỳ Kheo khác cảm thấy bực mình, cảm thấy chán nản và ghét bỏ, và trong trường hợp đó nhóm Lục Quần Tỳ Kheo đâu có đáng gọi là bậc thiền trí, vì bậc hiền trí là người không làm cho ai sợ, nghĩa là không làm cho người khác cảm thấy sợ hãi khi có mặt mình. Chúng ta cũng cần nên lưu ý rằng, quí vị đừng có nghĩ rằng nói nhiều, nói luôn mồm, luôn miệng đi đến hội chúng khiến người ta ưa thích, không phải như vậy đâu, nếu qúi vị nào đã từng đi đến hội chúng và quí vị đã thường tiếp xúc với nhiều hạng người thì quí vị sẽ thấy. Có những hạng người vừa thấy mặt họ đi đến thì chúng ta hoan hỷ, chúng ta sẵn lòng chờ đợi họ thốt lên lời để chúng ta nghe, vì người đó là bậc hiền trí, biết cách nói và nói đúng thời đúng lúc, nói ít, nói vừa phải, nói một cách lợi lạc, có ý nghĩa cần phải học hỏi. Còn có những người chúng ta vừa nhìn thấy họ, chúng ta đã ngao ngán rồi, không phải người này không có kiến thức, nhưng mà kiến thức của họ nó như một đống gạch vụn, chất lên thì nhiều, nhưng mà lựa ra để kê đồ, kê tủ, kê bàn ghế, thì lựa ra chẳng có bao nhiêu cả, bởi vì đó là đống sà bần, người ta gọi là kiến thức sà bần là như vậy. Gặp những người đó đi đến chỉ làm quấy rày chúng ta mà thôi, chứ chúng ta đừng nghĩ rằng người nói nhiều, cái gì cũng có thể nói được, thì chúng ta cho rằng họ là bậc hiền trí, không phải là như vậy.

Bởi thế cho nên được gọi là bậc hiền trí tức là người không gây sự oan trái với người khác, không khiến cho người khác có sự khó chịu ghét bỏ, đó mới đáng là bậc hiền trí. Khi nào chúng ta có kiến thức uyên thâm, chúng ta học cao hiểu rộng, có địa vị cao trong xã hội, nhưng khi chúng ta đến một hội chúng mà hội chúng cảm thấy bực mình, họ lơ là với mình thì mình nên biết rằng bản thân mình chưa phải là bậc hiền trí, bởi vì cách nói và cách cư xử mình như thế nào để cho người ta chán ghét thì chúng ta cần phải hiểu như thế. Đây là điểm thứ hai Đức Phật minh định về nét sống động của người trí.

- Đặt tánh thứ ba Đức Phật Ngài minh họa cho một người hiền trí đó là không có sự sợ hãi. Bậc hiền trí là người không làm ai sợ và cũng không biết sợ ai.

Bởi người hiền trí dựa vào ba yếu tố dạn dĩ không sợ ai cả, không hề sợ người khác, luôn luôn có tâm tự tại khi đi đến giữa hội chúng.

- Yếu tố thứ nhất là người hiền trí có trí tuệ hiểu biết được vấn đề một cách rộng rãi, cho nên khi đi đến với hội chúng người trí sẽ không cảm thấy khổ sở, không cảm thấy băng khoăn lo ngại vì trí thức của vị này có thừa sức để khi người ta hỏi, người ta cần mình nói thì người trí có thể nói được, do đó cho nên người trí không sợ ai.

-Yếu tố thứ hai khiến cho người trí không biết sợ ai, đó là bậc hiền trí không phạm lỗi lầm. Bậc hiền trí như quí vị đã biết trong bảy pháp là : tri nhân, tri quả, tri kỷ, tri bỉ , tri thời, tri hội và tri độ. Khi bậc hiền trí làm cái gì cũng suy xét nhân và quả của hành động đó, cho nên bậc hiền trí sẽ tránh đi những nguyên nhân đưa đến hậu quả cay đắng, bởi vậy không làm những điều lỗi lầm, những khuyết điểm, cho nên bậc hiền trí khi đi đến trước hội chúng, bậc hiền trí không hề có sự rụt rè lo sợ.

- Yếu tố thứ ba, bậc hiền trí không hề sợ ai, là bởi vì bậc hiền trí không hề gây oan trái với người khác, không gây nợ máu với người khác, và không làm cho người khác có sự khó chịu, cho nên bậc hiền trí nghĩ rằng luôn luôn làm cho người khác có thiện cảm hài lòng, thì do đó khi bậc thiện trí đi đến với hội chúng bậc hiền trí không hề lo sợ, người ta trả thù hay là người ta bắt bẻ, người ta bắt bí. Ở đời thưa quí vị, khi chúng ta tỏ ra khôn ngoan, nói quá nhiều, lúc bấy giờ chúng ta sẽ có nhiều kẻ thù, có nhiều người đối lập, thì lúc bấy giờ người ta tìm dịp để hạ bệ mình xuống, thì trong trường hợp đó chúng ta đi đến hội chúng, chúng ta mới lo sợ. Chứ đối với bậc hiền trí vì rằng không có oan trái với người khác thì làm gì có tâm lo sợ, cho nên ở đây thưa quí vị, người trí sẽ đi đến một hội chúng, đi đến một cách tự tin do nhờ ba đặc điểm này.

Chúng ta thấy rõ Đức Phật Ngài đã minh hoạ bậc hiền trí với ba nét sống động. Một là tự tại, hai là không gây oan trái với người khác, thứ ba tức là tự tin không sợ hãi. Nói một cách khác bậc hiền trí hành xử một cách tự tại, không làm ai sợ, và cũng không sợ ai, đó mới đáng là bậc hiền trí. Còn nói nhiều hay nói ít thì điều này không phải là một chủng mực để chúng ta dựa vào đó để chúng ta đánh giá người trí. Người nói nhiều, nhưng mà tri thức rỗng không thì người đó chưa đáng được gọi là bậc hiền trí. Người nói ít, nhưng mà người đó có một tư tưởng thâm sâu thì người này không phải là kẻ ngu si. Nói ít hay nói nhiều đó là chỉ bên ngoài thôi, còn ở bên trong tri thức của người này có thể ứng dụng một cách chính xác cái tri thức của mình vào trong mọi hoàn cảnh có lợi cho mình, có lợi cho người khác được hay không thì điều đó mới là một chuẩn mực để chúng ta đánh giá là người trí.

Cho nên khi chúng ta đọc qua bài kệ này, với tinh thần bài kệ đó có được một kinh nghiệm trong đời sống tu tập hàng ngày của chúng ta, nếu chúng ta là bậc hiền trí thì chúng ta phải làm như thế nào để có một nội tâm yên tĩnh tự tại không bị chao động, làm như thế nào để chúng ta sử sự với người khác mà chúng ta không gây oán thù, làm như thế nào để tâm của chúng ta có được sự tự tin, chúng ta không hề biết run sợ, lo sợ trước ai cả, dầu cho người đó quyền uy chức tước hay giầu sang, nhưng mà chúng ta là người có lẽ phải, chúng ta không hề run sợ, đó là ý nghĩa của bài kệ ngày hôm nay. Đến đây là hết thời giảng cho bài kệ này.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Download KN 258

Kinh Pháp Cú Lưu Trữ


-ooOoo-

Dầu trang Phẩm 1 | 02 | 03 | 04 | 05 | 06 | 07 | 08 | 09 | 10 | 11 | 12 | 13 | 14 | 15 | 16 | 17 | 18 | 19 | 20 | 21 | 22 | 23 | 24 | 25 | 26 | 26b | MucLuc |

Trinh Bay:Minh Hạnh, Thiện Phap,Chanh Hanh

Trở về Trang chinh

Phẩm Song Yếu