I have heard that on one occasion the Blessed One was staying near Savatthi in Jeta's Grove, Anathapindika's monastery. There he addressed the monks, "Monks!"

Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn Ông Anathapindika (Cấp Cô Ðộc). Ở đây, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo:-- Này các Tỷ-kheo.

"Yes, lord," the monks responded.

-- Bạch Thế Tôn. Các Tỷ-kheo vâng đáp Thế Tôn

The Blessed One said: "On one occasion recently I was staying in Ukkattha in the Subhaga forest at the root of a royal sala tree. Now on that occasion an evil viewpoint had arisen to Baka-Brahma: 'This is constant. This is permanent. This is eternal. This is total. This is not subject to falling away — for this does not take birth, does not age, does not die, does not fall away, does not reappear.[1] And there is no other, higher escape.'

Thế Tôn nói như sau: -- Một thời, này các Tỷ-kheo, Ta ở tại Ukkattha trong rừng Subhagavana, dưới gốc cây Tala vương. Lúc bấy giờ, này các Tỷ-kheo, Phạm thiên Baka khởi lên ác tà kiến như sau: "Cái này là thường, cái này là thường hằng, cái này là thường tại, cái này là toàn diện, cái này không bị biến hoại, cái này không sanh, không già, không chết, không diệt, không khởi, ngoài cái này, không có một giải thoát nào khác hơn".

"So I — having known with my awareness the train of thought in Baka Brahma's awareness — as a strong man would extend his flexed arm or flex his extended arm, vanished into the root of the royal sala tree in the Subhaga forest in Ukkattha and appeared in that brahma world. Baka Brahma saw me coming in the distance and, on seeing me, said, 'Come, good sir. You are well-come, good sir. It has been long, good sir, since you arranged to come here — for this, good sir, is constant. This is permanent. This is eternal. This is total. This is not subject to falling away — for here one does not take birth, does not age, does not die, does not fall away, does not reappear. And there is no other, higher escape.'

Này các Tỷ-kheo, sau khi với tự tâm biết được tâm của Phạm thiên Baka, như người lực sĩ duỗi ra cánh tay đang co lại, hay co lại cánh tay đang duỗi ra, Ta biến mất tại Ukkattha, rừng Sabhagavana, dưới gốc cây Tala vương, và hiện ra tại cõi Phạm thiên ấy. Này các Tỷ-kheo, Phạm thiên Baka thấy Ta từ xa đi đến, sau khi thấy, liền nói với Ta: "-- Hãy đến, Tôn giả, thiện lai Tôn giả, đã lâu, nay Tôn giả mới có dịp đến đây. Này Tôn giả, cái này là toàn diện, cái này là thường hằng, cái này là thường tại, cái này là toàn diện, cái này không bị biến hoại, cái này không sanh, không già, không chết, không diệt, không khởi, ngoài cái này không có một giải thoát nào khác hơn.

"When this was said, I told Baka Brahma, 'How immersed in ignorance is Baka Brahma! How immersed in ignorance is Baka Brahma! — in that what is actually inconstant he calls "constant." What is actually impermanent he calls "permanent." What is actually non-eternal he calls "eternal." What is actually partial he calls "total." What is actually subject to falling away he calls "not subject to falling away." Where one takes birth, ages, dies, falls away, and reappears, he says, "For here one does not take birth, does not age, does not die, does not fall away, does not reappear." And there being another, higher escape, he says, "There is no other, higher escape."'

Khi nghe nói vậy, này các Tỷ-kheo, Ta nói với Phạm thiên Baka: "-- Thật sự Phạm thiên Baka bị chìm đắm trong vô minh, thật sự Phạm thiên Baka bị chìm đắm trong vô minh, khi cái vô thường lại nói là thường, cái không thường hằng lại nói là thường hằng, cái không thường tại lại nói là thường tại, cái không toàn diện lại nói là toàn diện, cái bị biến hoại lại nói là không biến hoại, và tại chỗ có sanh, có già, có chết, có diệt, có khởi, lại nói không sanh, không già, không chết, không diệt, không khởi; có một giải thoát khác hơn lại nói là không có một giải thoát nào khác hơn."

"Then Mara, the Evil One, taking possession of an attendant of the Brahma assembly, said to me, 'Monk! Monk! Don't attack him! Don't attack him! For this Brahma, monk, is the Great Brahma, the Conqueror, the Unconquered, the All-Seeing, All-Powerful, the Sovereign Lord, the Maker, Creator, Chief, Appointer and Ruler, Father of All That Have Been and Shall Be. There were, monk, before your time, brahmans & contemplatives in the world

Này các Tỷ-kheo, rồi Ác ma nhập vào một Phạm thiên quyến thuộc và nói với Ta như sau: "-- Tỷ-kheo, Tỷ-kheo chớ có can thiệp vào đây! Chớ có can thiệp vào đây! Này Tỷ-kheo, Phạm thiên này là Ðại Phạm thiên, Toàn năng, Tối thắng, Biến nhãn, Thượng đế, Sáng tạo chủ, Hóa sanh chủ, Ðại tôn, Chúa tể mọi định mạng, đấng Tự tại, Tổ phụ các chúng sanh đã và sẽ sanh. Này Tỷ-kheo, thuở xưa có những Sa-môn, Bà-la-môn, ở đời

who found fault with earth and were disgusted with earth,
who found fault with liquid and were disgusted with liquid,
who found fault with fire and were disgusted with fire,
who found fault with wind and were disgusted with wind,
who found fault with beings and were disgusted with beings,
who found fault with devas and were disgusted with devas,
who found fault with Pajapati and were disgusted with Pajapati,[2]
who found fault with Brahma and were disgusted with Brahma.
thuở xưa có những Sa-môn, Bà-la-môn, ở đời phỉ báng địa đại, ghê tởm địa đại,
phỉ báng thủy đại, ghê tởm thủy đại,
phỉ báng hỏa đại, ghê tởm hỏa đại,
phỉ báng phong đại, ghê tởm phong đại
phỉ báng chúng sanh, ghê tởm chúng sanh,
phỉ báng chư Thiên, ghê tởm chư Thiên,
phỉ báng Sanh chủ, ghê tởm Sanh chủ Pajapati Pajapati,[2]
phỉ báng Phạm thiên, ghê tởm Phạm thiên Brahma .

"'They, with the break-up of the body, with the cutting off of life, were established in a coarse body.[3] There were, monk, before your time, brahmans & contemplatives in the world

who praised earth and were delighted with earth,
who praised liquid and were delighted with liquid,
who praised fire and were delighted with fire,
who praised wind and were delighted with wind,
who praised beings and were delighted with beings,
who praised devas and were delighted with devas,
who praised Pajapati and were delighted with Pajapati,
who praised Brahma and were delighted with Brahma.

"sau khi thân hoại, mạng sống bị cắt đứt, phải an trú vào thân ti tiện. [3] Ở đó, này các tỳ kheo, Này các Tỷ-kheo, còn những Sa-môn, Bà-la-môn ở đời xưa kia

tán thán địa đại, hoan hỷ địa đại,
tán thán thủy đại, hoan hỷ thủy đại,
tán thán hỏa đại, hoan hỷ hỏa đại
tán thán phong đại, hoan hỷ phong đại,
tán thán chúng sanh, hoan hỷ chúng sanh,
tán thán chư Thiên, hoan hỷ chư Thiên,
tán thán Sanh chủ, hoan hỷ Sanh chủ,
tán thán Phạm thiên, hoan hỷ Phạm thiên,

"'They, with the break-up of the body, with the cutting off of life, were established in a refined body. So I tell you, monk, "Please, good sir, do only as Brahma says. Don't defy the word of Brahma. If you defy the word of Brahma, then — as a man, when the goddess of fortune approaches, chases her away with a stick, or as a man, falling into hell, loses hold of the earth with his hands and feet — that will be what you have accomplished. Please, good sir, do only as Brahma says. Don't defy the word of Brahma. Don't you see that Brahma's assembly has gathered?"' And so Mara the Evil One directed my attention to Brahma's assembly.

sau khi thân hoại, mạng sống bi cắt đứt, những vị này được an trú vào các thân vi diệu. Này các Tỷ-kheo, vì vấn đề này, ta nói như sau: "Phàm Phạm thiên nói với Ông những gì, Ông hãy làm như vậy. Ông chớ có đi quá xa lời Phạm thiên nói. Này Tỷ-kheo, nếu Ông đi quá xa lời Phạm thiên nói, thì giống như người dùng gậy đánh đập thần tài (Siri) đang đi đến; giống như một người đang rơi vào vực thẳm, tay chân lại không bám vào đất. Này Tỷ-kheo, sự việc sẽ xảy ra cho Ông như vậy. Này Tỷ-kheo, phàm Phạm thiên nói với Ông những gì, Ông hãy làm như vậy, Ông chớ có đi quá xa lời Phạm thiên nói. Này Tỷ-kheo, Ông có thấy chúng Phạm thiên đang ngồi chăng?"

"When this was said, I told Mara the Evil One, 'I know you, Evil One. Don't assume, "He doesn't know me." You are Mara, Evil One. And Brahma, and Brahma's assembly, and the attendants of Brahma's assembly have all fallen into your hands. They have all fallen into your power. And you think, "This one, too, has come into my hands, has come under my control." But, Evil One, I have neither come into your hands nor have I come under your control.'

Rồi này các Tỷ-kheo, Ác ma dắt Ta đến chúng Phạm thiên. Này các Tỷ-kheo, khi nghe nói vậy, Ta nói với Ác ma như sau: "-- Này Ác ma, Ta biết Ngươi. Chớ có nghĩ rằng: "Vị ấy không biết ta". Ngươi là Ác ma. Này Ác ma, phàm là Phạm thiên, phàm là Phạm thiên chúng, phàm là Phạm thiên quyến thuộc, tất cả đều nằm trong tay của Ngươi, tất cả đều nằm trong quyền lực của Ngươi. Này Ác ma, nếu Ngươi nghĩ rằng: "Mong vị này nằm trong tay ta; mong vị này nằm trong quyền lực của ta!". Này Ác ma, Ta không nằm trong tay của Ngươi. Ta không nằm trong quyền lực của Ngươi.

"When this was said, Baka Brahma told me, 'But, good sir, what is actually constant I call "constant." What is actually permanent I call "permanent." What is actually eternal I call "eternal." What is actually total I call "total." What is actually not subject to falling away I call "not subject to falling away." Where one does not take birth, age, die, fall away, or reappear, I say, "For this does not take birth, does not age, does not die, does not fall away, does not reappear." And there being no other, higher escape, I say, "There is no other, higher escape."

Này các Tỷ-kheo, khi được nói vậy, Phạm thiên Baka nói với Ta như sau: "-- Này Tôn giả, cái gì thường còn, ta nói là thường còn; cái gì thường hằng, ta nói là thường hằng; cái gì thường tại, ta nói thường tại; cái gì toàn diện, ta nói là toàn diện; cái gì không biến hoại, ta nói là không biến hoại. Ở đây, cái gì không sanh, không già, không chết, không diệt, không khởi, ta nói rằng cái ấy không sanh, không già, không chết, không diệt, không khởi, và vì không có một sự giải thoát nào khác hơn, ta nói là không có một sự giải thoát nào khác hơn.

"'There were, monk, before your time, brahmans & contemplatives in the world whose ascetic practice lasted as long as your entire life span. They knew, when there was another, higher escape, that there was another, higher escape; or, when there was no other, higher escape, that there was no other, higher escape. So I tell you, monk, both that you will not find another, higher escape, and that, to that extent, you will reap your share of trouble & weariness. Monk, if you relish earth, you will lie close to me, lie within my domain, for me to banish and to do with as I like. If you relish liquid ... fire ... wind ... beings ... devas ... Pajapati ... brahma, you will lie close to me, lie within my domain, for me to banish and to do with as I like.'

Này Tỷ-kheo, xưa kia có những Sa-môn, Bà-la-môn ở trong những đời trước Ông; những vị này đã tu hành khổ hạnh lâu dài cho đến trọn tuổi thọ của những người đó, những vị này phải biết:" Hoặc có một sự giải thoát khác hơn, thì biết rằng có một sự giải thoát khác hơn; hoặc không có một sự giải thoát khác hơn, thì biết rằng không có một sự giải thoát nào khác hơn". Này Tỷ-kheo, ta nói như sau với Ông: Ông sẽ không thấy một giải thoát nào khác hơn, dầu ông có phải chịu đựng mệt nhọc và khổ cực. Này Tỷ-kheo, nếu Ông y trước địa đại, Ông sẽ gần ta, trú tại lãnh địa của ta, làm theo ý ta muốn, bị đứng ngoài lề; nếu Ông y trước thủy đại... hỏa đại... phong đại... chúng sanh... Chư thiên... Sanh chủ... Nếu Ông y trước Phạm thiên, Ông sẽ gần ta, trú tại lãnh địa của ta, làm theo ý ta muốn, bị đứng ra ngoài lề..

"'I, too, know that, brahma. If I relish earth, I will lie close to you, lie within your domain, for you to banish and to do with as you like. If I relish liquid ... fire ... wind ... beings ... devas ... Pajapati ... brahma, I will lie close to you, lie within your domain, for you to banish and to do with as you like. Moreover, I discern your sphere, I discern your splendor: "Baka Brahma has this much great power. Baka Brahma has this much great might. Baka Brahma has this much great influence."'

"-- Này Phạm thiên, Ta biết việc này. Nếu Ta y trước địa đại... thủy đại... hỏa đại... phong đại... chúng sanh... chư Thiên... Sanh chủ... Nếu Ta y trước Phạm thiên, Ta sẽ gần Ông, trú tại lãnh địa của Ông, làm theo ý Ông muốn, bị đứng ra ngoài lề. Lại nữa, này Phạm thiên, Ta biết sanh thú (gati) của Ông và Ta biết sự quang vinh của Ông. Phạm thiên Baka có thần lực như vậy; Phạm thiên Baka có quyền lực như vậy; Phạm thiên Baka có uy lực như vậy.

"'Well, monk, how do you discern my sphere, how do you discern my splendor: "Baka Brahma has this much great power. Baka Brahma has this much great might. Baka Brahma has this much great influence"?'

"-- Này Tỷ-kheo, như Ông biết sanh thú, Ông biết sự quang vinh của ta: "Phạm thiên Baka có thần lực như vậy; Phạm thiên Baka có quyền lực như vậy; Phạm thiên Baka có uy lực như vậy".

"'As far as suns & moons revolve,
shining, illuminating the directions,
over a thousand-fold world
your control holds sway.
There you know those above & below,
those with lust & those without,
the state of what is as it is,
the state of what becomes otherwise,
the coming & going of beings.
"- Như nhật nguyệt lưu chuyển,
Sáng chói khắp mười phương,
Như vậy mười Thiên giới,
Dưới uy lực của Ông.
Ông biết chỗ cao thấp,
Có dục và không dục,
Hữu này và hữu kia,
Chỗ đến, đi hữu tình.

"'That, brahma, is how I discern your sphere, that is how I discern your splendor: "Baka Brahma has this much great power. Baka Brahma has this much great might. Baka Brahma has this much great influence." There are, brahma, bodies other than yours that you don't know, don't see, but that I know, I see. There is, brahma, the body named Abhassara (Radiant/Luminous) from which you fell away & reappeared here.[4] From your having lived here so long, your memory of that has become muddled. That is why you don't know it, don't see it, but I know it, I see it. Thus I am not your mere equal in terms of direct knowing, so how could I be inferior? I am actually superior to you.

Như vậy, này Phạm thiên, Ta biết chỗ sanh thú và sự quang vinh của Ông: "Phạm thiên Baka có thần lực như vậy; Phạm thiên Baka có quyền lực như vậy; Phạm thiên Baka có uy lực như vậy". Này Phạm thiên, có ba loại chư Thiên mà Ông không biết, không thấy, nhưng Ta biết, Ta thấy. Này Phạm thiên, có loại chư Thiên tên là Abhassara (Quang âm thiên), từ chư Thiên này, Ông mạng chung, và sanh ở nơi đây. Nhưng vì Ông an trú ở đấy quá lâu, nên Ông không nhớ được. Do đó, Ông không biết, không thấy, còn Ta biết, Ta thấy. Như vậy, này Phạm Thiên, Ta còn không chịu ngang hàng Ông về thượng trí huống nữa là thấp hơn. Do vậy, Ta thù thắng hơn Ông.

"'There is, brahma, the body named Subhakinha (Beautiful Black/Refulgent Glory) ... the body named Vehapphala (Sky-fruit/Great Fruit), {the body named Abhibhu (Conqueror)}[5] which you don't know, don't see, but that I know, I see. Thus I am not your mere equal in terms of direct knowing, so how could I be your inferior? I am actually superior to you.

Này Phạm thiên, lại có một loại chư Thiên tên là Subhakinna (Biến tịnh thiên)... lại có một loại chư Thiên tên là Vehapphala (Quảng quả thiên) mà Ông không biết, không thấy, nhưng Ta biết, Ta thấy. Như vậy, này Phạm thiên, Ta còn không chịu ngang hàng Ông về thượng trí, huống nữa là thấp hơn. Do vậy. Ta thù thắng hơn Ông.

"'Having directly known earth as earth, and having directly known the extent of what has not been experienced through the earthness of earth,[6] I wasn't earth, I wasn't in earth, I wasn't coming from earth, I wasn't "Earth is mine." I didn't affirm earth.[7] Thus I am not your mere equal in terms of direct knowing, so how could I be inferior? I am actually superior to you.

Này Phạm thiên, Ta biết địa đại từ địa đại, cho đến giới vức địa đại, Ta không lãnh thọ địa tánh; do biết địa đại, Ta không nghĩ: "Ta là địa đại. Ta ở trong địa đại, Ta từ địa đại, địa đại là của Ta, và Ta không tôn trọng địa đại". Như vậy, này Phạm thiên, Ta còn không chịu ngang hàng Ông về thượng trí, huống nữa là thấp hơn. Do vậy, Ta thù thắng hơn Ông.

"'Having directly known liquid as liquid ... fire as fire ... wind as wind ... beings as beings ... devas as devas ... Pajapati as Pajapati ... brahma as brahma ... the radiant as radiant ... the beautiful black as the beautiful black ... the sky-fruit as the sky-fruit ... the conqueror as the conqueror ...

Này Phạm thiên, Ta biết thủy đại... Này Phạm thiên, Ta biết hỏa đại... Này Phạm thiên, Ta biết phong đại... Này Phạm thiên, Ta biết chúng sanh... Này Phạm thiên, Ta biết chư Thiên... Này Phạm thiên, Ta biết Sanh chủ... Này Phạm thiên, Ta biết Phạm thiên... Này Phạm thiên, Ta biết Abhassara (Quang âm thiên)... Này Phạm thiên, Ta biết Subhakinna (Biến tịnh thiên)... Này Phạm thiên, Ta biết Vahapphala (Quảng quả thiên)... Này Phạm thiên, Ta biết Abhibhu (Thắng giải)...

"'Having directly known the all as the all,[8] and having directly known the extent of what has not been experienced through the allness of the all, I wasn't the all, I wasn't in the all, I wasn't coming forth from the all, I wasn't "The all is mine." I didn't affirm the all. Thus I am not your mere equal in terms of direct knowing, so how could I be inferior? I am actually superior to you.'

" Này Phạm thiên, Ta biết tất cả (Sabba) từ tất cả, cho đến giới vức tất cả, Ta không lãnh thọ nhứt thiết tánh, Ta không nghĩ: "Ta là tất cả, Ta ở trong tất cả, Ta từ tất cả, tất cả là của Ta, và Ta không tôn trọng tất cả". Như vậy, này Phạm thiên, Ta còn không chịu ngang hàng Ông về thượng trí, huống nữa là thấp hơn. Do vậy, Ta thù thắng hơn Ông.

"'If, good sir, you have directly known the extent of what has not been experienced through the allness of the all, may it not turn out to be actually vain and void for you.'

"-- Này Tôn giả, đối với tất cả, nếu Tôn giả không lãnh thọ nhất thiết tánh, thì đối với Tôn giả, trở thành trống không, trống rỗng,

"'Consciousness without surface, endless, radiant all around,
Thức là phi sở kiến, không biên tế, chói sáng tất cả ,

has not been experienced through the earthness of earth ... the liquidity of liquid ... the fieriness of fire ... the windiness of wind ... the allness of the all.'[9]

nếu không thể lãnh thọ địa đại ngang qua địa tánh, không thể lãnh thọ thủy đại ngang qua thủy tánh, không thể lãnh thọ hỏa đại ngang qua hỏa tánh, không thể lãnh thọ phong đại ngang qua phong tánh, không thể lãnh thọ chúng sanh ngang qua chúng sanh tánh, không thể lãnh thọ chư Thiên ngang qua chư Thiên tánh, không thể lãnh thọ Sanh chủ ngang qua Sanh chủ tánh, không thể lãnh thọ Phạm thiên ngang qua Phạm thiên tánh, không thể lãnh thọ Quang âm thiên ngang qua Quang âm thiên tánh, không thể lãnh thọ Biến tịnh thiên ngang qua Biến tịnh thiên tánh, không thể lãnh thọ Quảng quả thiên ngang qua Quảng quả thiên tánh, không thể lãnh thọ Abhibhu (Thắng giả) ngang qua Abhibhu tánh, không thể lãnh thọ nhứt thiết ngang qua nhứt thiết tánh. Này Tôn giả, nay ta sẽ biến mất trước mặt Tôn giả.

"'Well then, good sir, I will disappear from you.'

"-- Này Phạm thiên, Ta sẽ biến mất trước mặt Ông.

"'Well then, brahma, disappear from me if you can.'

"-- Này Tôn giả, Tôn giả hãy biến đi trước mặt Ta, nếu Tôn giả có thể biến được.

"Then Baka Brahma, [thinking,] 'I will disappear from Gotama the contemplative. I will disappear from Gotama the contemplative,' was not able to disappear from me. When this was said, I said to Baka Brahma, 'Well then, brahma, I will disappear from you.'

Rồi này các Tỷ-kheo, Phạm thiên Baka nói: "-- Ta sẽ biến mất trước mặt Sa-môn Gotama. Ta sẽ biến mất trước Sa-môn Gotama.

"'Well then, good sir, disappear from me if you can.'

"-- Này Tôn giả, Tôn giả hãy biến đi trước mặt Ta, nếu Tôn giả có thể biến được.

"So then, monks, I fabricated a fabrication of psychic power to the extent that Brahma, the Brahma assembly, and the attendants of the Brahma assembly heard my voice but did not see me. Having disappeared, I recited this verse:

Rồi này các Tỷ-kheo, Ta thực hiện thần thông như sau: "Hãy để cho Phạm thiên, Phạm thiên chúng và Phạm thiên quyến thuộc nghe tiếng Ta chớ không thấy Ta", Ta biến mất và nói lên bài kệ như sau:

'Having seen
danger
right in becoming,
and becoming
searching for non-becoming,[10]
I didn't affirm
any kind of becoming,
or cling to any delight.'
'Thấy nguy hiểm trong hữu,
Từ hữu, tìm phi hữu,
Ta không tôn trọng hữu,
Không hỷ, không chấp trước".,[10]

"Then in Brahma, the Brahma assembly, and the attendants of the Brahma assembly there arose a sense of amazement & awe: 'How amazing! How awesome! — The great power, the great might of Gotama the contemplative! Never before have we seen or heard of any other contemplative or brahman of such great power, such great might as that of this Gotama the contemplative, who went forth from a Sakyan clan! Living in a generation that so delights in becoming, so rejoices in becoming, is so fond of becoming, he has pulled out becoming by the root!'

Rồi này các Tỷ-kheo, Phạm thiên, Phạm thiên chúng và Phạm thiên quyến thuộc, tâm sanh vi diệu hy hữu, nói lên như sau: "Thật vi diệu thay, chư Tôn giả! Thật hy hữu thay, chư Tôn giả! Ðại thần lực, đại uy lực của Sa-môn Gotama. Thật sự từ trước đến nay chưa từng thấy, chưa từng nghe một Sa-môn hay Bà-la-môn nào khác có được đại thần lực, đại uy lực như Sa-môn Gotama, là Thích Tử, xuất gia từ giòng họ Sakya. Ðối với quần chúng ái trước hữu, lạc nhiễm, hoan hỷ đối với hữu (Sa-môn Gotama) đã nhổ hữu lên tận cả gốc rễ!"

"Then Mara, the Evil One, taking possession of an attendant of the Brahma assembly, said to me, 'If, good sir, this is what you discern, if this is what you have awakened to, do not lead (lay) disciples or those gone forth. Do not teach the Dhamma to (lay) disciples or those gone forth. Do not yearn for (lay) disciples or those gone forth. There were, good sir, before your time, brahmans & contemplatives in the world who claimed to be worthy & rightly self-awakened. They led (lay) disciples & those gone forth. They taught the Dhamma to (lay) disciples & those gone forth. They yearned for (lay) disciples & those gone forth. Having led (lay) disciples & those gone forth, having taught the Dhamma to (lay) disciples & those gone forth, having yearned for (lay) disciples & those gone forth, they — on the break-up of the body, with the cutting off of life — were established in a coarse body.

Rồi này các Tỷ-kheo, Ác ma sau khi nhập vào một trong Phạm thiên quyến thuộc đã nói với Ta như sau: "-- Này Tôn giả, nếu Ông biết như vậy, giác ngộ như vậy, chớ có hướng dẫn đệ tử, chớ có hướng dẫn các vị xuất gia, chớ có thuyết pháp cho các đệ tử, chớ có thuyết pháp cho các vị xuất gia, chớ có ái luyến đệ tử, chớ có ái luyến các vị xuất gia. Này Tỷ-kheo, trước Ông đã có những vị Sa-môn, Bà-la-môn ở đời tự xưng là bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác. Những vị này hướng dẫn đệ tử, hướng dẫn các vị xuất gia, thuyết pháp cho các đệ tử, thuyết pháp cho các vị xuất gia, ái luyến các đệ tử, ái luyến các vị xuất gia. Sau khi hướng dẫn các đệ tử, các vị xuất gia, sau khi thuyết pháp cho các đệ tử, các vị xuất gia, sau khi ái luyến các đệ tử, các vị xuất gia, khi thân hoại, mạng sống bị cắt đứt, những vị này bị an trú trong các thân hạ liệt.

"'There were, good sir, before your time, brahmans & contemplatives in the world who claimed to be worthy & rightly self-awakened. They did not lead (lay) disciples or those gone forth. They did not teach the Dhamma to (lay) disciples or those gone forth. They did not yearn for (lay) disciples or those gone forth. Having not led (lay) disciples or those gone forth, having not taught the Dhamma to (lay) disciples or those gone forth, having not yearned for (lay) disciples or those gone forth, they — on the break-up of the body, with the cutting off of life — were established in a refined body.

Này Tỷ-kheo, trước Ông đã có những vị Sa-môn, Bà-la-môn ở đời, tự xưng là bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác. Những vị này không hướng dẫn đệ tử, không hướng dẫn các vị xuất gia, không thuyết pháp cho đệ tử, không thuyết pháp cho các vị xuất gia, không ái luyến các đệ tử, không ái luyến các vị xuất gia. Sau khi không hướng dẫn các đệ tử, không hướng dẫn các vị xuất gia, không thuyết pháp cho các đệ tử, không thuyết pháp cho các vị xuất gia, không ái luyến các đệ tử, không ái luyến các vị xuất gia, khi thân hoại, mạng sống bị cắt đứt, các vị này được an trú trong thân vi diệu.

"'So, monk, I tell you this: Please, good sir, be effortless. Abide committed to a pleasant abiding in the here-&-now — for it is skillful, good sir, that this not be taught. Don't instruct others.'

Này Tỷ-kheo, ta nói với Ông như sau: "Này Tôn giả, chớ có phiền lao cực nhọc, hãy sống lạc trú hiện tại. Này Tôn giả, chớ có nêu rõ việc thiện. Này Tôn giả, chớ có giảng dạy cho người khác!"

"When this was said, I told Mara the Evil One, 'I know you, Evil One. Don't assume, "He doesn't know me." You are Mara, Evil One. And it's not sympathetic to welfare that you speak thus to me. It's sympathetic to what is not welfare that you speak thus to me. You think this, Evil One: "Those to whom Gotama the contemplative will teach the Dhamma will defy my sovereignty. Without being rightly self-awakened, Evil One, your contemplatives & brahmans claimed to be rightly self-awakened. I, however, being rightly self-awakened claim to be rightly self-awakened. For when the Tathagata is teaching the Dhamma to his disciples, he is Such. When he is not teaching the Dhamma to his disciples, he is Such. When leading his disciples he is Such. When not leading his disciples he is Such. Why is that? The fermentations that defile, that lead to further becoming, that disturb, that ripen in stress, that tend to future birth, aging, & death: Those the Tathagata has abandoned, their root destroyed, like an uprooted palmyra tree, deprived of the conditions of development, not destined for future arising. Just as a palmyra tree with its crown cut off is incapable of growing again; so, too, the fermentations that defile, that lead to further becoming, that disturb, that ripen in stress, that tend to future birth, aging, & death: Those the Tathagata has abandoned, their root destroyed, like an uprooted palmyra tree, deprived of the conditions of development, not destined for future arising.'"

Này các Tỷ-kheo khi nghe nói vậy, Ta nói với Ác ma như sau: "-- Này Ác ma, Ta biết Ngươi! Ngươi chớ có nghĩ rằng: "Vị ấy không biết ta". Này Ác ma, Ngươi là Ác ma! Ngươi là Ác ma! Này Ác ma, Ngươi nói như vậy không phải vì lòng thương tưởng đối với Ta. Này Ác ma, Ngươi nói như vậy vì không có lòng thương tưởng đối với Ta. Này Ác ma, Ngươi nghĩ như sau: "Những ai được Sa-môn Gotama thuyết pháp, những người ấy sẽ thoát ra ngoài tầm tay ảnh hưởng của ta". Này Ác ma, những Sa-môn, Bà-la-môn ấy không phải Chánh Ðẳng Giác, nhưng tự xưng là: "Chúng ta là Chánh Ðẳng Giác". Này Ác ma, Ta là Chánh Ðẳng Giác và Ta tự xưng Ta là Chánh Ðẳng Giác. Này Ác ma, Như Lai có thuyết pháp cho đệ tử, Như Lai cũng vẫn là Như Lai. Này Ác ma, Như Lai không thuyết pháp cho các đệ tử, Như Lai cũng vẫn là Như Lai. Này Ác ma, Như Lai có hướng dẫn cho các đệ tử, Như Lai cũng vẫn là Như Lai. Này Ác ma, Như Lai không hướng dẫn cho các đệ tử, Như Lai cũng vẫn là Như Lai. Vì sao vậy? Này Ác ma, đối với Như Lai, các lậu hoặc tương ưng với phiền não, đưa đến tái sanh, gây nên phiền lụy, đem đến quả khổ dị thục; đưa đến sanh, già, chết trong tương lai; các lậu hoặc ấy đã được diệt trừ, được cắt đứt tận gốc, được làm như thân cây Tala, khiến không thể tái sanh, không thể sanh khởi trong tương lai. Này Ác ma, ví như cây tala, dầu thân cây này bị chặt dứt, khiến không thể lớn lên được; cũng vậy, này Ác ma, đối với Như Lai, các lậu hoặc tương ứng với phiền não, đưa đến tái sanh, gây nên phiền lụy, đem đến quả khổ dị thục, đưa đến sanh, già, chết trong tương lai; các lậu hoặc ấy đã được diệt trừ, được cắt đứt tận gốc, được làm như thân cây tala, khiến không thể tái sanh, không thể sanh khởi trong tương lai".

Thus, because of the silencing of Mara, and because of the brahma's invitation, this discourse is entitled, "The Brahma Invitation."

Như vậy, vì Ác ma đã thất bại, không thể thuyết phục (Ta), vì có lời mời Phạm thiên, nên bài trả lời này cũng được gọi là Kinh Phạm Thiên Cầu Thỉnh.

Notes

1.
Baka Brahma here appears to be referring both to his Brahma world and to the state of mind that enables one to inhabit his Brahma world.
2.
Pajapati has different meanings in different contexts. In some contexts, it refers to a creator deva dwelling in a brahma world of form. In other contexts, it refers to the chief wife of a major deva.
3.
The word body in this discourse refers to three things: an individual body, a group of beings on a particular level of being, and the level of being as a whole. The Commentary says that coarse body here refers to the four levels of deprivation, and refined body, further on, to the Brahma worlds.
4.
The Abhassara Brahma-body is attained through mastering and relishing the second jhana. The next two Brahma-bodies are attained through mastering and relishing the third and fourth. See AN IV.123 & 125, and in particular note 2 under the latter sutta.
5.
The phrase in braces is from the Burmese edition of the Canon.
6.
What is not experienced through the earthness of earth (and so on through the list of categories up through the allness of the all) is nibbana, or unbinding. It is described in these terms because it is directly known, without intermediary of any sort.
7.
These statements can be read in two ways. The first way is to regard them in light of the standard definition of self-identity view (see, for instance, MN 44, MN 109, and SN 22.1) in which one defines self either as identical with an aggregate, as possessing an aggregate, as being contained in an aggregate, or as containing an aggregate within it. The second way is to regard the statements in light of the parallel passage from MN 1, in which one engages in metaphysical speculation as to whether one's being is identical with something, lies within something, or comes from something. For more on this topic, see the introduction to the Mulapariyaya Sutta (MN 1)
8.
"What is the All? Simply the eye & forms, ear & sounds, nose & aromas, tongue & flavors, body & tactile sensations, intellect & ideas. This is termed the All. Anyone who would say, 'Repudiating this All, I will describe another,' if questioned on what exactly might be the grounds for his assertion, would be unable to explain, and furthermore, would be put to grief. Why is that? Because it lies beyond range." (SN 35.23). For more on this topic, see The Mind Like Fire Unbound, Chapter 1.
9.
Consciousness without surface (viññanam anidassanam): This term appears to be related to the following image from SN 12.64:

Notes

1.
Phạm Thiên Baka Brahmā này là Mahā-brahmā, là Đại Phạm thiên, là đấng Chiến thắng,
2.
Pajapaticó nhiều nghĩa khác nhau trong các ngữ cảnh khác nhau. Trong một số ngữ cảnh, đề cập đến một đấng sáng tạo (sanh chủ) đang cư ngụ trong một thế giới hình thức Phạm Thiên. Trong các ngữ cảnh khác, dùng để chỉ vợ của một vị thần .
3.
Từ vựng cơ thể trong bài kinh này đề cập đến ba thứ: một cơ thể riêng lẻ, một nhóm chúng sinh ở một cấp độ của hiện hữu, và cấp độ của một tổng thể. Bài kinh nói rằng thân thô ở đây ám chỉ bốn cõi khổ, và loài người, xa hơn nữa, là các thế giới Phạm thiên.
4.
Chư thiên Quang âm thiên (Abhassara) thân đạt được Nhị thiền. Hai thân Phạm thiên tiếp theo đạt được thông qua việc đạt thiền thứ ba và thứ tư. Xem AN IV.123 & và 125,đặc biệt là xem phần chú thích 2 dưới bài kinh sau.
5.
Cụm từ trong dấu ngoặc nhọn là từ ấn bản tiếng Miến Điện của kinh điển Pali.
6.
Những gì không được trải nghiệm qua đại địa của địa đại (và như vậy qua danh sách các danh mục thông qua sự toàn thể của tất cả) là giải thoát (nibbana), hay không bị ràng buộc. Nó được mô tả trong các thuật ngữ này bởi vì nó được biết trực tiếp, không có bất kỳ hình thức trung gian nào.
7.
Những đoạn này có thể được đọc theo hai cách. Cách đầu tiên là xem xét chúng theo định nghĩa tiêu chuẩn của quan điểm tự nhận dạng (ví dụ, xem MN 44, MN 109, và SN 22.1), trong đó người ta định nghĩa cái ta giống hệt với một tổng thể, như sở hữu một tổng thể. , như được chứa trong một tập hợp, hoặc khi chứa một tập hợp bên trong nó. Cách thứ hai là xem xét các tuyên bố dựa trên đoạn văn song song từ (MN 1).trong đó người ta tham gia vào suy đoán siêu hình về việc liệu bản thể của một người giống hệt với một cái gì đó, nằm trong cái gì đó, hay đến từ một cái gì đó. Để biết thêm về chủ đề này, hãy xem phần giới thiệu về Kinh Mulapariyaya (MN 1).
8.
"Tất cả là gì? Chỉ đơn giản là Mắt và các sắc;, Tai và các tiếng, Mũi và các hương;, Lưỡi và các vị, Thân và các xúc;, Ý và các pháp. Như vậy, này các Tỷ-kheo, gọi là tất cả. Này các Tỷ-kheo, ai nói như sau: "Sau khi từ bỏ tất cả này, ta sẽ tuyên bố (một) tất cả khác ", thời lời nói người ấy chỉ là khoa ngôn. Và bị hỏi, người ấy không thể chứng minh gì. Và hơn nữa, người ấy có thể rơi vào ách nạn. Vì sao? Này các Tỷ-kheo, như vậy ra ngoài giới vức (avisaya) của người ấy!" (SN 35.23. Để biết thêm về chủ đề này, hãy xem Tâm như lửa không ràng buộc, Chương 1.
9.
Thức là phi sở kiến, (viññanam anidassanam): xem trong bài kinh này SN 12.64:

"Just as if there were a roofed house or a roofed hall having windows on the north, the south, or the east. When the sun rises, and a ray has entered by way of the window, where does it land?"

"On the western wall, lord."

"And if there is no western wall, where does it land?"

"On the ground, lord."

"And if there is no ground, where does it land?"

"On the water, lord."

"And if there is no water, where does it land?"

"It does not land, lord."

"In the same way, where there is no passion for the nutriment of physical food ... contact ... intellectual intention ... consciousness, where there is no delight, no craving, then consciousness does not land there or grow. Where consciousness does not land or grow, name-&-form does not alight. Where name-&-form does not alight, there is no growth of fabrications. Where there is no growth of fabrications, there is no production of renewed becoming in the future. Where there is no production of renewed becoming in the future, there is no future birth, aging, & death. That, I tell you, has no sorrow, affliction, or despair."

Ví như, này các Tỷ-kheo, một ngôi nhà có mái hay một dãy hành lang có mái, có cửa sổ phía Bắc, phía Nam, hay phía Đông. Khi mặt trời mọc lên, ánh sáng ngang qua cửa sổ chiếu vào, thời chiếu vào chỗ nào?

"- "Bạch Thế Tôn, chiếu vào tường phía Tây.""

"-Này các Tỷ-kheo, nếu không có tường phía Tây, thời chiếu vào chỗ nào?""

"- Bạch Thế Tôn, chiếu trên đất."

-"Này các Tỷ-kheo, nếu không có đất, thời chiếu vào chỗ nào?"

-" Bạch Thế Tôn, chiếu trên nước."

-"Này các Tỷ-kheo, nếu không có nước, thời chiếu vào chỗ nào?"

-" Bạch Thế Tôn, không có chiếu ở đâu cả."

"-Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, nếu đối với đoàn thực không có tham, không có hỷ, không có ái. .. -Này các Tỷ-kheo, nếu đối với xúc thực... -Này các Tỷ-kheo, nếu đối với tư niệm thực... -Này các Tỷ-kheo, nếu đối với thức thực, không có tham, không có hỷ, không có ái, thời không có thức an trú. Chỗ nào không có thức an trú, chỗ ấy không có danh sắc sanh. Chỗ nào không có danh sắc sanh, chỗ ấy không có các hành tăng trưởng. Chỗ nào không có các hành tăng trưởng, chỗ ấy không có hữu tái sanh trong tương lai. Chỗ nào không có hữu tái sanh trong tương lai, chỗ ấy không có sanh, già chết trong tương lai. Chỗ nào không có sanh, già chết trong tương lai, Ta nói rằng chỗ ấy không có sầu, không có khổ, không có não.

In other words, normal sensory consciousness is experienced because it has a "surface" against which it lands: the sense organs and their objects, which constitute the "all." For instance, we experience visual consciousness because of the eye and forms of which we are conscious. Consciousness without surface, however, is directly known, without intermediary, free from any dependence on conditions at all.

Nói cách khác, giác quan ý thức bình thường được trải nghiệm bởi vì có một "bề mặt" mà nó tiếp cận: các cơ quan cảm giác và các đối tượng của chúng, tạo thành "tất cả". Ví dụ, chúng ta trải nghiệm ý thức thị giác nhờ mắt và các hình thức mà chúng ta có ý thức. Tuy nhiên, ý thức không có bề mặt được biết trực tiếp, không qua trung gian, hoàn toàn không lệ thuộc vào các điều kiện.

This consciousness thus differs from the consciousness factor in dependent co-arising, which is defined in terms of the six sense media. Lying outside of time and space, it would also not come under the consciousness-aggregate, which covers all consciousness near and far; past, present, and future. And, as SN 35.23 notes, the word "all" in the Buddha's teaching covers only the six sense media, which is another reason for not including this consciousness under the aggregates. However, the fact that it is outside of time and space — in a dimension where there is no here, there, or in between (Ud I.10), no coming, no going, or staying (Ud VIII.1) — means that it cannot be described as permanent or omnipresent, terms that have meaning only within space and time.

Do đó, ý thức này khác với nhân tố ý thức trong sự đồng sinh phụ thuộc, được định nghĩa theo phương tiện sáu giác quan. Nằm ngoài thời gian và không gian, nó cũng sẽ không nằm dưới thức uẩn, vốn bao trùm tất cả các thức gần và xa; quá khứ, hiện tại và tương lai. Và, như trong bài kinhSN 35.23 lưu ý, từ "tất cả" trong lời dạy của Đức Phật chỉ bao hàm sáu phương tiện giác quan, đó là một lý do khác để không bao gồm thức này dưới các uẩn. Tuy nhiên, thực tế là nó nằm ngoài thời gian và không gian - trong một chiều không gian không có ở đây, ở đó, hoặc ở giữa (Ud I.10), không đến, không đi hay ở lại (Ud VIII.1) - có nghĩa là rằng nó không thể được mô tả là vĩnh viễn hoặc ở khắp nơi, những thuật ngữ chỉ có ý nghĩa trong không gian và thời gian.

Some have objected to the equation of this consciousness with nibbana, on the grounds that nibbana is nowhere else in the Canon described as a form of consciousness. Thus they have proposed that consciousness without surface be regarded as an arahant's consciousness of nibbana in meditative experience, and not nibbana itself. This argument, however, contains a flaw: If nibbana is an object of mental consciousness (as a dhamma), it would come under the all, as an object of the intellect. There are passages in the Canon (such as AN 9.36) that describe meditators experiencing nibbana as a dhamma, but these passages seem to indicate that this description applies up through the level of non-returning. Other passages, however, describe nibbana as the ending of all dhammas. For instance, Sn V.6 quotes the Buddha as calling the attainment of the goal the transcending of all dhammas. Sn IV.6 and Sn IV.10 state that the arahant has transcended dispassion, said to be the highest dhamma. Thus, for the arahant, nibbana is not an object of consciousness. Instead it is directly known without mediation. Because consciousness without feature is directly known without mediation, there seems good reason to equate the two.

Một số người đã phản đối phương trình của ý thức này với Niết-bàn, với lý do rằng Niết-bàn không có chỗ nào khác trong Kinh điển được mô tả như một dạng thức. Do đó, họ đã đề xuất rằng ý thức không có bề mặt được coi là ý thức của một vị A-la-hán về Niết bàn trong kinh nghiệm thiền định, chứ không phải bản thân Niết-bàn. Tuy nhiên, lập luận này chứa đựng một thiếu sót: Nếu Niết-bàn là một đối tượng của tâm thức (như một pháp), thì nó sẽ nằm dưới tất cả, như một đối tượng của trí tuệ. Có những đoạn trong Kinh điển (chẳng hạn như AN 9.36)) mô tả hành giả trải nghiệm Niết-bàn như một pháp, nhưng những đoạn này dường như chỉ ra rằng mô tả này áp dụng cho mức độ không trở lại. Tuy nhiên, những đoạn khác mô tả Niết-bàn là sự kết thúc của tất cả các pháp. Chẳng hạn, Sn V.6 trích lời Đức Phật gọi việc đạt được Niết-bàn là sự siêu việt của tất cả các pháp. Sn IV.6Sn IV.10 nói rằng vị A-la-hán đã vượt qua ly ái Ly ái trước thân hoại, Không y chỉ ban đầu, Không y chỉ cuối cùng, Không kể đến vật giữa, Không có ưa thích nào. được cho là bậc người tối thượng.. Như vậy, đối với bậc A la hán, nibbana không phải là một đối tượng của tâm thức. Thay vào đó, nó được biết trực tiếp mà không cần qua trung gian. Bởi vì ý thức không có tính năng được biết trực tiếp mà không cần qua trung gian, có vẻ như có lý do chính đáng cho cả hai.

10.
In other words, the act of searching for non-becoming — or annihilation — is also a type of becoming. Although the Buddhist path aims at the cessation of becoming (bhava), it does not attempt this cessation by trying to annihilate the process of becoming. Instead, it does so by focusing on what has already come to be (bhuta), developing dispassion for what has come to be and for the nutriment — the causes — of what has come to be. With no more passion, there is no clinging to or taking sustenance from the causes of what has come to be. And through this lack of clinging or sustenance comes release. On this point see SN 12.31 and Iti 49.
10.
Nói cách khác, hành động tìm kiếm sự không tái sanh - hay sự hủy diệt - cũng là một kiểu của ái hữu. Mặc dù con đường tu tập Phật giáo nhắm đến sự chấm dứt của sự tái sanh (hữu), nó không cố gắng sự chấm dứt này bằng cách cố gắng tiêu diệt quá trình hữu ái. Thay vào đó, nó làm như vậy bằng cách tập trung vào những gì đã xảy ra (bhuta), quán về ly ái trước thân hoại cho những gì đã đến và cho dinh dưỡng - nguyên nhân - của những gì đã đến. Không còn đam mê, không còn bám víu hay lấy đi sự nuôi dưỡng từ những nguyên nhân của những gì đã đến. Và thông qua sự không bám víu hoặc không trưởng dưỡng này sẽ được giải thoát. Về điểm này, xem SN 12.31Iti 49..

See also: DN 11; MN 1; MN 72; MN 86

^^^^

 Chủ biên và điều hành: TT Thích Giác Đẳng.

  Những đóng góp dịch thuật xin gửi về TT Thích Giác Đẳng tại phamdang0308@gmail.com
Cập nhập ngày: Thứ Sáu 4-12-2020

webmasters: Minh Hạnh & Thiện Pháp, Thủy Tú & Phạm Cương

 | | trở về đầu trang | Home page |