I have heard that:
On one occasion the Blessed One was staying near Savatthi at Jeta's Grove, Anathapindika's monastery. And at that time in King Pasenadi's realm there was a bandit named Angulimala: brutal, bloody-handed, devoted to killing & slaying, showing no mercy to living beings. He turned villages into non-villages, towns into non-towns, settled countryside into unsettled countryside. Having repeatedly killed human beings, he wore a garland (mala) made of fingers (anguli).




Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn trú tại Savatthi, Jetavana, ở tinh xá ông Anthapindika. Lúc bấy giờ, trong lănh thổ của quốc vương Pasenadi (Ba-tư-nặc), nước Kosala, có tên cướp Angulimala một thợ săn, tay vấy máu, sát hại, bạo tàn, không có ḷng từ mẫn đối với chúng sanh. V́ nó, các làng trở thành không làng, các thị trấn trở thành không thị trấn, quốc độ trở thành không quốc độ. Do nó luôn luôn giết người, nó mang một ṿng hoa làm bằng ngón tay người.

 

Then the Blessed One, early in the morning, having put on his robes and carrying his outer robe & bowl, went into Savatthi for alms. Having wandered for alms in Savatthi and returning from his alms round after his meal, set his lodging in order. Carrying his robes & bowl, he went along the road to where Angulimala was staying. Cowherds, shepherds, & farmers saw him going along the road to where Angulimala was staying, and on seeing him said to him, "Don't go along that road, contemplative, for on that road is Angulimala: brutal, bloody-handed, devoted to killing & slaying, showing no mercy to living beings. He has turned villages into non-villages, towns into non-towns, settled countryside into unsettled countryside. Having repeatedly killed human beings, he wears a garland made of fingers. Groups of ten, twenty, thirty, & forty men have gone along that road, and even they have fallen into Angulimala's hands." When this was said, the Blessed One kept going in silence.



Rồi Thế Tôn vào buổi sáng đắp y, cầm y bát, vào Savatthi để khất thực. Sau khi khất thực ở Savatthi, ăn xong, dọn dẹp sàng tọa, cầm y bát, Ngài quay trở về và đi trên con đường dẫn đến tên cướp Angulimala. Các người chăn ḅ, các người chăn thú, các người làm ruộng, các người bộ hành (padhavino ?) thấy Thế Tôn đang đi trên con đường dẫn đến tên cướp Angulimala, thấy vậy liền bạch Thế Tôn: "Thưa Sa-môn, chớ có đi trên con đường này. Thưa Sa-môn, trên con đường này có tên cướp Angulimala, là một thợ săn, tay vấy máu, sát hại, bạo tàn, không có ḷng từ mẫn đối với chúng sanh. V́ nó, các làng trở thành không làng, các thị trấn trở thành không thị trấn, các quốc độ trở thành không quốc độ. Do nó luôn luôn giết người, nó mang một ṿng hoa làm bằng ngón tay người. Thưa Sa-môn, trên đường này, có mười người, hai mươi người, ba mươi người, bốn mươi người tụ họp lại, tụ họp lại rồi cùng đi. Tuy vậy, họ vẫn rơi vào tay của tên cướp Angulimala". Được nghe nói vậy, Thế Tôn giữ im lặng, vẫn tiếp tục đi.

 

A second time...
A third time, cowherds, shepherds, & farmers said to the Blessed One, "Don't go along that road, contemplative... Groups of ten, twenty, thirty, & forty men have gone along that road, and even they have fallen into Angulimala's hands." When this was said, the Blessed One kept going in silence.



Lần thứ hai.....
Lần thứ ba, các người chăn ḅ, các người chăn thú, các người làm ruộng, các người đi đường bạch Thế Tôn: "Thưa Sa-môn, chớ có đi con đường ấy... (như trên)... rơi vào tay của tên cướp Angulimala". Thế Tôn giữ im lặng, vẫn tiếp tục đi.

 

Then Angulimala saw the Blessed One coming from afar and on seeing him, this thought occurred to him: "Isn't it amazing! Isn't it astounding! Groups of ten, twenty, thirty, & forty men have gone along this road, and even they have fallen into my hands, and yet now this contemplative comes attacking, as it were, alone and without a companion. Why don't I kill him?" So Angulimala, taking up his sword & shield, buckling on his bow & quiver, followed right behind the Blessed One.



Tên cướp Angulimala thấy Thế Tôn từ xa đi lại, sau khi thấy liền nghĩ: "Thật vi diệu thay ! Thật hy hữu thay ! Con đường này, cho đến mười người, hai mươi người, ba mươi người, bốn mươi người, năm mươi người tụ họp lại, tụ họp lại rồi cùng đi; tuy vậy, chúng vẫn rơi vào tay của ta. Nay người Sa-môn này, chỉ có một ḿnh, không có người thứ hai, lại đi đến, h́nh như do một sức mạnh ǵ ? Vậy ta giết hại mạng sống của người Sa-môn này ! " Rồi tên cướp Angulimala lấy kiếm và tấm khiên, đeo cung và tên vào, và đi theo sau lưng Thế Tôn.

 

Then the Blessed One willed a feat of psychic power such that Angulimala, though running with all his might, could not catch up with the Blessed One walking at normal pace. Then the thought occurred to Angulimala: "Isn't it amazing! Isn't it astounding! In the past I've chased & seized even a swift-running elephant, a swift-running horse, a swift-running chariot, a swift-running deer. But now, even though I'm running with all my might, I can't catch up with this contemplative walking at normal pace." So he stopped and called out to the Blessed One, "Stop, contemplative! Stop!"



Rồi Thế Tôn hiện thần thông lực một cách làm cho tên cướp Angulimala, dầu cho đi với tất cả tốc lực của nó cũng không có thể bắt kịp Thế Tôn đang đi với tốc lực b́nh thường. Rồi tên cướp Angulimala suy nghĩ: "Thật vi diệu thay ! Thật hy hữu thay ! Ta trước đây đuổi theo con voi đang chạy và bắt kịp nó, đuổi theo con ngựa đang chạy và bắt kịp nó, đuổi theo chiếc xe đang chạy và bắt kịp nó, đuổi theo con nai đang chạy và bắt kịp nó. Nay dẫu ta đi với tất cả tốc lực của ta cũng không thể bắt kịp Sa-môn này đang đi với tốc lực b́nh thường". Nó thưa với Thế Tôn:
– Hăy đứng lại, Sa-môn ! Hăy đứng lại, Sa-môn !

 

"I have stopped, Angulimala. You stop."



Ta đă đứng rồi, này Angulimala ! Và Ngươi hăy đứng lại !

 

Then the thought occurred to Angulimala, "These Sakyan contemplatives are speakers of the truth, asserters of the truths, and yet this contemplative, even while walking, says, 'I have stopped, Angulimala. You stop.' Why don't I question him?"



Rồi tên cướp Angulimala suy nghĩ: "Những Sa-môn Thích Tử này là những người nói sự thật và chấp nhận sự thật. Và Sa-môn này dẫu cho đang đi lại nói: "Ta đă đứng rồi, này Angulimala ! Và Ngươi hăy đứng lại". Vậy ta hăy hỏi vị Sa-môn này".

 

So Angulimala the bandit addressed this verse to the Blessed One:



Rồi tên cướp Angulimala với bài kệ nói với Thế Tôn:

 

"While walking, contemplative,
you say, 'I have stopped.'
But when I have stopped
you say I haven't.
I ask you the meaning of this:
How have you stopped?
How haven't I?"

[The Buddha:]

"I have stopped, Angulimala,
once & for all,
having cast off violence
toward all living beings.
You, though,
are unrestrained toward beings.
That's how I've stopped
and you haven't."

[Angulimala:]

"At long last a greatly revered great seer
	for my sake
has come to the great forest.
Having heard your verse
in line with the Dhamma,
I will go about
having abandoned evil."

So saying, the bandit
hurled his sword & weapons
	over a cliff
	into a chasm,
	   a pit.
Then the bandit paid homage
to the feet of the One Well-gone,
and right there requested the Going-forth.

The Awakened One,
the compassionate great seer,
the teacher of the world, along with its devas,
said to him then:
	"Come, bhikkhu."
That in itself
was bhikkhuhood for him.



– Người đi lại nói: "Ta đă đứng rồi",
Ta đứng, Ngươi nói: "Sao ta không đứng ?"
Sa-môn, ta hỏi về ư nghĩa này,
Sao Ngươi đứng lại, c̣n ta không đứng ?

[The Buddha:]

– Angulimala, Ta đă đứng rồi.
Với mọi chúng sanh, Ta bỏ trượng, kiếm,
C̣n Ngươi hữu t́nh, không tự kiềm chế,
Do vậy, Ta đứng, c̣n Ngươi chưa đứng.

[Angulimala:]

– Đă lâu tôi kính, bậc Đại Tiên Nhân,
Nay Sa-môn này bước vào Đại Lâm.
Không lâu, tôi sẽ đoạn trừ ác pháp,
Sau khi được nghe pháp kệ của Ngài.


Nói xong tên cướp liền quăng bỏ kiếm,
Quăng bỏ khí giới xuống vực thâm sâu,
Tên cướp đảnh lễ dưới chân Thiện Thệ,
Ngay tại chỗ ấy, xin được xuất gia.


Đức Phật từ bi, bậc Đại Tiên Nhân,
Đạo Sư Nhân giới, cùng với Thiên giới,
Ngài đă trả lời: "Thiện lai Tỷ-kheo".
Uy đức Tỷ-kheo được Ngài xác chứng. 

 

Then the Blessed One set out wandering toward Savatthi with Ven. Angulimala as his attendant monk. After wandering by stages he reached Savatthi, and there he lived, near Savatthi, in Jeta's Grove, Anathapindika's monastery.



Rồi Thế Tôn cùng Tôn giả Angulimala là Sa-môn tùy tùng, bắt đầu du hành đi đến Savatthi, và tuần tự du hành, Thế Tôn đến Savatthi. Ở đây, Thế Tôn trú tại Savatthi, Jetavana, tại tinh xá ông Anthapindika.

 

Now at that time a large crowd of people, loud & noisy, had gathered at the gates to King Pasenadi Kosala's inner palace, [calling out,] "There is a bandit in your realm, sire, named Angulimala: brutal, bloody-handed, devoted to killing & slaying, showing no mercy to living beings. He has turned villages into non-villages, towns into non-towns, settled countryside into unsettled countryside. Having repeatedly killed human beings, he wears a garland made of fingers. The king must stamp him out!"



Lúc bấy giờ, tại cửa nội cung vua Pasenadi nước Kosala, một số đông quần chúng tụ họp lại, cao tiếng, lớn tiếng nói lên: "Tâu Đại vương, trong lănh thổ Đại vương, có tên cướp tên Angulimala, là tên thợ săn, bàn tay vấy máu, sát hại, bạo tàn, không có ḷng từ mẫn đối với chúng sanh. Do v́ nó, các làng trở thành không làng, thị trấn trở thành không thị trấn, quốc độ trở thành không quốc độ. Do nó luôn luôn giết người, nó mang một ṿng hoa làm bằng ngón tay người. Đại vương hăy tẩn xuất nó".

 

Then King Pasenadi Kosala, with a cavalry of roughly 500 horsemen, drove out of Savatthi and entered the monastery. Driving as far as the ground was passable for chariots, he got down from his chariot and went on foot to the Blessed One. On arrival, having bowed down, he sat to one side. As he was sitting there, the Blessed One said to him,
"What is it, great king? Has King Seniya Bimbisara of Magadha provoked you, or have the Licchavis of Vesali or some other hostile king?"



Rồi vua Pasenadi nước Kosala, với khoảng năm trăm con ngựa, sáng sớm đi ra khỏi Savatthi, đi đến tinh xá, đi xe đến chỗ nào c̣n đi xe được, rồi vua xuống xe, đi bộ đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói với vua Pasenadi xứ Kosala đang ngồi một bên:
– Thưa Đại vương, có phải vua Seniya Bimbisara nước Magadha tức giận với Đại vương, hay các người Licchavi ở Vesali, hay một địch vương nào khác ?

 

"No, lord. King Seniya Bimbisara of Magadha hasn't provoked me, nor have the Licchavis of Vesali, nor has some other hostile king. There is a bandit in my realm, lord, named Angulimala: brutal, bloody-handed, devoted to killing & slaying, showing no mercy to living beings. He has turned villages into non-villages, towns into non-towns, settled countryside into unsettled countryside. Having repeatedly killed human beings, he wears a garland made of fingers. I am going to stamp him out." 1



– Bạch Thế Tôn, vua Seniya Bimbisara xứ Magadha không có tức giận với con, không phải các người Licchavi ở Vesali, cũng không phải có địch vương nào khác. Bạch Thế Tôn, trong lănh thổ của con, có tên cướp tên là Angulimala, một tên thợ săn, bàn tay vấy máu, sát hại, bạo tàn, không có ḷng từ mẫn đối với chúng sanh. V́ nó, các làng trở thành không làng, các thị trấn trở thành không thị trấn, các quốc độ trở thành không quốc độ. Bạch Thế Tôn, nhưng con không có thể tẩn xuất nó được (napatisedhissami).

 

"Great king, suppose you were to see Angulimala with his hair & beard shaved off, wearing the ochre robe, having gone forth from the home life into homelessness, refraining from killing living beings, refraining from taking what is not given, refraining from telling lies, living the holy life on one meal a day, virtuous & of fine character: what would you do to him?"



– Thưa Đại vương, nếu Đại vương được thấy Angulimala cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia, từ bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh, từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ nói láo, ăn một ngày một bữa, sống Phạm hạnh, giữ giới, hành tŕ thiện pháp. Đại vương sẽ làm ǵ với Angulimala ?

 

"We would bow down to him, lord, or rise up to greet him, or offer him a seat, or offer him robes, almsfood, lodgings, or medicinal requisites for curing illness; or we would arrange a lawful guard, protection, & defense. But how could there be such virtue & restraint in an unvirtuous, evil character?"



– Bạch Thế Tôn, con sẽ đảnh lễ, hay đứng dậy, hay đưa ghế mời ngồi, hay lo liệu bốn sự cúng dường Angulimala, tức là y phục, ẩm thực, sàng tọa và dược phẩm trị bệnh, hay chúng con bảo vệ, hộ tŕ đúng pháp. Nhưng Bạch Thế Tôn, từ đâu một người phá giới, làm các ác pháp lại có thể trở thành giữ giới, biết chế ngự như vậy ?

 

Now at that time Ven. Angulimala was sitting not far from the Blessed One. So the Blessed One, pointing with his right arm, said to King Pasenadi Kosala,
"That, great king, is Angulimala."
Then King Pasenadi Kosala was frightened, terrified, his hair standing on end. So the Blessed One, sensing the king's fear & hair-raising awe, said to him,
"Don't be afraid, great king. Don't be afraid. He poses no danger to you.



Lúc bấy giờ tôn giả Angulimala ngồi không xa Thế Tôn bao nhiêu. Rồi Thế Tôn duỗi cánh tay mặt và nói với vua Pasenadi:
– Thưa Đại vương, đây là Angulimala.
Vua Pasenadi nước Kosala liền hoảng sợ, run sợ, lông tóc dựng ngược. Thế Tôn biết được vua Pasenadi nước Kosala, hoảng sợ, khiếp sợ, lông tóc dựng ngược, bèn nói với vua Pasenadi, nước Kosala:
– Chớ có sợ hăi, thưa Đại vương ! Chớ có sợ hăi, thưa Đại vương. Ở đây, không có ǵ đáng sợ hăi cho Đại vương.

 

Then the king's fear, his terror, his hair-standing-on-end subsided. He went over to Ven. Angulimala and said, "Are you really Angulimala, lord?"



Rồi sự hoảng sợ, khiếp sợ, lông tóc dựng ngược của vua Pasenadi, nước Kosala được tan biến. Rồi vua Pasenadi nước Kosala đến Gần Tôn giả Angulimala, sau khi đến, thưa với Tôn giả Angulimala:
– Thưa Tôn giả, có phải Tôn giả là Angulimala ?

 

"Yes, great king."



– Thưa phải, Đại vương.

 

"What is your father's clan? What is your mother's clan?"



– Thưa Tôn giả, phụ thân Tôn giả thuộc ḍng họ ǵ? Mẫu thân thuộc ḍng họ ǵ ?

 

"My father is a Gagga, great king, and my mother a Mantani."



– Thưa Đại vương, phụ thân tôi thuộc ḍng họ Gagga, mẫu thân thuộc ḍng họ Mantani.

 

"Then may Master Gagga Mantaniputta delight [in staying here]. I will be responsible for your robes, almsfood, lodgings, & medicinal requisites for curing illness."



– Thưa Tôn giả, mong Tôn giả Gagga Mantaniputta được hoan hỷ. Tôi sẽ cố gắng lo bốn sự cúng dường là y phục, ẩm thực, sàng tọa, y dược trị bệnh cho tôn giả.

 

Now it so happened that at that time Ven. Angulimala was a wilderness-dweller, an alms-goer, wearing one set of the triple robe made of cast-off cloth. So he said to King Pasenadi Kosala, "Enough, great king. My triple robe is complete."



Lúc bấy giờ, Tôn giả Angulimala theo hạnh ở rừng núi, đi khất thực mà ăn, sống chỉ với ba y. Rồi Tôn giả Angulimala nói với vua Pasenadi nước Kosala:
– Thôi vừa rồi, thưa Đại vương, tôi đă đủ ba y.

 

So King Pasenadi Kosala went to the Blessed One and on arrival, having bowed down, sat to one side. As he was sitting there he said to the Blessed One, "It's amazing, lord. It's astounding, how the Blessed One has tamed the untamed, pacified the unpeaceful, and brought to Unbinding those who were not unbound. For what we could not tame even with blunt or bladed weapons, the Blessed One has tamed without blunt or bladed weapons. Now, lord, we must go. Many are our duties, many our responsibilities."



Rồi vua Pasenadi nước Kosala đi đến gần Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn và ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, vua Pasenadi nước Kosala bạch Thế Tôn:
– Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn ! Thật hy hữu thay, bạch Thế Tôn ! Làm sao Thế Tôn lại nhiếp phục được người không thể nhiếp phục, làm cho an tịnh được người không thể an tịnh, làm cho tịch diệt được người không có thể tịch diệt. Bạch Thế Tôn, đối với người con không thể nhiếp phục với gậy, với kiếm, Thế Tôn đă có thể nhiếp phục được, với không gậy, không kiếm. Bạch Thế Tôn, nay chúng con phải đi. Chúng con có nhiều công việc, có nhiều trách nhiệm phải làm.

 

"Then do, great king, what you think it is now time to do."



– Thưa Đại vương, nay Đại vương hăy làm những ǵ Đại vương nghĩ là hợp thời.

 

Then King Pasenadi Kosala got up from his set, bowed down to the Blessed One and — keeping him to his right — departed.



Rồi vua Pasenadi, nước Kosala, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn, thân bên hữu hướng về Ngài và ra đi.

 

Then Ven. Angulimala, early in the morning, having put on his robes and carrying his outer robe & bowl, went into Savatthi for alms. As he was going from house to house for alms, he saw a woman suffering a breech birth. On seeing her, the thought occurred to him: "How tormented are living beings! How tormented are living beings!" Then, having wandered for alms in Savatthi and returning from his alms round after his meal, he went to the Blessed One. On arrival, having bowed down to him, he sat to one side. As he was sitting there he said to the Blessed One, "Just now, lord, early in the morning, having put on my robes and carrying my outer robe & bowl, I went into Savatthi for alms. As I was going from house to house for alms, I saw a woman suffering a breech birth. On seeing her, the thought occurred to me: 'How tormented are living beings! How tormented are living beings!'"



Rồi Tôn giả Angulimala, vào buổi sáng đắp y, cầm y bát đi vào Savatthi để khất thực. Trong khi đi khất thực từng nhà một ở Savatthi, Tôn giả Angulimala thấy một người đàn bà đang sanh đẻ, rất là nguy kịch và đau đớn. Thấy vậy, Tôn giả suy nghĩ: "Thật đau khổ thay các chúng sanh ! Thật đau khổ thay các chúng sanh ! " Rồi Tôn giả Angulimala, sau khi đi khất thực ở Savatthi, sau buổi ăn, trên con đường đi khất thực trở về, đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả Angulimala bạch Thế Tôn:
– Bạch Thế Tôn, ở đây, con vào buổi sáng đắp y, cầm y bát, đi vào thành Savatthi để khất thực. Bạch Thế Tôn, trong khi đi khất thực từng nhà một ở Savatthi, con thấy một người đàn bà đang sanh đẻ, rất là nguy kịch, đau đớn. Thấy vậy, con suy nghĩ: "Thật đau khổ thay các chúng sanh ! Thật đau khổ thay các chúng sanh ! "

 

"In that case, Angulimala, go to that woman and on arrival say to her, 'Sister, since I was born I do not recall intentionally killing a living being. Through this truth may there be wellbeing for you, wellbeing for your fetus.'"



– Này Angulimala, Ông hăy đi đến Savatthi, sau khi đến, nói với người đàn bà ấy như sau: "Này Bà chị, v́ rằng tôi từ khi sanh ra chưa bao giờ cố ư giết hại mạng sống của chúng sanh, mong rằng với sự thật ấy, bà được an toàn, và sanh đẻ được an toàn ! "

 

"But, lord, wouldn't that be a lie for me? For I have intentionally killed many living beings."



– Bạch Thế Tôn, nếu làm vậy, thời con là cố ư nói láo. Bạch Thế Tôn, con đă cố ư giết hại mạng sống rất nhiều chúng sanh rồi.

 

"Then in that case, Angulimala, go to that woman and on arrival say to her, 'Sister, since I was born in the noble birth, I do not recall intentionally killing a living being. Through this truth may there be wellbeing for you, wellbeing for your fetus.'"2



– Vậy th́, này Angulimala, Ông hăy đi đến Savatthi, sau khi đến hăy nói với người đàn bà ấy như sau: "Này Bà chị, v́ rằng tôi từ khi được Thánh sanh đến này chưa bao giờ cố ư giết hại mạng sống của chúng sanh, mong rằng với sự thật ấy, bà được an toàn và sanh đẻ được an toàn ! "

 

Responding, "As you say, lord," to the Blessed One, Angulimala went to that woman and on arrival said to her, "Sister, since I was born in the noble birth, I do not recall intentionally killing a living being. Through this may there be wellbeing for you, wellbeing for your fetus." And there was wellbeing for the woman, wellbeing for her fetus.



– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Tôn giả Angulimala, sau khi vâng đáp Thế Tôn, đi đến Savatthi, sau khi đến nói với người đàn bà ấy như sau: "Thưa Bà chị, v́ rằng tôi từ khi được Thánh sanh đến nay chưa bao giờ cố ư giết hại mạng sống của chúng sanh, mong rằng với sự thật ấy, bà được an toàn, và sanh đẻ được an toàn ! " Và người đàn bà được an toàn, sanh đẻ được an toàn.

 

Then Ven. Angulimala, dwelling alone, secluded, heedful, ardent, & resolute, in no long time reached & remained in the supreme goal of the holy life for which clansmen rightly go forth from home into homelessness, knowing & realizing it for himself in the here & now. He knew: "Birth is ended, the holy life fulfilled, the task done. There is nothing further for the sake of this world." And thus Ven. Angulimala became another one of the arahants.



Rồi Tôn giả Angulimala, sống một ḿnh, viễn ly, không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, và không bao lâu sau, tự thân chứng ngộ với thắng trí, chứng đắc và an trú ngay trong hiện tại vô thượng cứu cánh Phạm hạnh mà v́ mục đích này các Thiện nam tử xuất gia, từ bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh. "Sanh đă tận, Phạm hạnh đă thành, những ǵ nên làm đă làm, từ nay không c̣n trở lui đời này nữa". Vị ấy biết như vậy. Và như vậy, Tôn giả Angulimala trở thành một vị A-la-hán nữa.

 

Then Ven. Angulimala, early in the morning, having put on his robes and carrying his outer robe & bowl, went into Savatthi for alms. Now at that time a clod thrown by one person hit Ven. Angulimala on the body, a stone thrown by another person hit him on the body, and a potsherd thrown by still another person hit him on the body. So Ven. Angulimala — his head broken open and dripping with blood, his bowl broken, and his outer robe ripped to shreds — went to the Blessed One. The Blessed One saw him coming from afar and on seeing him said to him: "Bear with it, brahman! Bear with it! The fruit of the kamma that would have burned you in hell for many years, many hundreds of years, many thousands of years, you are now experiencing in the here-&-now!" 3



Rồi Tôn giả Angulimala buổi sáng đắp y, cầm y bát, đi vào Savatthi để khất thực. Lúc bấy giờ, một cục đất do một người ném, rơi trên thân Tôn giả Angulimala, rồi một cây gậy do một người khác quăng, rơi trên thân Tôn giả Angulimala, rồi một ḥn sỏi do một người khác quăng, rơi trên thân Tôn giả Angulimala. Rồi Tôn giả Angulimala bị lỗ đầu, chảy máu, b́nh bát bị bể, ngoại y bị rách, đi đến Thế Tôn. Thế Tôn thấy Tôn giả Angulimala từ xa đi đến, thấy vậy, liền nói với Tôn giả Angulimala: "Hăy kham nhẫn, này Bà-la-môn ! Hăy kham nhẫn, này Bà-la-môn ! Ông đang gặt hái ngay trong hiện tại quả báo của nghiệp mà đáng lẽ Ông phải chịu nấu sôi ở địa ngục nhiều năm, nhiều trăm năm, nhiều ngàn năm".

 

Then Ven. Angulimala, having gone alone into seclusion, experienced the bliss of release. At that time he exclaimed:



Rồi Tôn giả Angulimala sống độc cư, Thiền tịnh, cảm thọ được giải thoát lạc, và trong lúc ấy nói lên lời cảm khái sau đây:

 

Who once was heedless,4
but later is not,
	brightens the world
	like the moon set free from a cloud.

His evil-done deed5
is replaced with skillfulness:
	he brightens the world
	like the moon set free from a cloud.

Whatever young monk
devotes himself
to the Buddha's bidding:
	he brightens the world
	like the moon set free from a cloud.

May even my enemies
	hear talk of the Dhamma.
May even my enemies
	devote themselves
	to the Buddha's bidding.
May even my enemies
	associate with those people
	who — peaceful, good —
	get others to accept the Dhamma.
May even my enemies
	hear the Dhamma time & again
	from those who advise  endurance,
	               forbearance,
	who praise non-opposition,
and may they follow it.

For surely he wouldn't harm me,
or anyone else;
he would attain     the foremost peace,
would protect   the feeble & firm.

Irrigators guide   the water.6
Fletchers shape     the arrow shaft.
Carpenters shape    the wood.
The wise control
	       themselves.

Some tame with a blunt stick,
with hooks, & with whips
But without blunt or bladed weapons
I was tamed by the one who is Such.

"Doer of No Harm" is my name,
but I used to be a doer of harm.
Today I am true to my name,
for I harm no one at all.

   A bandit
	I used to be,
renowned as Angulimala.
Swept along by a great flood,
I went to the Buddha as refuge.

   Bloody-handed
	I used to be,
renowned as Angulimala.
See my going for refuge!
Uprooted is [craving],
the guide to becoming.

Having done the type of kamma
that would lead to many
bad destinations,
touched by the fruit of [that] kamma,
unindebted, I eat my food. 7

They're addicted to heedlessness8
 — dullards, fools —
while one who is wise
cherishes heedfulness
as his highest wealth.

Don't give way to heedlessness9
	or to intimacy
	with sensual delight —
for a heedful person,
absorbed in jhana,
attains an abundant bliss.

This10 has come well & not gone away,
it was not badly thought through for me.
From among well-analyzed qualities,
	I have obtained
	the best.

This has come well & not gone away,
it was not badly thought through for me.
	The three knowledges
	have been attained;
	the Buddha's bidding,
	       done.

  

"Ai trước phóng dật, sau không phóng dật, 
Sáng chói đời này, như trăng thoát mây, 
Ai làm ác nghiệp, nhờ thiện chận lại, 
Sáng chói đời này, như trăng thoát mây. 


Niên thiếu Tỷ-kheo trung thành Phật giáo, 
Sáng chói đời này, như trăng thoát mây. 
Mong kẻ địch ta, nghe giảng Pháp thoại ! 
Mong kẻ địch ta, trung thành Phật giáo ! 
Mong kẻ địch ta, thọ lănh chánh pháp, 

(Thân tâm) an tịnh, san sẻ mọi người. 
Mong kẻ địch ta, từ bậc Thuyết nhẫn, 
Từ bậc Tán thán, vô oán hận tâm. 
Thời thời nghe pháp, y pháp hành tŕ. 

Một kẻ như vậy, không có hại ta, 
Cũng không làm hại một người nào khác. 
Vị ấy sẽ chứng tối thượng tịch tịnh. 
Hộ tŕ mọi người, kẻ tham người không, 

Như người dẫn nước, hướng dẫn nước chảy, 
Như kẻ làm tên uốn cong thân tên, 
Như người thợ mộc uốn nắn cây gỗ. 
Kẻ trí tự ḿnh, tự điều phục ḿnh, 

Có kẻ được điều bởi gậy, roi, móc, 
Riêng Ta được điều không gậy, không kiếm. 
(Bởi bậc như vậy). 
Ta tên Vô Hại, trước ta sát hại, 
Nay được chánh danh, v́ chẳng hại ai. 
Trước ta được tên Angulimala, 
Bị nước thác cuốn, ta quy y Phật. 
Trước tay vấy máu, danh xưng (Anguli) mala, 

Xem ta quy y, đoạn dây sanh tử, 
Làm nghiệp như vậy phải sanh ác thú, 
Khi lănh nghiệp báo, không nợ ta hưởng. 
Kẻ ngu vô trí, đam mê phóng dật, 

C̣n người có trí, giữ không phóng dật, 
Như giữ tài sản, tối thượng, tối quư, 
Chớ mê phóng dật, chớ mê dục lạc. 
Giữ không phóng dật, luôn luôn Thiền định, 

Chứng đắc đại lạc, quảng đại vô lượng, 
Thiện lai, ta đến, không đi lạc hướng, 
Không ai khuyên ta theo tư tưởng ác. 
Giữa các chân lư (được khéo) giảng dạy, 

Chân lư ta theo, chân lư tối thượng, 
Thiện lai ta đến, không đi lạc hướng, 
Không ai khuyên ta theo tư tưởng ác, 
Ba minh ta chứng, Phật lư viên thành. 

 

1. The PTS reading here, followed in The Middle Length Sayings and The Middle Length Discourses of the Buddha — "I will not stamp him out" — is surely a mistake. I follow the Thai reading on this passage, even though it is somewhat ungrammatical. There are passages in MN 90 where King Pasenadi's sentences don't quite parse, and perhaps this is another example of his brusque language.

2. This blessing is often chanted at house blessings in Theravada countries.

3. This incident illustrates the kammic principle stated in AN 3.99.

4. This verse = Dhp 172.

5. This verse = Dhp 173.

6. This verse = Dhp 80.

7. This verse is another illustration of the principle stated in AN 3.99.

8. This verse = Dhp 26.

9. This verse = Dhp 27.

10. "This" apparently refers to the abundant bliss mentioned in the previous verse.

^^^^^^

 

See also: Thag 16.8

^^^^^^

 Chủ biên và điều hành: TT Thích Giác Đẳng.

 Những đóng góp dịch thuật xin gửi về TT Thích Giác Đẳng tại giacdang@phapluan.com
Cập nhập ngày: Thứ Sáu 08-11-2006

Kỹ thuật tŕnh bày: Minh Hạnh & Thiện Pháp

| | trở về đầu trang | Home page |