Tích  
      truyện Pháp Cú
 
      Thiền  
      viện Viên Chiếu
 
      
      Nguyên tác: "Buddhist Legends",
 
      Eugène Watson Burlingame
 
      
      --- o0o ---
                 
      
      
      
      XXIII.  
      Phẩm Voi
 
      
      1. Phật Bị  
      Lăng Nhục
 
      
      Ta  
      như voi giữa trận...
 
      
      Câu chuyện xảy ra khi đức Thế Tôn ở Kỳ Viên,  
      trong trường hợp của chính Ngài.
 
      
      Trong truyện tích Pháp Cú (179) đã đề cập  
      đến trường hợp Màgandiyà bị  
      Phật từ chối, và cô bị chạm tự ái nặng. Khi trở thành hoàng hậu, nàng  
      quyết tâm trả thù Phật. Nàng tung tiền mướn cư dân thành, bảo họ rằng:
 
      
      - Khi Sa-môn Cồ-đàm đến đây khất thực, các  
      ngươi hãy tụ tập những người hạ tiện đi theo chửi mắng ông ta, đuổi ông ta  
      đi.
      
      Khi đức Phật và A-nan đi đến thành, dân cư  
      không tin Tam Bảo đã đi theo Ngài, la hét.
 
      
      - Ông là kẻ giặc cướp, ngu dốt, khùng, ông  
      là lạc đà, bò, lừa, quỷ ở địa ngục, là súc sanh, không có hy vọng được cứu  
      rồi, ông chỉ có nước chờ bị đọa thôi...
 
      
      Như vậy, họ dùng mười cách mắng chửi để mắng  
      chửi Phật. Nghe các câu mạ nhục, Tôn giả A-nan bạch Phật:
 
      
      - Bạch Thế Tôn, dân cư nơi này chửi mắng  
      chúng ta, xin hãy đi nơi khác.
 
      
      - Chúng ta sẽ đi đâu, A-nan?
 
      
      - Ði đến thành phố khác, bạch Thế Tôn.
 
      
      - Nếu như dân ở thành phố đó cũng chửi mắng  
      ta?
      
      - Thì chúng ta lại đi đến thành phố khác,  
      bạch Thế Tôn.
 
      
      - Nếu như đến nơi kia cũng bị mắng chửi?
 
      
      - Ði đến chỗ khác nữa, bạch Thế Tôn.
 
      
      - Này A-nan! Chúng ta không nên làm như thế.  
      Bất cứ nơi nào có rắc rối, phiền não nổi lên, chúng ta nên ở lại đó cho  
      đến khi chúng lắng dịu hẳn, và chỉ khi đó chúng ta mới nên đi nơi khác.  
      Nhưng ai đã chửi mắng chúng ta?
 
      
      - Bạch Thế Tôn, những kẻ hạ tiện, nô tỳ, tất  
      cả đều chửi mắng.
 
      
      - Này A-nan! Ta như con voi đã ra trận. Và  
      như con voi giữa trận hứng chịu tên bay từ bốn phía, bổn phận ta phải nhẫn  
      nại nghe những lời ác độc thốt ra.
 
      
      Và Ngài lấy mình làm tiêu đề giảng pháp với  
      các câu:
 
      
      
      (320)  
      Ta như voi giữa trận,
 
      Hứng chịu cung tên rơi,
 
      Chịu đựng mọi phỉ báng,
 
      Ác giới rất nhiều người.
 
      
      
      (321)  
      Voi luyện, đưa dự hội,
 
      Ngựa luyện, được vua cưỡi,
 
      Người luyện, bậc tối thượng,
 
      Chịu đựng mọi phỉ báng.
 
      
      
      (322)  
      Tốt thay, con la thuần,
 
      Thuần chủng loài ngựa Sindh  
      [*]
 
      Ðại tượng, voi có ngà,
 
      Tự điều mới tối thượng.
 
      
      
      [*] loài ngựa đẹp ở vùng  
      sông Sindha, Ấn Ðộ
 
      
      Nghe xong, quần chúng ở hai bên đường, ở ngã  
      ba, ngã tư, những kẻ ăn tiền chửi mướn Phật đều chứng từ Sơ quả đến Tam  
      quả.
      
       
      
      2. Thầy Sa  
      Môn Luyện Voi
 
      
      Chẳng  
      phải loài cưỡi ấy...
 
      
      Câu chuyện xảy ra khi đức Thế Tôn ở tại Kỳ  
      Viên, liên hệ đến một Tỳ-kheo từng là quản tượng.
 
      
      Một ngày nọ, một vị Tỳ-kheo trước kia từng  
      là quản tượng, đứng bên bờ sông  
      Acirvatì thấy một người quản tượng đang cố gắng huấn luyện một  
      con voi. Thấy người ấy không đạt kết quả, thầy muốn mách nước, bèn nói với  
      các thầy Tỳ-kheo đứng gần:
 
      
      - Nếu đánh con voi ở chỗ này, chỗ này... nó  
      sẽ nghe lời ngay thôi.
 
      
      Người quản tượng nghe được, làm theo lời, và  
      chẳng bao lâu con voi tuân theo ý ông...
 
      
      Các Tỳ-kheo bạch Phật câu chuyện. Phật cho  
      gọi thầy Tỳ-kheo ấy lên hỏi:
 
      
      - Có phải thật ông nói như thế?
 
      
      - Bạch Thế Tôn, vâng!
 
      
      Phật quở:
 
      
      - Ngươi vô tích sự, ngươi thi thố tài nghệ  
      với người luyện voi, luyện thú để làm gì? Không phải leo lên lưng những  
      con thú đó là có thể đi đến nơi muốn đến mà chưa đến được. Chỉ có trong sự  
      tự huấn luyện bản thân mới có thể đến được nơi khó đến. Từ đây ngươi hãy  
      tự điều phục chính mình, đừng làm trò huấn luyện thú như thế nữa:
 
      
      Ngài nói kệ:
 
      
      
      (323)  
      Chẳng phải loài cưỡi ấy,
 
      Ðưa người đến Niết-bàn,
 
      Chỉ có người tự điều,
 
      Ðến đích, nhờ điều phục.
 
      
       
      
      3. Lão Bà La  
      Môn Và Các Con
 
      
      Con  
      voi tên Tài Hộ...
 
      
      Câu chuyện xảy ra khi đức Phật ở Xá-vệ,  
      trong trường hợp một Bà-la-môn già bị các con hất hủi.
 
      
      Tại thành Xá-vệ, một Bà-là-môn có bốn người  
      con trai và gia tài tám trăm ngàn đồng tiền vàng. Khi các con đến tuổi  
      trưởng thành, ông cưới vợ cho chúng và cho mỗi đứa một trăm ngàn tiền  
      vàng. Sau đó, vợ ông chết, các người con họp nhau lại bàn tán:
 
      
      - Nếu cha ta cưới vợ khác, gia tài sẽ bị  
      chia cho mấy đứa con sau và không còn gì cả. Chi bằng chúng ta săn sóc ông  
      già để hưởng gia tài của ông.
 
      
      Chúng bu quanh hầu hạ ông chu đáo, lo thức  
      ăn ngon, quần áo đẹp, tắm rửa cho ông, mọi bổn phận đều làm tròn.
 
      
      Một ngày nọ, chúng đến hầu thấy ông vẫn còn  
      ngủ. Ngay khi ông thức giấc, chúng rửa tay chân cho ông, và nói về sự bất  
      lợi của một gia đình chia hai dòng con. Chúng hứa:
 
      
      - Chúng con sẽ săn sóc cha cho tới khi cha  
      chết, cha hãy chia cho chúng con số tiền còn lại.
 
      
      Ông già chiều theo lời yêu cầu, chia luôn  
      bốn trăm ngàn tiền còn lại làm bốn phần, cho mỗi đứa một phần, riêng ông  
      chẳng còn gì, ngoài bộ quần áo dính da.
 
      
      Vài ngày đầu, đứa con trưởng hầu hạ ông. Một  
      hôm, khi ông đến nhà người này như thường lệ, mụ con dâu đứng ở cửa vừa  
      gặp ông liền nói:
 
      
      - Ông có cho thêm con trai ông một trăm hay  
      một ngàn đồng không? Rõ ràng ông cho mỗi con trai ông hai trăm ngàn đồng  
      mà. Ông không biết đường đi tới nhà mấy ông con kia à?
 
      
      Ông Bà-la-môn giận dữ, mắng:
 
      
      - Im đi, con đàn bà đê tiện.
 
      
      Ông đến nhà đứa con thứ hai. Nhưng chỉ vài  
      hôm, ông lại bị đuổi ra khỏi nhà theo cách của đứa thứ nhất, và cảnh ấy  
      cũng diễn ra ở tại nhà đứa út. Rốt cuộc ông không có nhà để nương thân.
 
      
      Do đó, ông từ bỏ đời thế gian, đi tu theo  
      giáo đoàn Pandaranga, xin  
      ăn từ nhà này sang nhà khác. Theo thời gian, ông trở nên gầy ốm vì tuổi  
      già, thân thể suy sụp vì thức ăn tồi tệ và chỗ ngủ không đủ ấm. Một ngày  
      nọ, sau khi đi xin ăn về, ông nằm dài tại chỗ và ngủ thiếp đi. Mở mắt ra  
      ông mệt mỏi nhìn quanh chẳng thấy có đứa con nào để nhờ cậy. Ông nghĩ  
      thầm: "Họ nói rằng Sa-môn Cồ-đàm có một dáng dấp từ hòa, vẻ mặt chân thật  
      cởi mở, rằng thái độ của Ngài hoan hỷ, rằng Ngài tiếp khách lạ với tất cả  
      vẻ thân thiện. Có lẽ ta nên đến với Sa-môn Cồ-đàm, để được tiếp đãi ấm  
      áp".
      
      Ông khoác áo, ôm bát, chống gậy đi đến chỗ  
      Thế Tôn. Ðến nơi ông ngồi qua một bên thật cung kính. Ðức Thế Tôn chào đón  
      ông vui vẻ và hỏi:
 
      
      - Này Bà-la-môn, vì sao ông đến nơi này với  
      vẻ tiều tụy, áo rách tả tơi thế kia?
 
      
      - Thưa Cồ-đàm, tôi có bốn đứa con trai,  
      nhưng chúng bị mê hoặc bởi mấy con vợ, rồi đuổi tôi ra khỏi nhà.
 
      
      - Ðược rồi, ông hãy học thuộc bài kệ này. Và  
      khi mọi người và các con ông đến nhà họp, ông đọc lên trước chúng.
 
      
      Ngài dạy:
 
      
      
      Chúng là những đứa con  
      khi sanh ra tôi vui mừng, mong mỏi.
 
      Vậy mà chúng nghe lời vợ xúi giục, đuổi tôi như xua chó.
 
      Chúng gọi tôi "Cha thân yêu!..." thật ác độc và rỗng tuếch.
 
      Quỷ đội lốt con trai, chúng bỏ rơi tôi khi tuổi già, như bỏ đói con ngựa  
      già vô dụng.
 
      Làm cha một lũ ngu, phải xin ăn lang thang từng nhà.
 
      Một cây gậy còn tốt hơn lũ con bất hiếu.
 
      Gậy còn đuổi được bò rừng chó dữ.
 
      Gậy dẫn đường trong đêm tối, đỡ chân qua vũng nước bùn lầy.
 
      Ông Bà-la-môn học thuộc lòng bài dạy trên.
 
      
      Một ngày nọ, dòng Bà-la-môn họp mặt, các con  
      trai ông cũng đến họp. Chúng ăn mặc sang trọng, trang sức quí giá và ngồi  
      vào chỗ danh dự giữa những người Bà-la-môn. Ông già nhủ thầm: "Ðây là cơ  
      hội tốt cho ta". Ông đi vào phòng họp, giữa mọi người ông đưa tay lên nói:
 
      
      - Tôi muốn đọc một bài thơ, xin các ngài hãy  
      nghe cho.
 
      
      - Ông đọc đi, chúng tôi nghe.
 
      
      Ông đứng giữa hội chúng, đọc lên bài kệ đức  
      Phật dạy.
 
      
      Luật pháp thời ấy ấn định rằng: "Nếu người  
      nào hưởng gia tài của cha mẹ, mà không nuôi dưỡng cha mẹ, sẽ bị tử hình".  
      Các con ông đã hoảng sợ, quỳ xuống dưới chân ông van xin:
 
      
      - Cha ơi! Xin cứu chúng con.
 
      
      Trái tim người cha mềm yếu, ông bèn bảo lãnh  
      cho chúng.
 
      
      - Xin các vị đừng xử tội chúng. Chúng sẽ  
      nuôi nấng tôi.
 
      
      Hội chúng hăm đám con ông:
 
      
      - Từ nay, nếu các anh không săn sóc ông cụ  
      tử tế, chúng tôi sẽ đưa ra pháp luật đấy.
 
      
      Bốn người con trai hoảng sợ, vội khiêng ông  
      cụ về nhà, tắm rửa kỳ cọ, xoa dầu, bôi kem, ướp phấn... cho ông cụ, rồi  
      gọi vợ đến bảo:
 
      
      - Từ nay bổn phận của các bà phải săn sóc  
      cha cho chu đáo. Nếu thiếu sót coi chừng ăn đòn.
 
      
      Chúng dọn thức ăn thượng vị cho ông.
 
      
      Từ đó được bồi dưỡng, nghỉ ngơi êm ấm tiện  
      nghi, ông cụ phục hồi sức khỏe, thân thể tươi tốt. Ông tự nhủ: "Ta được  
      như vầy là nhờ Sa-môn Cồ-đàm". Ông bèn chọn một cặp vải tốt, đi đến chỗ  
      đức Phật, chào Ngài và lui ngồi một bên, đặt vải dưới chân Phật, thưa:
 
      
      - Kính bạch Cồ-đàm, dòng Bà-la-môn chúng tôi  
      mong ước rằng một vị thầy nhận lễ vật, xin đức Cồ-đàm tôn kính là thầy của  
      tôi, nhận lễ vật này.
 
      
      Phật nhận xấp vải, và giảng pháp cho ông cụ  
      nghe. Nghe xong, ông quy y Phật và thưa:
 
      
      - Bạch Cồ-đàm, các con tôi thường cung cấp  
      cho tôi một ngày bốn bữa ăn, tôi xin cúng dường Ngài hai bữa.
 
      
      - Rất tốt đó ông lão, nhưng chúng ta chỉ đi  
      đến nhà nào được chọn.
 
      
      Ông cụ về nhà bảo các con:
 
      
      - Này các con, Sa-môn Cồ-đàm là bạn của ta,  
      ta dâng Ngài hai bữa ăn. Khi Ngài đến hãy tiếp đãi đừng thiếu sót.
 
      
      Các con đều hứa nghe lời. Ngày hôm sau, đức  
      Phật đi khất thực, Ngài đứng trước cửa nhà của người con trưởng. Người này  
      vội đỡ lấy bình bát của Ngài, mời vào nhà, soạn ghế nệm gấm thỉnh Phật  
      ngồi, và cúng dường thức ăn thượng vị. Những ngày sau, đức Thế Tôn đến các  
      người con kế, họ đều tiếp đón Ngài nồng hậu.
 
      
      Ngày nọ sắp đến lễ hội, người con trưởng hỏi  
      ông:
      
      - Thưa cha, ai là ân nhân danh dự của chúng  
      ta?
      
      - Chỉ có Sa-môn Cồ-đàm thôi, không ai khác.
 
      
      - Như thế, ngày mai xin mời Ngài và năm trăm  
      vị Sa-môn.
 
      
      Ông cụ thỉnh Phật và năm trăm Tăng chúng.  
      Ngày hôm sau, Phật cùng chúng Tăng đến nhà ông. Ngôi nhà trang hoàng theo  
      nghi thức lễ hội, ông Bà-la-môn dọn chỗ ngồi cho Phật và chúng Tăng, dâng  
      cúng các thức ăn thượng vị loại cứng, loại mềm. Bốn người con ngồi trước  
      Phật, bạch rằng:
 
      
      - Thưa Ngài Cồ-đàm, chúng tôi săn sóc ông  
      già chu đáo, không dám lơ là. Ngài hãy nhìn ông cụ xem.
 
      
      Phật dạy:
 
      
      - Các ngươi làm như thế tốt lắm. Người khôn  
      ngoan bao giờ cũng nuôi dưỡng cha mẹ chu đáo.
 
      
      Ngài nói kệ:
 
      
      
      (324)  
      Con voi tên Tài Hộ,
 
      Phát dục, khó điều phục,
 
      Trói buộc không ăn uống,
 
      Voi nhớ đến rừng voi.
 
      
      Ðức Phật kể chuyện con voi Tài Hộ (Dhanapàla)  
      dù được vua săn sóc, cho ăn ngon, ở nơi đẹp, vẫn nhớ mẹ nơi rừng voi.  
      Không chịu ăn uống vì nghĩ đến bổn phận làm con đối với cha mẹ. Nghe xong,  
      mấy người con đều rơi lệ. Ðức Phật biết rằng họ đã thấm nhuần bèn giảng  
      pháp. Cuối cùng, cả ông cụ, các con trai, con dâu, đều chứng Sơ quả.
 
      
       
      
      4. An Uống  
      Ðiều Ðộ
 
      
      Người  
      ưa ngủ, ăn lớn...
 
      
      Câu chuyện xảy ra khi đức Thế Tôn ở tại Kỳ  
      Viên, liên quan đến vua Ba-tư-nặc.
 
      
      Có một lúc, vua Ba-tư-nặc thường ăn rất  
      nhiều cơm nấu với cà ri, nước sốt gia vị. Ngày kia, sau bữa điểm tâm dồi  
      dào quá độ, cơ thể và tâm tư ngầy ngật, nhà vua đến chỗ Phật, đi tới đi  
      lui trước mặt Ngài với vẻ thật mệt mỏi. Nhà vua chỉ muốn nằm lăn ra ngủ mà  
      không được nên đến ngồi xuống một bên Phật. Ðức Phật thấy thế bèn hỏi:
 
      
      - Ðại vương, trước khi đến đây Ngài chưa  
      được ngủ nghĩ chăng?
 
      
      - Bạch Thế Tôn, không phải. Con luôn khó  
      chịu sau khi ăn no.
 
      
      - Này Ðại vương! Ăn uống vô độ thường đưa  
      đến sự mệt mỏi.
 
      
      Ngài nói kệ:
 
      
      
      (325)  
      Người ưa ngủ, ăn lớn,
 
      Nằm lăn lóc qua lại,
 
      Chẳng khác heo no bụng,
 
      Kẻ ngu nhập thai mãi.
 
      
      Muốn giúp nhà vua, Phật dạy thêm:
 
      
      
      Người khôn ăn uống vừa  
      chừng
      Thân tâm nhẹ nhỏm, lâu già, sống vui.
 
      
      Phật bảo hoàng tử  
      Uttara (Uất-đà):
 
      
      - Con hãy học thuộc bài kệ này, và mỗi khi  
      nhà vua ngự yến, con đọc lên theo cách sau và nhà vua sẽ tự ngừng.
 
      
      Xong, đức Phật bày cho hoàng tử cách làm.  
      Hoàng tử tuân theo lời Phật dạy. Và sau một thời gian nhà vua ăn uống nhỏ  
      nhẹ, giảm bớt trọng lượng và trở nên dễ chịu. Nhà vua thường xuyên đến  
      thăm Phật, tổ chức lễ hội dâng cúng phẩm vật tối thắng trong bảy ngày. Khi  
      đức Thế Tôn nói lên lời hồi hướng, cả hội chúng triều đình đều được ích  
      lợi lớn.
 
      
       
      
      5. Chú Tiểu  
      Và Dạ Xoa
 
      
      Trước  
      tâm này buông lung...
 
      
      Câu chuyện xảy ra khi đức Phật ở tại Kỳ  
      Viên, liên quan tới chú tiểu Sànu.
 
      
      Sànu 
      là con trai duy nhất của một gia đình mộ đạo, chú được nhận vào Tăng đoàn  
      khi còn rất bé. Hồi ấy chú rất nhiệt tâm và đạo hạnh. Chú làm tròn bổn  
      phận một cách trung hậu với thầy Tế độ, với Giáo thọ và các khách tăng.  
      Mỗi tháng, vào ngày mùng 8, chú dậy sớm, xách nước đổ đầy các chum vại,  
      quét dọn giảng đường, lau chùi bàn ghế, thắp đèn, và dùng tiếng trong  
      thanh kêu gọi thiện tín đến nghe pháp.
 
      
      Các thầy Tỳ-kheo thấy chú ngoan ngoãn và cần  
      mẫn, lại thích thú giọng chú đọc tụng kinh nên thường yêu cầu chú tụng  
      đọc. Chú không bao giờ từ chối, nói rằng: "Con mệt tim..." hay "Con nhức  
      mình..." hay tỏ ra miễn cưỡng tuân lời. Chú ngồi trên ghế, cao tiếng tụng  
      đọc như dòng hải triều tuôn từ cõi chư thiên. Mỗi khi tụng đọc xong, chú  
      tụt xuốnng ghế và hồi hướng: "Tất cả phước báo do việc tụng đọc kinh này,  
      xin hồi hướng cho cha mẹ tôi".
 
      
      Song thân hiện tại chú không biết gì về sự  
      hồi hướng ấy, nhưng bà mẹ kiếp trước của chú, tái sanh làm quỷ Dạ-xoa. Bà  
      thường cùng đến nghe kinh với các vị thần. Và bà nói: "Con yêu quí, ta cảm  
      tạ sự hồi hướng của con". Thường có câu: "Một vị Sa-môn giữ giới trong  
      sạch được trời và người quý mến". Vì thế, chư thiên kính trọng chú Sa-di,  
      xem ngang bằng trời Ðại Phạm, hoặc như ngọn đuốc sáng. Cũng thế, họ tôn  
      kính và ca ngợi bà Dạ-xoa, mẹ kiếp trước của chú. Khi các Dạ-xoa hợp đến  
      nghe kinh, bà được ngồi ghế thứ nhất, uống nước trước nhất, có thức ăn  
      trước nhất. Ngay cả các Dạ-xoa đầy uy lực, cũng nhường bước và nhường chỗ  
      ngồi cho bà.
 
      
      Khi Sànu  
      đến tuổi trưởng thành, tâm sinh lý chú phát tirển, chú trở nên lười chán.  
      Và không tự thắng được chính mình, ngày kia, chú không nói với ai, để râu  
      tóc mọc dài, y áo nhớp nhúa, chú mang y bát trở về nhà. Bà nữ thí chủ thấy  
      con trở về, bà chào chú:
 
      
      - Ủa này con, lúc trước con thường về nhà  
      với thầy con hoặc một sư huynh hay vài Sa-di nhỏ, sao hôm nay con về một  
      mình?
      
      Chú bày tỏ với mẹ nỗi khổ về sự bất mãn của  
      mình. Nữ cư sĩ là người mộ đạo, giảng giải cho chú những bất lợi của cuộc  
      sống thế tục, nhưng chú không nghe. Rốt cuộc, mẹ chú nghĩ thầm: "Có lẽ  
      không cần sự khuyên bảo của ta, chú ấy sẽ nghĩ lại". Bà nói:
 
      
      - Thôi con ngồi đây, đợi mẹ làm cơm cho con  
      ăn. Ăn xong, mẹ đem áo quần tốt ra cho con mặc.
 
      
      Bà lo sắp chỗ ngồi, đem bánh trái ra thết  
      đãi chú, và dọn bánh xèo, rồi mới lo nấu cơm. Bà ngồi vo gạo cách đấy  
      không xa.
 
      
      Lúc ấy, bà Dạ-xoa tự hỏi: "Chú Sa-di đi đâu?  
      Chú có khất thực được không?". Bà quan sát thấy chú muốn hoàn tục, đang  
      trở về ngồi tại nhà mẹ ruột.
 
      
      Bà nghĩ: "Nếu ta khuất phục được chú Sa-di,  
      ta sẽ được chư thiên kính trọng. Ta sẽ ngăn cản chú ấy". Lập tức bà nhập  
      vào chú, khống chế tay chân, vặn cổ chú và xô té xuống đất, chú Sa-di mắt  
      trợn ngược, sùi bọt mép, giãy giụa. Bà mẹ đang vo gạo, thấy thế vội ẵm chú  
      lên, mọi người chung quanh chạy đến, mang đồ cấp cứu.
 
      
      Bà mẹ khóc, đọc bài kệ:
 
      
      
      Tôi nghe chư A-la-hán
 
      Dạy: "Người mỗi nửa tháng
 
      Giữ giới Bát quan trai
 
      Và giới bố-tát ngày
 
      Mồng tám, rằm, mười bốn
 
      Giữ phạm hạnh như thế
 
      Dạ xoa không xâm hại"
 
      Nhưng hôm nay tôi lại
 
      Thấy họ phá Sànu.
 
      
      Quỷ Dạ xoa nghe bà đọc bài kệ, bèn đáp:
 
      
      
      Chư A-la-hán nói trúng
 
      Ai cứ mỗi nửa tháng
 
      Giữ giới Bát quan trai
 
      Và giới Bố-tát ngày
 
      Mồng tám, rằm, mười bốn
 
      Giữ phạm hạnh như thế
 
      Dạ xoa không xâm hại.
 
      
      Rồi Dạ xoa đọc kệ khuyên  
      Sànu:
      
      
      Sànu,
      Hãy nghe Dạ xoa nói
 
      Ðừng xa Phật, làm ác
 
      Lén lút hay công khai.
 
      Nếu làm ác đời nay
 
      Hoặc sau này, ngươi sẽ
 
      Chẳng bao giờ thoát khổ
 
      Dù có cánh để bay 
 
       Lên trời tìm đường ẩn.
 
      
      Nói xong, quỷ xuất ra.  
      Sànu mở mắt, thấy mẹ mình tóc  
      tai rối bù, khóc than kể lể, mọi người chung quanh. Không biết mình mới bị  
      quỷ nhập, chú hỏi:
 
      
      - Vừa mới đây con còn ngồi trên ghế, mẹ vo  
      gạo gần con. Sao bây giờ con lại nằm dưới đất?
 
      
      Và chú nói tiếp:
 
      
      
      Người ta khóc kẻ chế
 
      Hoặc người đi không về
 
      Con ngồi đây sao mẹ
 
      Lại khóc con tỉ tê?
 
      
      Bà mẹ muốn chỉ rõ cho chú thấy hậu quả xấu  
      của việc đã xuất gia từ bỏ mọi thú vui thế gian, mọi lạc thú nhục dục, lại  
      muốn hoàn tục. Bà đáp:
 
      
      
      Con à, người ta khóc
 
      Người chết, hoặc người đi
 
      Ði mãi chẳng trở về.
 
      Họ cũng khóc nữa khi
 
      Người tu lại ra đời
 
      Những người như thế ấy
 
      Sống chết đâu khác gì.
 
      
      Bà tiếp tục so sánh đời sống thế tục như lò  
      than, như hỏa ngục, nhấn mạnh sự nguy hại của đời sống tại gia.
 
      
      
      Than hừng cả hai bên.
 
      Con có muốn ngã nào?
 
      Ðịa ngục từ bốn phía,
 
      Con có muốn rơi vào?
 
      
      Bà nói thêm:
 
      
      - Con ơi! Cầu con được may mắn! Con đã được  
      mẹ cứu như giựt củi khỏi đống lửa, con đã từ bỏ thế gian đi theo Phật nay  
      lại muốn trở lui thiêu đốt trong nhà thế gian. Con hãy mau ra khỏi và che  
      chở cho chúng ta!
 
      
      Nói xong, bà tự nhủ: "Không có cách nào để  
      ta đánh thức sự chán ghét, ghê tởm của chú hơn nữa sao?"
 
      
      Ðể chú rõ thêm, bà đọc kệ:
 
      
      
      Hãy tinh tấn con ơi!
 
      Cầu con đi đường may
 
      Bằng cách nào mẹ khiến
 
      Con gớm đời được đây?
 
      Ðã giựt ra khỏi lửa,
 
      Con là thanh củi say,
 
      Muốn cháy thiêu lần nữa,
 
      Làm sao, làm sao đây?
 
      
      Chú Sànu  
      nghe mẹ nói xong, tri giác tự tỉnh và nói:
 
      
      - Con không hoàn tục.
 
      
      - Tốt lắm! Con yêu quý!
 
      
      Bà mẹ rất hoan hỷ, bà dọn đủ món ngon cho  
      chú. Ăn xong, bà hỏi tuổi chú và được biết chú đủ tuổi để thọ Tỳ-kheo  
      chánh thức gia nhập Tăng đoàn, bà cúng dường chú ba y. Với y và bát đầy  
      đủ, chú được chính thức là vị Tỳ-kheo của Tăng đoàn.
 
      
      Ðức Thế Tôn, ngay lúc ấy đã khuyên chú nên  
      kiểm soát tư tưởng:
 
      
      - Nếu một người để tư tưởng mình rong ruổi  
      xa xôi, lâu dài, suy nghĩ đủ mọi chuyện mà không cố gắng kiểm soát, người  
      ấy không thể đạt được Giải Thoát. Vì thế phải nỗ lực kiểm soát tư tưởng,  
      như người nài voi kiềm thúc con voi trong thời phát dục bằng móc sắt.
 
      
      Ngài nói kệ:
 
      
      
      (326)  
      Trước tâm này buông lung,
 
      Chạy theo ái, dục, lạc,
 
      Nay ta chánh chế ngự,
 
      Như cầm móc điều voi.
 
      
      Nghe xong, chư thiên cùng đến nghe pháp với 
      Sànu, đã chứng Pháp nhãn.  
      Sau này, Thượng toạ Sànu  
      thông suốt Tam tạng, Ngài trở nên một vị giảng sư uyên bác, sống một trăm  
      hai chục tuổi, giáo hóa toàn cõi Diêm-phù-đề, và sau cùng nhập Niết-bàn.
 
      
       
      
      6. Con Voi  
      Sa Lầy
 
      
      Hãy  
      vui không phóng dật...
 
      
      Câu chuyện xảy ra khi đức Phật ở tại Kỳ  
      Viên, liên quan đến voi Pàveyyaka.
 
      
      Vua Ba-tư-nặc có một con voi tên  
      Pàveyyaka. Khi còn nhỏ nó rất  
      mạnh, nhưng trở về già sức lực yếu đi. Một ngày nọ, nó lội ngang các hồ  
      lớn, bị lún chân xuống bùn không bước được. Dân chúng kháo nhau:
 
      
      - Xem kìa! Con voi hồi nhỏ mạnh như thế, bây  
      giờ yếu như thế.
 
      
      Nhà vua nghe tin, lập tức ra lệnh cho người  
      quản tượng:
 
      
      - Hãy kéo con voi ra khỏi đám bùn,
 
      
      Người quản tượng đi đến bờ hồ, giả cách để  
      cho voi thấy như mình sắp ra trận, đầu đội mũ sắt, trống đánh vang lừng.
 
      
      Kiêu khí của con voi trỗi dậy. Nó đứng lên  
      mau mắn, và rút chân ra khỏi sình, bước liền lên đất khô. Các vị Tỳ-kheo  
      chứng kiến sự việc, về bạch Phật, Phật dạy:
 
      
      - Này các Tỳ-kheo, con voi đã tự kéo mình ra  
      khỏi sình lầy. Nhưng các ông bị đắm nhiễm trong bãi lầy dục vọng, hãy cố  
      gắng với tất cả sức lực của mình để thoát ra.
 
      
      Ngài nói kệ:
 
      
      
      (327)  
      Hãy vui không phóng dật,
 
      Khéo phòng hộ tâm ý,
 
      Kéo mình khỏi ác đạo,
 
      Như voi bị sa lầy.
 
      
       
      
      7. Voi Làm  
      Thị Giả Phật
 
      
      Nếu  
      được bạn hiền trí...
 
      
      Câu chuyện xảy ra khi Phật ở trong một khu  
      rừng với voi Pàveyyaka,  
      liên quan đến một nhóm Tỳ-kheo.
 
      
      Khi Phật ở  
      Kosambi, các thầy Tỳ-kheo ở đấy đã chia phe tranh cãi nhau  
      không dứt. Phật dạy bảo cũng không ai nghe, Ngài bèn vào rừng nhập hạ một  
      mình. Ở đấy, một con voi chúa đã hầu hạ Ngài chu đáo. Ðiều này mọi người  
      tăng tục đều hay tin. Nơi thành Xá-vệ, ông Cấp Cô Ðộc, bà Tỳ-xá-khư, các  
      nhà đại phú hộ khác đến thỉnh cầu  Tôn giả A-nan:
 
      
      - Bạch Tôn giả, xin cho chúng con được gặp  
      Phật.
      
      Và năm trăm thầy Tỳ-kheo ở xứ khác, sau khi  
      an cư, đã đến thỉnh cầu A-nan:
 
      
      - Thưa Tôn giả, đã lâu chúng tôi không được  
      nghe pháp âm của đức Thế Tôn. Xin Tôn giả vui lòng cho chúng tôi được gặp  
      Thế Tôn và nghe Ngài giảng pháp.
 
      
      Tôn giả A-nan liền dắt năm trăm Tỳ- kheo đi  
      đến khu rừng nơi Phật ở. Ðến cửa rừng, Ngài nghĩ thầm: "Ðức Như Lai đã  
      sống cô tịch trong ba tháng. Bây giờ thật không thích hợp, nếu ta đột ngột  
      mang hết mấy trăm người này cùng vào với ta". Nghĩ thế, ngài bèn đi một  
      mình đến chỗ Phật. Khi voi chúa  
      Pàveyyaka thấy Tôn giả, bèn tung vòi tiến tới. Ðức Phật bảo:
 
      
      - Hãy lui,  
      Pàveyyaka, đừng xua đuổi người  
      ấy. Ðó là thị giả của Như Lai.
 
      
      Voi chúa bèn cuốn vòi lại, và ngỏ ý muốn đỡ  
      y bát của Tôn giả, nhưng Ngài từ chối. Voi nghĩ: "Nếu người biết lễ phép,  
      sẽ không đặt vật dụng của mình lên phiến đá của Như Lai ngồi". Tôn giả đặt  
      y bát của mình xuống đất (Theo lễ nghi không được để vật dụng của mình nơi  
      giường hoặc ghế của thầy). Sau khi lễ Phật, Tôn giả lui ngồi một bên. Phật  
      hỏi:
      
      - Ông đến một mình?
 
      
      A-nan thưa rằng mình đến với năm trăm  
      Tỳ-kheo.
      
      - Họ ở đâu?
 
      
      - Con không biết ý của Thế Tôn nên để họ ở  
      ngoài rừng.
 
      
      - Hãy gọi họ vào.
 
      
      Tôn giả trở ra gọi năm trăm Tỳ-kheo vào. Thế  
      Tôn hoan hỷ tiếp đón các thầy. Và các Tỳ-kheo đã bạch Phật:
 
      
      - Bạch Thế Tôn, Ngài là một vị Phật tôn quý,  
      một ông hoàng quý phái. Vậy mà Ngài phải ở một mình ba tháng tại nơi này,  
      thật vất vả khi đứng, khi ngồi. Không có ai giúp đỡ Ngài trong các việc  
      quan trọng cũng như lặt vặt, chẳng ai múc nước cho Ngài súc miệng...
 
      
      Phật trả lời:
 
      
      - Này các Tỳ-kheo, voi chúa  
      Pàveyyaka đã làm giúp ta tất  
      cả mọi việc. Ðược một người bạn như thế, sống độc cư cũng tốt. Và nếu  
      không có bạn như thế, tốt hơn là nên sống một mình.
 
      
      Ngài nói kệ:
 
      
      
      (328)  
      Nếu được bạn hiền trí,
 
      Ðáng sống chung, hạnh lành,
 
      Nhiếp phục mọi hiểm nguy,
 
      Hoan hỷ sống chánh niệm.
 
      
      
      (329)  
      Không gặp bạn hiền trí,
 
      Ðáng sống chung, hạnh lành,
 
      Như vua bỏ nước bại,
 
      Hãy sống riêng cô độc,
 
      Như voi sống rừng voi.
 
      
      
      (330)  
      Tốt hơn sống một mình,
 
      Không người ngu kết bạn,
 
      Ðộc thân, không ác hạnh,
 
      Sống vô tư vô lự,
 
      Như voi sống rừng voi.
 
      
       
      
      8. Ma Vương  
      Cám  Dỗ Phật
 
      
      Vui  
      thay, bạn lúc cần! ...
 
      
      Khi đức Bồ-tát còn ở trong thời kỳ tu ẩn dật  
      ở trong dãy núi Tuyết (Himàlaya),  
      chế độ cai trị của các quốc vương khắc nghiệt. Và đức Thế Tôn trông thấy  
      dân chúng bị nhiều hình phạt độc ác, Ngài động lòng thương xót. Ngài tự  
      nhủ: "Tại sao không thực hành một chế độ công bình, chính trực, không có  
      giết chóc, chinh phạt và đau khổ".
 
      
      Khi ấy Ma vương bắt gặp tư tưởng trên thoáng  
      qua trong đầu đức Phật, hắn nghĩ: "Sa-môn Cồ-đàm vừa nghĩ đến việc cai  
      trị. Có lẽ bây giờ ông ấy muốn làm vua, đó là một dịp cho ông ấy tán tâm.  
      Nếu ông ấy ra nắm quyền cai trị, ta có thể cám dỗ ông ấy. ta sẽ đến để gợi  
      lòng tham ấy."
 
      
      Ma vương đến chỗ Phật và bảo:
 
      
      - Thưa Ngài, hãy để đức Thế Tôn cai trị, hãy  
      để bậc Tối Thắng cai trị, sẽ không có giết chóc, chinh phạt và khổ đau, mà  
      chỉ có công bằng và chính trực.
 
      
      - Này Ma vương! Ông thấy ta thế nào mà nói  
      như vậy?
 
      
      - Thưa Ngài, một vị Phật có thể thi triển  
      bốn phép mầu. Chỉ cần Ngài ra lệnh: "Ngọn núi  
      Himàlaya hãy biến thành vàng",  
      lập tức nó sẽ biến thành vàng. Tôi cũng sẽ lấy tài lực này để thực hiện  
      tất cả những việc có thể thực hiện bằng tài lực. Như thế, Ngài sẽ cai trị  
      công bằng chánh trực.
 
      
      Phật bảo:
 
      
      
      Lòng tham người không  
      thỏa
      Dù có núi tử kim
 
      Biết vậy, người khôn tìm
 
      Ðường thẳng ngay tiến bước.
 
      Người đã sớm vẽ trước
 
      Người nhân của khổ đau,
 
      Ðâu có thể nào giao
 
      Ðời mình cho lạc thú?
 
      Hãy để người đã thấu
 
      Nhân sanh tử luân hồi
 
      Tự tu tập điều phục
 
      "Lưỡi ái" buộc bao đời
 
      
      Phật cảnh cáo Ma vương:
 
      
      - Này Ma vương, ta khuyên ông một lần nữa,  
      Ta không giống ông. Ðó là điều Ta muốn nói.
 
      
      Ngài nói kệ:
 
      
      
      (331)  
      Vui thay, bạn lúc cần!
 
      Vui thay, sống biết đủ!
 
      Vui thay, chết có đức!
 
      Vui thay, mọi khổ đoạn!
 
      
      
      (332)  
      Vui thay, hiếu kính mẹ!
 
      Vui thay, hiếu kính cha!
 
      Vui thay, kính Sa-môn!
 
      Vui thay, kính Hiền Thánh!
 
      
      
      (333)  
      Vui thay, già có giới!
 
      Vui thay, tín an trú!
 
      Vui thay, được trú tuệ!
 
      Vui thay, ác không làm!