Tích  
      truyện Pháp Cú
 
      Thiền  
      viện Viên Chiếu
 
      
      Nguyên tác: "Buddhist Legends",
 
      Eugène Watson Burlingame
 
      
      --- o0o ---
                 
      
      
      
      XVIII. 
      Phẩm Cấu Uế
      
      1. Người Ðồ  
      Tể Và Ðứa Con Trai
 
      
      Ngươi  
      nay giống lá héo ...
 
      
      Câu chuyện này xảy ra khi Thế Tôn ở tại Kỳ  
      Viên, liên quan đến một đồ tể mổ bò.
 
      
      Tại Xá-vệ, có một người đồ tể mổ bò. Ông ta  
      giết hại biết bao nhiêu con bò, thường chọn phần thịt ngon nhất cho mình,  
      sai vợ nấu nướng rồi ngồi vào bàn ăn, cùng vợ con nhậu thịt bò, phần còn  
      lại ông bán lấy tiền. Suốt năm mươi lăm năm ông giữ nghiệp này. Trong thời  
      gian ấy, mặc dù đức Thế Tôn ở tại tinh xá bên cạnh nhà, không bao giờ ông  
      cúng cho Thế Tôn một muỗng cháo hay muỗng cơm. Trừ thịt bò ra, ông ta  
      không ăn cơm.
 
      
      Ngày nọ, trời về chiều, sau khi bán vài  
      miếng thịt, ông đưa cho vợ miếng thịt để nấu bữa tối, và đi ra ao tắm. Một  
      người bạn đến nhà ông, hỏi bà vợ:
 
      
      - Hãy để cho tôi ít thịt, nhà tôi có khách.
 
      
      - Thịt bán hết rồi. Ông ấy vừa đi tắm.
 
      
      - Nếu còn miếng thịt nào, chị vui lòng để  
      cho tôi.
 
      
      - Chẳng còn miếng thịt nào, trừ miếng thịt  
      ông ấy dặn tôi làm đồ ăn cho ổng.
 
      
      Người bạn nghĩ: "Nếu đã hết thịt bán, chỉ  
      còn lại thịt dành riêng cho bữa ăn, và ông ấy sẽ không ăn nếu không có  
      thịt, chắc gì ông ấy đã chịu để miếng thịt đó cho mình". Và người này tự  
      động xách miếng thịt ra đi.
 
      
      Tắm xong, người đồ tể trở về. Khi bà vợ dọn  
      ăn, chỉ có rau cải, ông hỏi:
 
      
      - Còn thịt đâu?
 
      
      - Không có ông ạ.
 
      
      - Tôi chừa cho bà một miếng thịt trước khi  
      tôi đi sao?
 
      
      - Một người bạn đến nhà nài mua thịt vì nhà  
      có khách. Tôi trả lời hết thịt bán, mà ổng cứ xách miếng thịt của ông đi  
      về, dù tôi có nói miếng thịt đó cốt để làm thức ăn cho ông, nếu thiếu nó  
      ông không ăn cơm được.
 
      
      - Trừ khi có thịt tôi mới ăn. Tôi không ăn  
      nữa, bà dẹp đi!
 
      
      - Trời ơi, làm sao bây giờ? Thôi ông chịu  
      khó ăn cơm không thịt một bữa.
 
      
      - Tôi đã nói là không.
 
      
      Bắt vợ dẹp mâm cơm, ông ta xách dao ra đi.  
      Có một con bò bị cột gần nhà, ông bước tới chỗ con bò, thò tay vào miệng  
      nó lôi lưỡi nó ra, xẻo luôn chiếc lưỡi rồi xách trở vô nhà, ông nướng  
      chiếc lưỡi bò trên lò than, xong đặt nó trên cơm rồi mới chịu ăn uống. Ông  
      ăn một miếng cơm và một miếng thịt. Vừa để miếng thịt vào miệng, lưỡi ông  
      đứt làm đôi, và rớt xuống đĩa cơm. Ðúng lúc đó, ông nhận hình phạt mà ông  
      gây ra. Máu tuôn thành dòng từ miệng, ông bò quanh sân nhà, rống lên như  
      bò sắp chết.
 
      
      Con trai ông đứng gần đấy, nhìn cha mình  
      giãy chết, mẹ nó bảo:
 
      
      - Này con, hãy nhìn đó, hình phạt tương tự  
      sẽ đến với con. Con đừng lo cho mẹ, hãy tìm đường an ổn mà đi.
 
      
      Ðứa con sợ hãi trước cảnh tượng ấy, từ giã  
      mẹ chạy đi, nó đi về thành Takkasilà.  
      Người đồ tể, sau khi rống lên một lúc, bò quanh sân và chết, rồi đọa vào  
      địa ngục A-tỳ. Cả con bò cũng chết.
 
      
      Ðến  
      Takkasilà đứa con học nghề thợ bạc. Ngày nọ, chủ của nó đi về  
      làng, dặn dò:
 
      
      - Hãy làm món nữ trang như thế này, thế  
      này..
      
      Chú nhỏ làm theo lời dặn. Và khi người chủ  
      về, nhìn món trang sức làm khéo léo theo ý mình, ông nghĩ: "Chú nhỏ này sẽ  
      thành nghề và kiếm ăn dễ dàng". Khi chú trưởng thành được chủ gả con gái  
      cho, rồi sanh con trai, con gái. Các con trai của ông lần lượt trưởng  
      thành, làm nghề khác, dời nhà qua thành Xá-vệ, và trở thành Phật tử thuần  
      thành của đức Thế Tôn. Còn ông cha của chúng (con người đồ tể ngày xưa) ở  
      lại Takkasilà, để thời gian  
      trôi qua mà không làm được chút công đức nhỏ, rồi già nua kéo đến. Các con  
      ông mời ông cụ trở về nhà mình nuôi nấng.
 
      
      Chúng bàn nhau: "Chúng ta hãy cúng dường  
      nhân danh cha chúng ta". Họ mời đức Phật và chư Tăng về nhà thọ trai. Họ  
      sắp đặt bàn ghế tại nhà, dâng thức ăn lên đức Phật và chư Tăng, hầu hạ  
      kính cẩn. Cuối bữa ăn, họ bạch Phật:
 
      
      - Bạch Thế Tôn, thức ăn dâng cúng hôm nay là  
      tạo phước cho cha già hiện đang sống của chúng con, xin Thế Tôn ban phước  
      cho ông cụ.
 
      
      Ðức Phật khuyên ông:
 
      
      - Này ông lão, ông đã già nua, thân thể ông  
      như lá héo úa, ông không tạo việc lành để làm tư lương cho đời sau. Hãy  
      tạo cho mình một chỗ an trụ. Hãy làm người khôn ngoan, đừng làm kẻ si mê.
 
      
      Phật nói kệ:
 
      
      
      (235)  
      Ngươi nay giống lá héo,
 
      Diêm sứ đang chờ ngươi,
 
      Ngươi đứng trước cửa chết,
 
      Ðường trường thiếu tư lương.
 
      
      
      (236)  
      Hãy tự làm hòn đảo,
 
      Tinh cần, gấp sáng suốt,
 
      Trừ cấu uế, thanh tịnh,
 
      Ðến Thánh địa chư thiên.
 
      
      Nghe xong, ông cụ chứng Sơ quả, chúng hội  
      cũng được hưởng lợi ích.
 
      
      Ngày hôm sau, các con ông cũng thỉnh Phật và  
      chúng Tăng thọ trai. Cuối bữa ăn, họ cũng xin hồi hướng phước báo cho cha  
      già. Ðức Phật chúc phước cho ông cụ, nói thêm hai bài kệ:
 
      
      
      (237)  
      Ðời ngươi nay sắp tàn,
 
      Tiến gần đến Diêm vương,
 
      Giữa đường không nơi nghỉ,
 
      Ðường trường thiếu tư lương.
 
      
      
      (238)  
      Hãy tự làm hòn đảo,
 
      Tinh cần, gấp sáng suốt,
 
      Trừ cấu uế, thanh tịnh,
 
      Chẳng trở lại sanh già.
 
      
       
      
      2. Dần Dà  
      Từng Chút
 
      
      Bậc  
      trí theo tuần tự ...
 
      
      Câu chuyện này xảy ra khi đức Phật ở tại Kỳ  
      Viên, liên quan đến một người Bà-la-môn.
 
      
      Một buổi sáng sớm, người Bà-la-môn ra khỏi  
      thành, dừng lại chỗ các Sa-môn thường vấn y, ông đứng quan sát. Chỗ ấy cỏ  
      mọc cao rậm rạp, khi một Sa-môn khoác y vào, chéo y quét qua cỏ, dính  
      sương đẫm ướt. Ông tự nhủ: "Ðám cỏ này phải được dọn sạch". Hôm sau, ông  
      đem cuốc ra rẫy cỏ, dọn sạch chỗ đó, nó trở nên bằng phẳng quang đãng. Hôm  
      sau nữa, ông lại đến quan sát, khi các Tỳ-kheo khoác y vào, chéo y quét  
      trên đất và dính bụi. Ông nghĩ thầm: "Ta sẽ rải cát ở đây". Ông lại đem  
      cát đến đổ cho sạch nơi đó.
 
      
      Vào một ngày, sáng sớm trời đã nóng bức. Dịp  
      ấy ông thấy các Tỳ-kheo mặc y, mồ hôi đổ giọt. Người Bà-la-môn nghĩ: "Ta  
      sẽ cất một cái trại nơi đây". Lập tức ông che lên một cái lều cho các  
      Tỳ-kheo. Lại ngày khác, sáng sớm trời đổ mưa, dịp này ông lại thấy các  
      Tỳ-kheo bị tạt ướt, ông nghĩ thầm: "Mình phải cất nhà mới được". Nghĩ là  
      làm, và khi ngôi nhà hoàn thành, ông tổ chức lễ khánh thành. Ông mời Phật  
      và chúng Tăng đến đó, mời ngồi bên trong và bên ngoài, rồi dâng thức ăn.
 
      
      Sau bữa ăn, ông cầm lấy bát của đức Phật,  
      xin Ngài hồi hướng công đức. Ông nói:
 
      
      - Bạch Thế Tôn, khi con đứng nơi này, đầu  
      tiên nhìn các Tỳ-kheo đắp y, con thấy như thế, và đã làm như thế, như thế.
 
      
      Và bắt đầu từ khởi điểm, ông kể cho Phật  
      nghe toàn bộ câu chuyện. Phật nghe xong nói:
 
      
      - Này Bà-la-môn, người trí làm việc lành  
      cũng vậy, hết lúc này đến lúc khác, từng việc một, dứt bỏ những nghiệp  
      xấu.
      
      Ngài nói kệ:
 
      
      
      (239)  
      Bậc trí theo tuần tự,
 
      Từng sát-na trừ dần.
 
      Như thợ vàng lọc bụi,
 
      Trừ cấu uế nơi mình.
 
      
 
      
      3. Con Rận  
      Tiếc Của
 
      
      Như  
      sét từ sắt sinh ...
 
      
      Câu chuyện này xảy ra khi đức Phật ở tại Kỳ  
      Viên, liên quan đến thầy Tỳ-kheo Tissa.
 
      
      Ở Xá-vệ, có một chàng trẻ tuổi con nhà quyền  
      quý xuất gia, làm đầy đủ bổn phận, là Thượng tọa  
      Tissa. Lúc thầy còn ở tinh xá  
      trong thành, được cúng dường một tấm vải thô dài tám thước. Sau ngày mãn  
      hạ, thầy về nhà, đưa vải cho chị xem. Chị thầy nghĩ thầm: "Tấm vải này  
      không xứng với em ta". Cô bèn lấy dao bén, rọc vải thành từng mảnh, bỏ vào  
      cối giả đập cho mềm, bỏ những sợi thô, dệt thành tấm vải mới.
 
      
      Vài hôm sau, thầy  
      Tissa, tìm ra chỉ và kim, rủ  
      thêm vài thầy và vài chú Sa-di biết may y, đến nhà người chị bảo:
 
      
      - Ðưa em khúc vải, em muốn may y.
 
      
      Cô lấy khúc vải mịn dài chín mét, đưa cho  
      thầy. Thầy từ chối:
 
      
      - Vải kia của em là thứ thô xấu, dài tám  
      mét, khúc này đẹp lại dài chín mét, không phải của em. Hãy đưa khúc vải  
      hôm trước ấy.
 
      
      - Thưa thầy, vải này của thầy đó.
 
      
      Cô kể lại những việc làm của mình và bảo  
      thầy hãy lấy vải.
 
      
      Thầy  
      Tissa đem vải về tinh xá, và tìm người may y. Chị thầy sửa soạn  
      cơm canh mang đến cho thợ may, và khi tấm y hoàn thành, trông nó rất đẹp.  
      Thầy Tissa rất thích chiếc  
      y mới, thầy định ngày mai sẽ đắp nó.
 
      
      Nhưng hôm ấy, thầy bị bội thực và chết, tái  
      sanh làm một con rận trong chiếc y mới của mình. Chị thầy nghe tin, nhào  
      lăn dưới chân các Tỳ-kheo khóc lóc. Các Tỳ-kheo lo tang ma xong, bàn định:
 
      
      - Không ai hầu cận  
      Tissa khi thầy đau, chiếc y  
      này thuộc Tăng chúng, chúng ta hãy chia phần.
 
      
      Con rận la hoảng:
 
      
      - Các thầy tước đoạt tài sản của tôi.
 
      
      Và nó vừa kêu la vừa bò quanh chiếc y.
 
      
      Ðức Thế Tôn ngồi trong hương thất, biết việc  
      xảy ra, bèn gọi A-nan:
 
      
      - Này A-nan, hãy bảo chúng Tăng dời việc  
      chia y bảy ngày.
 
      
      Tôn giả làm theo lời dạy. Cuối ngày thứ bảy,  
      con rận chết và tái sanh lên cõi trời Ðâu-suất. Ngày thứ tám, đức Phật cho  
      phép chúng Tăng chia y.
 
      
      Sau khi chia xong, chư Tăng bàn tán:
 
      
      - Tại sao đức Thế Tôn ra lệnh để chiếc y của 
      Tissa lại bảy hôm, ngày thứ  
      tám mới cho phân chia.
 
      
      Ðức Phật đến gần các thầy hỏi:
 
      
      - Các ông tụ họp ở đây bàn tán việc gì?
 
      
      Và khi các thầy kể lại. Ngài nói:
 
      
      - Tissa
      đã tái sanh làm con rận trong y mới của mình. Khi các ông định  
      phân chia y, con rận đã nổi giận. Nó sẽ cự lại các ông, và sẽ đọa địa  
      ngục. Vì lẽ đó Ta bảo để y lại. Hiện nay thì  
      Tissa đã sanh lên cõi trời  
      Ðâu-suất, Ta mới cho phép các ông lấy y đem chia.
 
      
      Các Tỳ-kheo bạch Phật:
 
      
      - Bạch Thế Tôn, tham ái thật là một nỗi khổ  
      lớn.
      
      Phật xác nhận:
 
      
      - Tham ái thật là vấn đề lo lắng lớn của  
      chúng sanh trên quả đất, như gỉ sét phát sanh từ sắt, trở lại ăn mòn sắt,  
      tham ái phát sanh từ chúng sanh và đưa chúng sanh xuống địa ngục.
 
      
      Phật nói kệ:
 
      
      
      (240)  
      Như sét từ sắt sinh,
 
      Sắt sinh lại ăn sắt,
 
      Cũng vậy, quá lợi dưỡng,
 
      Tự nghiệp dẫn cõi ác.
 
      
       
      
      4. Thầy Tỳ  
      Kheo Kiêu Ngạo
 
      
      Không  
      tụng làm nhớp kinh ...
 
      
      Câu chuyện này xảy ra khi đức Thế Tôn ở tại  
      Kỳ Viên, liên hệ đến thầy Udàyi.
 
      
      Tại Xá-vệ, năm mươi triệu Phật tử thường  
      cúng dường bữa ăn sáng cho chư Tăng, và sau đó họ mang bơ, dầu mè, mật  
      ong, mật mía, hương hoa và những vật cần dùng đến tinh xá nghe pháp. Sau  
      khi nghe xong ra về, họ ca tụng đức hạnh của hai Tôn giả Xá-lợi-phất và  
      Mục-kiền-liên. Thầy Ưu-đà-di (Udàyi)  
      nghe thấy thế bèn bảo họ:
 
      
      - Các ông chỉ nghe hai Tôn giả ấy thuyết  
      pháp nên ca tụng như thế, tôi chắc rằng nếu các ông nghe tôi nói pháp, còn  
      khen đến đâu.
 
      
      Hôm sau, họ thỉnh thầy Ưu-đà-di:
 
      
      - Thưa Tôn giả, hôm nay chúng con đến nghe  
      pháp, sau khi cúng dường chư Tăng xong, xin Tôn giả thuyết pháp cho chúng  
      con.
      
      Thầy Ưu-đà-di nhận lời. Và thính chúng kéo  
      đến bên thầy. Thầy ngồi trên một cái ghế, phe phẩy quạt chẳng biết nói một  
      câu gì, chỉ bảo:
 
      
      - Ta sẽ đọc một bài chú, hãy để người khác  
      thuyết pháp.
 
      
      Thầy bước xuống. Thính chúng mời vị khác  
      giảng dạy, và một lần nữa mời thầy lên ghế đọc chú. Ưu-đà-di lại hẹn:
 
      
      - Ta sẽ đọc chú vào đêm nay, hãy mời vị khác  
      đọc chú.
 
      
      Thính chúng mời vị khác, và đêm đến họ trở  
      lại chỗ thầy. Thầy lại hẹn:
 
      
      - Sáng mai ta sẽ đọc.
 
      
      Sáng hôm sau, Thầy cũng chẳng đọc được câu  
      nào. Các thiện tín tức giận ném đất, ném gậy vào thầy, nhiếc rằng:
 
      
      - Khi chúng ta ca tụng đức hạnh của hai Tôn  
      giả Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên, thầy nói những gì? Bây giờ sao thầy làm  
      thinh thế?
 
      
      Thầy bỏ chạy, họ rượt theo, và thầy té xuống  
      một hầm phân.
 
      
      Các thiện tín bàn tán về chuyện xảy ra trong  
      ngày, nói rằng:
 
      
      Khi chúng ta ca tụng phẩm hạnh của Tôn giả  
      Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên, Ưu-đà-di sanh tâm đố kỵ, tuyên bố rằng mình  
      cũng là giảng sư. Thế mà khi được cung kính mời nói pháp, thầy ấy bốn lần  
      lên pháp tòa mà chẳng nói được một câu. Bị rượt và với gậy gộc, ngói đá,  
      thầy té xuống hầm phân.
 
      
      Ðức Thế Tôn nghe được câu chuyện. Ngài bảo  
      các Tỳ-kheo:
 
      
      - Ðây không phải là lần đầu tiên, Ưu-đà-di  
      rơi xuống hầm phân, đời quá khứ thầy ấy cũng đã làm như thế.
 
      
      Ngài kể chuyện (Jàtaka  
      153)
 
      
      (Chuyện kể rằng, có một con lợn rừng thách  
      đấu với sư tử. Trước ngày ấy nó lăn trong đống phân khiến cả da lông đều  
      hôi hám, rồi đến nơi hẹn. Sư tử không dám đến gần, để cho nó thắng).
 
      
      Sư tử là Xá-lợi-phất, lợn rùng là Ưu-đà-di.
 
      
      Phật nói lại câu kệ giữa hai con thú:
 
      
      
      Tôi là thú, anh cũng  
      thú,
      Hãy đến đây hỡi sư tử.
 
       Vì sao anh lại bỏ chạy.
 
      Này heo kia, mi hôi hám, lông dày, dơ bẩn. 
 
      Nếu mày muốn đọ sức, ta nhường cho mi thắng cuộc.
 
      
      Sau khi dạy như thế, Phật nói:
 
      
      - Này các Tỳ-kheo, Ưu-đà-di chỉ học được một  
      câu kinh, nhưng không bao giờ đọc tụng là một lỗi lớn.
 
      
      Ngài nói Pháp Cú:
 
      
      
      (241)  
      Không tụng làm nhớp kinh,
 
      Không đứng dậy, bẩn nhà,
 
      Biếng nhác làm nhơ sắc,
 
      Phóng dật uế người canh.
 
      
       
      
      5. Tà Hạnh  
      Của Nữ Nhân
 
      
      Tà  
      hạnh nhơ đàn bà ...
 
      
      Câu chuyện này xảy ra khi đức Thế Tôn ở tại  
      Trúc Lâm, liên quan đến một thanh niên quý tộc (Jàtaka  
      65).
 
      
      Khi đức Thế Tôn ở tại Trúc Lâm, có một thanh  
      niên dòng quý tộc kết hôn với một thiếu nữ đồng giai cấp. Sau đó không  
      lâu, người vợ ngoại tình. Xấu hổ vì chuyện này, người thanh niên không dám  
      gặp ai. Ðến phiên chàng vào hầu Phật, chàng đến đảnh lễ Thế Tôn, lui ngồi  
      một bên. Phật hỏi:
 
      
      - Này con, sao lâu nay con vắng mặt?
 
      
      Chàng kể lại chuyện cho đức Phật nghe. Ngài  
      bảo:
      
      - Ngay trong thời quá khứ, Ta đã bảo con  
      rằng: "Ðàn bà thay đổi như dòng sông, và người trí chớ có hơi đâu mà giận  
      họ". Nhưng vì luân hồi tái sanh che mờ tâm trí con, con đã quên điều này.
 
      
      Chàng thanh niên yêu cầu Phật kể lại chuyện  
      trước (Jàtaka 65), Ngài nói kệ:
 
      
      
      Như dòng sông, con  
      đường, quán rượu, phòng hội, nhà kho.
 
      Ðàn bà trên thế gian đều như thế, không bao giờ biết được thời tiết của  
      chúng.
      
      Ngài dạy tiếp:
 
      
      - Như thế, dâm ô là uế trược của đàn bà, bỏn  
      sẻn là uế trược của người bố thí, ác nghiệp là uế trược của chúng sanh ở  
      đời này và đời sau, nhưng trong tất cả uế trược, vô minh là uế trược nhất.
 
      
      Ngày dạy Pháp Cú:
 
      
      
      (242)  
      Tà hạnh nhơ đàn bà,
 
      Xan tham nhớp kẻ trí,
 
      Ác pháp là vết nhơ,
 
      Ðời này và đời sau.
 
      
      
      (243)  
      Trong hàng cấu uế ấy,
 
      Vô minh, nhơ tối thượng,
 
      Ðoạn nhơ ấy, Tỳ-kheo,
 
      Thành bậc không uế nhiễm.
 
      
       
      
      6. Lịch Sự  
      Và Thô Lỗ
 
      
      Dễ  
      thay, sống không hổ ...
 
      
      Câu chuyện xảy ra khi đức Thế Tôn ở tại Kỳ  
      Viên, liên quan đến Culla Sàri  
      ở chung với Tôn giả Xá-lợi-phất.
 
      
      Một ngày nọ, thầy Tỳ-kheo đó làm khán bệnh,  
      thầy nhận được thức ăn bổ dưỡng. Trên đường đi thầy gặp một Tôn giả đang  
      khất thực, bèn mời:
 
      
      - Tôn giả, tôi có ít thức ăn thượng vị được  
      bệnh nhân cúng dường, không dễ gì có, xin mời Tôn giả ăn. Lần khác, nếu  
      tôi nhận được, tôi sẽ mang cho Tôn giả.
 
      
      Tôn giả nghe nói, nhưng cứ đi không trả lời.  
      Các Tỳ-kheo đem câu chuyện đó bạch Phật. Phật dạy:
 
      
      - Này các Tỳ-kheo, người nào không biết xấu  
      hổ, trơ trẻn, bất lịch sự thì sống thoải mái. Người nào thành thật và sợ  
      từng lỗi nhỏ, thì sống dè dặt.  Ngài nói Pháp Cú:
 
      
      
      (244)  
      Dễ thay, sống không hổ,
 
      Sống lỗ mãng như quạ,
 
      Sống công kích huênh hoang,
 
      Sống liều lĩnh, nhiễm ô.
 
      
      
      (245)  
      Khó thay, sống xấu hổ,
 
      Thường thường cầu thanh tịnh,
 
      Sống vô tư, khiêm tốn,
 
      Trong sạch và sáng suốt.
 
      
       
      
      7. Tất Cả  
      Giới Cấm Ðều Khó Giữ.
 
      
      Ai ở  
      đời sát sinh ...
 
      
      Câu chuyện xảy ra khi đức Phật ở tại Kỳ  
      Viên, liên quan đến năm trăm tín đồ.
 
      
      Có năm trăm tín đồ, người này chỉ giữ giới  
      bất sát, người khác chỉ giữ một giới khác.. Ngày kia họ bàn tán, người nào  
      cũng cho rằng giới của mình khó giữ, việc của mình khó nhất.. và họ đến  
      chỗ Phật kể lại câu chuyện. Phật dạy:
 
      
      - Không có giới nào là quan trọng ít, giới  
      nào là quan trọng nhiều, tất cả các giới đều khó giữ.
 
      
      Ngài nói kệ:
 
      
      
      (246)  
      Ai ở đời sát sinh,
 
      Nói láo không chân thật,
 
      Ở đời lấy không cho,
 
      Qua lại với vợ người.
 
      
      
      (247)  
      Uống rượu men, rượu nấu,
 
      Người sống đam mê vậy,
 
      Chính ngay tại đời này,
 
      Tự đào bới gốc mình.
 
      
      
      (248)  
      Vậy người, hãy nên biết,
 
      Không chế ngự là ác,
 
      Chớ để tham phi pháp,
 
      Làm người đau khổ dài.
 
      
       
      
      8. Kẻ Bới  
      Lỗi Người
 
      
      Do  
      tín tâm, hỷ tâm ...
 
      
      Câu chuyện xảy ra khi đức Thế Tôn ở tại Kỳ  
      Viên, liên quan đến chú Sa-di Tissa.
 
      
      Chuyện kể rằng, Sa-di  
      Tissa có thói quen tìm kiếm  
      lỗi lầm trong phẩm vật cúng dường của Cấp Cô Ðộc, của tín nữ Tỳ-xá-khư,  
      ngay cả của năm triệu thiện tín, đến cả phẩm vật tối thắng của vua  
      Ba-tư-nặc cũng thấy khuyết điểm. Khi nhận được thức ăn nguội chú phàn nàn  
      nguội quá, khi nhận được thức ăn nóng chú phàn nàn nóng quá. Khi nhận thức  
      ăn ít, chú càu nhàu sao ít thế? Và khi nhận nhiều vật thực, chú cũng nói  
      chắc ở nhà họ hết chỗ chứa, hoặc: "Họ chỉ cần cúng cho các thầy để được  
      ủng hộ, cúng nhiều cơm cháo thế này thật là lãng phí".
 
      
      Nhưng nếu đề cập đến bà con mình, chú nói:  
      "Ô! Nhà của bà con tôi cung cấp đầy đủ cho các Sa-môn tứ phương".
 
      
      Tissa 
      chỉ là một con người gác cổng. Khi đi theo những người thợ lên Xá-vệ, chú  
      xin xuất gia. Các Tỳ-kheo thấy chú luôn luôn chỉ trích lỗi lầm và việc tốt  
      của người khác, muốn tìm sự thật về chú, các thầy hỏi thăm chỗ chú ở và  
      sai vài Sa-di hỏi thăm người làng:
 
      
      - Có một Sa-di tên  
      Tissa người ở làng này, ai là  
      thân tộc của chú?
 
      
      Dân làng nghĩ thầm: "Ở đây không có thanh  
      niên quý tộc nào xuất gia, các Sa-di này muốn tìm ai?". Họ nói:
 
      
      - Ở đây, chúng nghe có con của người gác  
      cổng đi theo thợ mộc và xuất gia, chắc đó là người thầy muốn hỏi.
 
      
      Các Sa-di về thuật lại với các Tỳ-kheo rằng 
      Tissa nói khoác, các  
      Tỳ-kheo bạch Phật. Phật dạy:
 
      
      - Ðây không phải là lần đầu tiên  
      Tissa hay cằn nhằn và nói  
      khoác, đời quá khứ chú cũng đã khoe khoang khoác lác như thế.
 
      
      Phật kể chuyện quá khứ (Jàtaka  
      Katàhaka). Ngài dạy tiếp:
 
      
      - Này các Tỳ-kheo, người nào hay than phiền  
      về vật thực cúng dâng ít quá hay nhiều quá, ngon hay dở, hoặc không cúng  
      dường ta mà cúng dường người khác, người ấy không bao giờ chứng quả.
 
      
      Ngài nói Pháp Cú:
 
      
      
      (249)  
      Do tín tâm, hỷ tâm
 
      Loài người mới bố thí,
 
      Ở đây ai bất mãn,
 
      Người khác được ăn uống,
 
      Người ấy ngày hoặc đêm,
 
      Không đạt được tâm định.
 
      
      
      (250)  
      Ai cắt được, phá được,
 
      Tận gốc, nhổ tâm ấy,
 
      Người ấy, ngày hoặc đêm,
 
      Tất đến được tâm định.
 
      
       
      
      9. Những  
      Người Lơ Ðễnh
 
      
      Lửa  
      nào bằng lửa tham ...
 
      
      Câu chuyện này xảy ra khi đức Thế Tôn ở tại  
      Kỳ Viên, liên quan đến năm người thiện tín.
 
      
      Khi đức Phật ở tại tinh xá Kỳ Hoàn, có năm  
      tín đồ nghe Ngài giảng pháp, họ đảnh lễ Phật và lui ngồi một bên. Phật  
      không hề nghĩ rằng: "Người này dòng Sát-lợi, người kia dòng Bà-la-môn,  
      người nay giàu, người kia nghèo. Ta giảng rộng cho người này, không giảng  
      rộng cho người kia". Những việc này không liên quan đến đề tài Phật thuyết  
      giảng, mọi người đều bình đẳng trước pháp, và Phật giảng dạy như nhau.
 
      
      Nhưng năm người ngồi trước Phật, kẻ thì ngủ  
      gục, người thì lấy ngón tay bươi trên đất, người đong đưa cành cây, người  
      thì ngó lên trời. Chỉ có một người chăm chú nghe. Tôn giả A-nan đứng quạt  
      hầu Phật, quan sát cử chỉ của năm người ấy, và sau đó bạch Phật:
 
      
      - Bạch Thế Tôn, Ngài giảng dạy như tiếng sấm  
      rền, mà những người ngồi nghe như thế, như thế.
 
      
      - Này A-nan, ông có biết họ không?
 
      
      - Bạch Thế Tôn, không.
 
      
      - Người ngủ gục ấy, đã từng làm rắn trong  
      năm trăm kiếp, thường cuộn mình lại ngủ say nên kiếp này cũng ưa ngủ,  
      không có lời nào của Ta lọt vào tai.
 
      
      - Bạch Thế Tôn, việc ấy xảy ra trong nhiều  
      kiếp liên tục hay đứt quãng?
 
      
      - Một lần, người này làm người, một lần  
      khoác áo chư thiên, và lần khác làm rắn. Không thể dùng trí biết được số  
      kiếp luân hồi của hắn. Nhưng trong năm trăm kiếp liên tục, hắn làm rắn và  
      ngủ không bao giờ chán.
 
      
      Người dùng tay bươi đất, là đã năm trăm kiếp  
      làm côn trùng chui trong đất, nên bây giờ cứ bới đất, chẳng nghe lời Ta.
 
      
      Người hay lay cành cây, là đã năm trăm kiếp  
      làm khỉ, và vì thói quen chuyền cành, nên hiện tại cứ nắm cành cây, không  
      nghe lời Ta nói.
 
      
      Người nhìn lên trời, là đã năm trăm kiếp làm  
      chiêm tinh gia, nên ngày nay cũng nhìn lên trời, không nghe Ta nói gì.
 
      
      Người ngồi nghe chăm chú, là đã năm trăm  
      kiếp làm Bà-la-môn đọc tụng Vệ-đà nên hôm nay cũng chăm chú như đang đọc  
      Mật thư.
 
      
      - Bạch Thế Tôn, Ngài giảng dạy thấm sâu như  
      chẻ da xương, vì sao những người này không chăm chú nghe?
 
      
      - A-nan, ông tưởng giáo lý Ta dễ nghe được  
      sao?
      
      - Bạch Thế Tôn, Ngài cho rằng khó nghe được?
 
      
      - Ðúng vậy.
 
      
      - Tại sao, bạch Thế Tôn?
 
      
      - Này A-nan, những chúng sanh này trong vòng  
      luân hồi vô tận không nghe tên Tam Bảo, nên bây giờ không thể nghe giáo  
      pháp. Những chúng sanh này trong vòng sanh tử vô cùng ấy chỉ quen nghe  
      tiếng nói của súc sinh. Hơn nữa, họ tiêu phí thời giờ trong việc ăn uống,  
      vui chơi, múa hát, nên không thể nghe giáo pháp.
 
      
      - Bạch Thế Tôn, vì lý do gì họ không thể  
      nghe pháp?
 
      
      - Này A-nan, vì tham ái, vì sân hận, vì si  
      mê. Vì vậy, không lửa nào bằng lửa tham ái, đốt cháy hữu tình không một  
      chút tro. Vào thời kiếp hỏa, hỏa tai thiêu rụi toàn thế giới không chừa  
      một tí nào, nhưng lửa này chỉ cháy trong vòng bảy mặt trời, và chỉ cháy  
      trong thời tiết nào thôi. Còn lửa tham ái không lúc nào không bốc cháy.  
      Cho nên Ta nói không lửa nào bằng lửa tham ái, không kìm kẹp nào bằng sân  
      hận, không lưới nào bằng si mê, không sông nào bằng ái dục.
 
      
      Ngài nói Pháp Cú:
 
      
      
      (251)  
      Lửa nào bằng lửa tham!
 
      Chấp nào bằng sân hận!
 
      Lưới nào bằng lưới si!
 
      Sông nào bằng sông ái!
 
      
       
      
      10. Trưởng  
      Giả Ram
 
      
      Dễ  
      thay thấy lỗi người ...
 
      
      Câu chuyện xảy ra khi đức Thế Tôn ở  
      Jàtiyàvana gần thành Bạt-đề  
      (Bhaddiya), liên quan đến  
      Trưởng giả Ram.
 
      
      Bối  
      cảnh:
      
      10A. Thế Tôn Thăm Trưởng  
      Giả Ram
 
      
      Thuở nọ, khi đức Phật du hành qua xứ  
      Anguttaras, Ngài nhận thấy  
      những người trong gia đình Trưởng giả  
      Ram đều có duyên chứng quả Tu-đà-hoàn. Ông trưởng giả vợ ông là 
      Candapadumà, con trai là  
      Trưởng giả Dhananjiya, con  
      dâu Sumanà Devì, cháu nội 
      Visàkhà, tớ gái  
      Punna. Nhận thấy như thế, Ngài  
      đi đến thành Bhaddiya, ngụ  
      tại rừng Jàtiyà (Jàtiyàvana).  
      Trưởng giả Ram nghe  
      Phật đến bèn đi thăm. Nhưng tại sao ông có tên là  
      Ram?
      
      Ngoài  
      đề:
      
      10B. Trưởng Giả Ram Và  
      Những Con Cừu Bằng Vàng.
 
      
      Ðằng sau nhà ông, trong khoảng sân rộng tám  
      mẫu, có những con cừu bằng vàng to bằng con voi, ngựa hoặc trâu nước.  
      Chúng phi tới phi lui, cày đất tứ tung, thụi lưng vào nhau. Khi Trưởng giả 
      Ram cần bơ, dầu, mật ong,  
      hay mật mía, hoặc thức ăn, hoặc ông cần y phục, hoặc vàng bạc, ông chỉ cần  
      đặt một trái banh bằng chỉ ngũ sắc vào miệng mấy con cừu, từ miệng chúng  
      sẽ tuôn ra đủ tất cả các thứ cần dùng cho mọi người trên khắp cõi  
      Diêm-phù-đề, dù chỉ lấy ở một con thôi. Ðó là lý do ông được gọi là  
      Ram (Cừu). Nhưng ông đã làm gì  
      trong quá khứ?
 
      
      
      Chuyện quá khứ:
 
      
      10C. Bằng Cách Nào Trưởng  
      Giả Ram Có Ðược Cừu Bằng  
      Vàng?
      
      Vào thời Phật Tỳ-bà-thi, ông là cháu của một  
      người tên Avaroja, ông cũng  
      tên Avaroja. Người cậu dự  
      định xây cất hương thất cho Phật,  
      Avaroja cháu đến gặp  
      Avaroja cậu, đề nghị:
 
      
      - Thưa cậu, chúng ta hợp tác để xây cất  
      hương thất.
 
      
      - Ta không muốn chia sẻ công việc cho ai cả.
 
      
      Người cậu trả lời như thế. Cháu nghĩ thầm:  
      "Ngay khi hương thất xây xong, sẽ có một chuồng voi tại đây". Chàng đặt  
      thợ rừng cưa gỗ, dựng cột, cất một trại voi với tất cả rui mè, kèo, đòn  
      tay, cửa cái, cửa sổ, sàn nhà, nóc đều cẩn đầy vàng bạc, châu báu. Như  
      thế, đối diện với hương thất của Như Lai là một chuồng voi dành cho Ngài,  
      trang hoàng bằng thất bảo. Trên nóc chuồng có một cái tháp bằng vàng ròng,  
      đỉnh tháp bằng san hô. Chính giữa lều chàng đặt một cây lọng bằng ngọc,  
      che trên tòa ngồi. Tòa ấy có bốn chân bằng vàng ròng, dưới bốn chân ghế có  
      bốn con cừu bằng vàng đỡ chân, hai cừu vàng kê chân. Sáu cừu vàng vây  
      quanh lọng. Mặt ghế trải thảm bằng chỉ vàng, chỉ bạc, lưng ghế bằng gỗ  
      chiên đàn.
 
      
      Khi hoàn thành lều voi, chàng mở tiệc ăn  
      mừng, chàng thỉnh Phật và sáu trăm tám mươi ngàn vị Tỳ-kheo cúng dường tám  
      tháng. Ngày cuối cùng, chàng cúng dâng mỗi vị Tỳ-kheo ba y, và chỉ một y  
      cho mỗi vị Sa-di cũng đã đáng giá trăm ngàn đồng vàng. Sau khi làm những  
      công đức như thế trong thời Phật Tỳ-bà-thi,  
      Avaroja cháu đã tái sinh cõi  
      trời, cõi người. Và kiếp này nổi tiếng là Trưởng giả giàu có của thành  
      Ba-la-nại.
      
      Chuyện quá khứ
 
      
      10D. Vì Sao Trưởng Giả  
      Ram Và Gia Quyến Ðược Phép  
      Màu?
      
      Một ngày kia, Trưởng giả  
      Ram đến hoàng cung chầu vua,  
      gặp thầy Tư tế của hoàng gia, ông hỏi:
 
      
      - Thưa thầy, thầy có xem thiên văn không?
 
      
      - Ðược chứ, ông cần gì?
 
      
      - Xin cho biết vận mệnh của xứ này.
 
      
      - Sẽ có thiên tai.
 
      
      - Chừng nào xảy ra?
 
      
      - Ba năm nữa sẽ có nạn đói.
 
      
      Trưởng giả nghe nói thế, bèn về nhà ra lệnh  
      trồng thật nhiều lúa, đem hết tài sản mua lúa, xây cất một ngàn hai trăm  
      năm mươi vựa đựng thóc lúa, đổ đầy tràn, còn đổ thêm vào lu hũ chôn dưới  
      đất, còn bao nhiêu ông cho trộn với đất sét, xây thành bức tường.
 
      
      Thời gian sau, nạn đói xảy ra, ông đem số  
      lúa dự trữ ra ăn. Khi ăn cạn hết lương thực, ông gọi thân quyến đến và  
      bảo:
      
      - Các người hãy đi vào núi mà kiếm thức ăn.  
      Khi nạn đói qua hãy trở về. Nếu không muốn về cứ ở lại nơi nào mình thích.
 
      
      Tất cả thân bằng quyến thuộc ra đi, chỉ còn  
      lại vợ Trưởng giả, con trai, con dâu, và người giúp việc  
      Punna ở lại với ông, cả thảy  
      năm người. Sau khi ăn hết lúa chôn dưới đất, họ cạy bức tường, ngầm từng  
      mảng vào nước, lượm lúa ra ăn. Nạn đói hoành hành rộng lớn và tường lúa  
      cũng hết. Chỉ còn lại một lít lúa cuối cùng, bà Trưởng giả sợ trộm vét,  
      bèn bỏ vào trong bình, đậy nắp lại chôn dưới đất.
 
      
      Khi ông Trưởng giả ở cung vua về, hỏi vợ:
 
      
      - Này bà, tôi đói bụng, còn gì để ăn không?
 
      
      - Còn một ít lúa chôn dưới đất.
 
      
      - Hãy đào lên và nấu ăn.
 
      
      - Nếu tôi nấu cháo thì ăn được hai bữa, nếu  
      nấu cơm thì chỉ một bữa thôi. Làm theo cách nào?
 
      
      - Bây giờ chúng ta chẳng còn gì, chỉ ăn bữa  
      cơm rồi chờ chết, thôi nấu cơm đi.
 
      
      Bà vợ nấu cơm, chia làm năm phần, và đặt  
      phần của ông Trưởng giả trước mắt ông.
 
      
      Lúc ấy trên núi Kiền-đà  
      (Grandhamàdana) có một vị Phật  
      Bích Chi nhập định, Ngài không bao giờ bị đói, nhưng nếu Ngài ra khỏi  
      định, chẳng bao lâu Ngài sẽ đói vì bao tử hoạt động trở lại. Lúc ấy Ngài  
      quan sát xem nơi nào có thể khất thực. (Chúng sanh nào dâng cơm cho Ngài  
      sau khi xuất đại định sẽ được phước báo làm tổng tư lệnh hoặc cấp ngang  
      hàng).
      
      Ðức Phật Bích Chi chỉ dùng thiên nhãn quan  
      sát thế giới, Ngài thấy rằng một trận đói khủng khiếp đã xảy ra trên cõi  
      Diềm-phù-đề, và tại nhà Trưởng giả nọ chỉ còn năm người với một lít gạo.  
      Liệu họ có đủ thành tín để cúng cho Ngài? Nhận thấy họ rất mực thành tín,  
      Ngài bèn đắp y, mang bát đến trước cửa nhà Trưởng giả.
 
      
      Khi ông Trưởng giả nhìn thấy Phật, lòng ông  
      tràn đầy niềm vui: "Vì quá khứ ta không hề cúng dâng nên giờ này mới chịu  
      nạn đói kinh khủng, phần cơm này chỉ giúp ta sống một ngày, nếu cúng dường  
      Phật ta sẽ thoát vòng sanh tử trong nhiều kiếp".
 
      
      Nghĩ thế, ông mời Phật vào nhà, đảnh lễ năm  
      vóc sát đất, thỉnh Ngài ngồi, đem nước rửa chân, kê chân Ngài bằng chiếc  
      nệm vàng, và sớt cơm vào bát Phật. Khi ông sớt được phân nửa, đức Bích Chi  
      dùng tay che miệng bát, tỏ ý không nhận thêm. Ông Trưởng giả bạch Phật:
 
      
      - Bạch Ngài, chúng con năm người chung một  
      lít gạo, phần cơm này là một trong năm phần được chia. Con không muốn sớt  
      làm hai, con muốn cúng dường Ngài tất cả, con không mong cầu Ngài ban  
      phước lành cho con hiện đời.
 
      
      Nói xong ông trút hết cơm vào bát Phật và  
      phát lời nguyện:
 
      
      - Bạch Ngài, mong rằng nơi nào con tái sinh,  
      con xin sẽ không bao giờ chịu đói như hiện tại. Con sẽ có đủ thức ăn cho  
      mọi người trên khắp cõi Diêm-phù-đề. Con không phải làm lụng cực nhọc để  
      sống. con sẽ có một ngàn hai trăm năm chục vựa lúa, sau khi quét dọn sạch  
      sẽ, con gội đầu và ngồi trước cửa kho, đúng lúc đó thóc lúa sẽ rơi đầy kho  
      lẫm. Nơi nào con tái sinh, vợ con là người vợ này, con trai, con dâu và  
      đầy tớ chính là những người này.
 
      
      Vợ Trưởng giả nghĩ: "Ta sẽ không ăn khi  
      chồng ta chịu đói". Và bà cũng dâng cúng phần cơm của mình cho Phật, với  
      lời nguyện:
 
      
      - Nơi nào con tái sinh, con không chịu nạn  
      đói lần thứ hai. Con có quyền năng dùng một bát cơm cho tất cả người trên  
      cõi Diêm-phù-đề, cho bao nhiêu tùy ý mà bát cơm vẫn đầy. Nguyện những  
      người này sẽ là chồng con, con trai, con dâu, và là người giúp việc của  
      con trong kiếp sau.
 
      
      Con trai ông Trưởng giả cũng cúng phần cơm  
      của mình với lời nguyện:
 
      
      - Con xin không bao giờ bị đói như thế này.  
      Con sẽ có quyền năng chỉ với một túi tiền độ một ngàn đồng mà bố thí cho  
      tất cả những người ở cõi Diêm-phù-đề, cho bao nhiều tùy ý, túi tiền vẫn  
      đầy. Cha, mẹ, vợ, người giúp việc chính là những người này.
 
      
      Con dâu cũng cúng phần cơm của mình cho Phật  
      với lời nguyện:
 
      
      - Con xin không bao giờ bị nạn đói. Con sẽ  
      có một cái giỏ đựng thóc giống cung cấp cho mọi người không hết. Nơi nào  
      con tái sinh, những người này là cha chồng, mẹ chồng, chồng và người giúp  
      việc.
      
      Người giúp việc  
      Punna cũng cúng phần cơm của  
      mình cho Phật Bích Chi với lời nguyện:
 
      
      - Con sẽ không bao giờ bị đói. Khi con cày  
      đất, ba luống cày bên mặt, ba luống cày bên trái và một đường cày giữa, cả  
      bảy đường cày đều rộng vài sải tay.
 
      
      Mặc dù ông ta có thể ước nguyện làm tổng tư  
      lệnh, nhưng vì tình cảm liên hệ với gia chủ, ông cũng nguyện: "Những người  
      này là ông chủ, bà chủ".
 
      
      Khi mỗi người phát nguyện, Phật Bích Chi đều  
      nói:
      
      - Sẽ được vậy?
 
      
      Và Ngài nói lời cảm tạ bằng những bài kệ  
      theo cung cách một vị Bích Chi Phật, rồi nghĩ thầm: "Bổn phận của Ta là  
      làm thỏa nguyện vọng của những chúng sanh này". Ngài thầm bảo: "Hãy để  
      những người này nhìn theo thấy Ta cho đến tận núi Kiền-đà". Ngài bay lên  
      hư không và họ đứng nhìn theo. Ðến nơi, Ngài chia cơm trong bát cho năm  
      trăm vị Bịch Chi Phật, do thần lực của Ngài cơm đầy đủ cho tất cả. Năm  
      người vẫn đứng và thấy rõ.
 
      
      Lúc ấy trời đã quá trưa, vợ ông Trưởng giả  
      rửa sạch nồi cơm, đậy nắp lại và cất đi. Ông Trưởng giả đói meo, nằm dài  
      ra ngủ. Ðến chiều, ông thức dậy gọi vợ:
 
      
      - Này bà, tôi đói quá, bà xem còn sót miếng  
      cơm cháy nào trong nồi không?
 
      
      Bà nhớ kỹ rằng mình đã rửa sạch nồi cất đi,  
      chắc chắn không còn một hột cơm cháy nào, nhưng thay vì nói: "Không còn gì  
      hết", bà vẫn nói:
 
      
      - Tôi sẽ xem thử coi.
 
      
      Bà đi đến nơi cất nồi, giở nắp ra, và ngay  
      lúc đó, nồi cơm đầy nhóc, thơm ngào ngạt, hơn thế nữa, cơm tràn tận miệng  
      nồi đội cả nắp lên.
 
      
      Chứng kiến việc lạ lùng này, toàn thân bà  
      rung động vui mừng, bà gọi chồng:
 
      
      - Này, ông dậy đi, tôi đã rửa sạch nồi cất  
      đi, mà bây giờ cơm lại đầy nồi, thơm nghi ngút. Ðây là quả phước của việc  
      thiện, quả phước của việc cúng dường. Dậy mà ăn, ông ạ.
 
      
      Bà đem cơm cho chồng và con trai. Khi họ ăn  
      xong, bà cùng ăn với con dâu, và sau đó cho người giúp việc  
      Punna. Dù bới bao nhiêu, nồi  
      cơm cũng không giảm, cứ xúc ra một vá thì vá cơm khác hiện ra. Vào ngày  
      ấy, tất cả vửa lúa kho lẫm trong nhà ông đều đầy thóc. Ông Trưởng Giả rao  
      khắp thành phố: "Lúa thóc hiện đầy đủ trong nhà ông Trưởng giả, tất cả  
      những ai muốn dùng cứ đến lấy".
 
      
      Mọi người đổ xô đến lấy lúa, và tất cả dân  
      chúng cõi Diêm-phù đều được lúa thóc.
 
      
      Ông Trưởng giả sau khi chết, tái sanh vào  
      cõi trời, cõi người, vào thời Phật hiện tại, sanh trong gia đình giàu có ở 
      Bhaddiya. Vợ ông khi xưa  
      cũng là vợ hiện tại, cả con trai, con dâu, người giúp việc  
      Punna. Do phước báo kể trên,  
      những con cừu vàng lại hiện ra trong sân nhà ông.
 
      
      10E. Trưởng Giả  
      Ram Và Gia Quyến Thực Hiện  
      Phép Màu
 
      
      Một ngày nọ, Trưởng giả  
      Ram muốn thử lại quyền lực của  
      mình. Ông cho quét sạch một ngàn hai trăm năm mươi kho lúa, gội đầu, và  
      ngồi ở cửa mỗi kho nhìn vào, lập tức các kho lẫm đều đầy lúa. Ông bảo vợ,  
      con dâu và người giúp việc hãy thử quyền lực của mình.
 
      
      Bà vợ trang điểm lộng lẫy, ngồi ở cổng nhà,  
      cầm một muỗng vàng rao lên:
 
      
      - Ai cần cơm cứ đến.
 
      
      Bà sớt đầy cơm vào những bình và chậu đưa  
      đến, tất cả ai đến xin đều được cho. Suốt ngày giỏ cơm của bà không vơi.
 
      
      (Vào thời chư Phật quá khứ, cũng trong dịp  
      này, bà dâng cơm cho chúng Tăng, với tay mặt cầm muỗng, tay trái xách giỏ  
      cơm. Vì thế, nơi lòng bàn tay trái của bà có dấu hoa sen, lòng bàn tay mặt  
      có dấu mặt trăng tròn. Khi bà dâng nước cho chư Tăng, đi tới, đi lui, thì  
      dấu hoa sen và dấu mặt trăng lại hiện ở bàn chân. Vì thế bà có tên là  
      Candapadumà (Liên Nguyệt).
 
      
      Người con trai mang túi tiền chừng một ngàn  
      đồng vàng, bố thí cho tất cả mọi người, và bao giờ trong túi cũng còn đủ  
      một ngàn đồng vàng. Con dâu cũng trang điểm lộng lẫy, cung cấp thóc giống  
      cho tất cả mọi người, túi thóc vẫn không vơi.
 
      
      Người giúp việc cũng trang điểm hết mình,  
      bắt ách vàng, cày vàng lên mình con bò, choàng dây vàng lên mình nó và dẫn  
      ra ruộng. Mỗi nhát cày là bảy đường cày, ba đường bên trái, và một đường  
      cày ở giữa.
 
      
      Như thế, tất cả dân chúng trên cõi Diêm-phù  
      đều nhân thức ăn, thóc giống, vàng bạc thỏa thích từ nhà Trưởng giả.
 
      
      Kết  
      Thúc Của Truyện:
 
      
      10F. Trưởng Giả  
      Ram  Ðến Gặp Phật
 
      
      Khi Trưởng giả đầy quyền lực nghe tin đức  
      Bổn sư đến thành, ông đi đến thăm Phật. Trên đường đi ông gặp một nhóm  
      ngoại đạo ngăn cản:
 
      
      - Này Trưởng giả, ông đi đâu? Ông tin có  
      Thần Ngã mà lại đến thăm Cồ-đàm, người không tin điều này.
 
      
      Mặc dù họ cố gắng thuyết phục, ông vẫn không  
      màng đến lời họ. Ông đi đến chỗ Phật, đảnh lễ và kính cẩn ngồi một bên.  
      Phật thuyết pháp, nghe xong ông chứng quả Dự lưu. Ông thuật lại lời chống  
      đối, phỉ báng của ngoại đạo cho Phật nghe. Phật dạy:
 
      
      - Này Trưởng giả, những người ấy không thấy  
      lỗi của mình dù là lỗi lớn, còn người khác không lỗi, họ cũng cố gắng kẻ  
      vạch, như quạt thóc tìm trấu.
 
      
      Ngài nói Pháp Cú:
 
      
      
      (252)  
      Dễ thay thấy lỗi người,
 
      Lỗi mình thấy mới khó,
 
      Lỗi người ta phanh tìm,
 
      Như sàng trấu trong gạo,
 
      Còn lỗi mình che đậy,
 
      Như kẻ gian giấu bài.
 
      
       
      
      11. Tỳ Kheo  
      Bới Lỗi
 
      
      Ai  
      thấy lỗi của người ...
 
      
      Câu chuyện xảy ra khi đức Phật ở tại Kỳ  
      Viên, liên quan đến Tôn giả tên là Người Tìm Lỗi,  
      Ujjhànasannì.
      
      Tôn giả này thường dòm dỏ lỗi của các  
      Tỳ-kheo, thầy nói:
 
      
      - Thầy này đắp thượng y thế này, thầy kia  
      đắp hạ y như thế kia.
 
      
      Các Tỳ-kheo đến bạch Phật:
 
      
      - Bạch Thế Tôn, Tôn giả ấy cứ như thế, như  
      thế.
      
      Phật dạy:
 
      
      - Này các Tỳ-kheo, người nào làm tròn bổn  
      phận của mình và khuyên người khác như thế, người đó không thấy lỗi ai.  
      Người nào có ý nhìn lỗi người, tìm lỗi người, và đi rêu rao lỗi người,  
      hạng người này không bao giờ đạt được chút xíu giác ngộ, chỉ có sự ô nhiễm  
      tăng trưởng trong họ.
 
      
      Ngài dạy Pháp Cú:
 
      
      
      (253)  
      Ai thấy lỗi của người,
 
      Thường sanh lòng chỉ trích,
 
      Người ấy lậu hoặc tăng,
 
      Rất xa lậu hoặc diệt.
 
      
       
      
      12. Hư Không  
      Có Dấu Chân?
 
      
      Hư  
      không, không dấu chân ...
 
      
      Câu chuyện xảy ra, liên quan đến du sĩ  
      Tu-bạt-đà-la (Subhadda).  
      Khi đức Thế Tôn sắp nhập diệt, trong rừng Sa-la trong thành Câu-thi.  
      Chuyện kể rằng khi trước con của Tu-bạt đã cúng dường chín lần những phẩm  
      vật đầu mùa gặt cho đức Phật, còn Tu-bạt thì không ưng và từ chối, cuối  
      cùng mới chịu cúng. Vì thế ông không gặp Thế Tôn lúc Ngài vừa thành đạo và  
      giảng đạo. Ðến lúc cuối, Ngài gần nhập diệt, ông mới tự nghĩ: "Ta có ba  
      điều nghi. Và đã hỏi các Trưởng lão để giải nghi. Lúc ấy Sa-môn Cồ-đàm còn  
      trẻ nên ta không đến hỏi. Bây giờ thời gian Niết-bàn sắp đến, nếu ta không  
      hỏi, sau sẽ ân hận".
 
      
      Ông đi đến chỗ Phật. Tôn giả A-nan ngăn ông  
      lại, nhưng Phật đã bảo:
 
      
      - A-nan, chớ ngăn Tu-bạt-đà-la, hãy để ông  
      vào thưa hỏi.
 
      
      Tu-bạt vào, ngồi ở chân giường và hỏi Phật:
 
      
      - Bạch Ngài, có con đường nào trên không  
      trung? Có người nào được gọi Sa-môn khi ở ngoài chánh đạo? Pháp hữu vi có  
      trường tồn?
 
      
      Phật dạy ông những việc ấy không thể có,  
      Ngài giảng bằng bài kệ:
 
      
      
      (254)  
      Hư không, không dấu chân,
 
      Ngoài chánh đạo, không Sa-môn.
 
      Chúng sanh thích hý luận,
 
      Như lai, hý luận trừ.
 
      
      
      (255)  
      Hư không, không dấu chân,
 
      Ngoài đây, không Sa-môn.
 
      Các hành không thường trú,
 
      Chư Phật không giao động.