Tích  
      truyện Pháp Cú
 
      Thiền  
      viện Viên Chiếu
 
      
      Nguyên tác: "Buddhist Legends",
 
      Eugène Watson Burlingame
 
      
      --- o0o ---
                 
      
      
      
      XV. Phẩm  
      Hạnh Phúc
 
      
      1. Mối Tranh  
      Chấp Giữa Hai Lân Bang
 
      
      Vui  
      thay, chúng ta sống ...
 
      
      Câu chuyện này được kể lại khi đức Thế Tôn  
      đang ngự gần thân tộc Thích-ca, liên quan đến việc chấm dứt sự tranh chấp  
      giữa các bộ tộc lân bang.
 
      
      Dân cư trong thành Ca-tỳ-la-vệ và dân cư  
      thành Câu-lợi (Koliya) có  
      chung một con sông. Sông Rohinì  
      bắt nguồn từ một đập nước giữa hai thành phố, và cung cấp nước cho hai  
      cánh đồng của cả hai bên. Vào tháng  
      Jetthamùla, lúa bắt đầu chín, nông dân hai bên họp lại, dân  
      thành Câu-lợi nói:
 
      
      - Nếu nước sông chia đôi cho hai bên sẽ  
      không đủ, lúa chúng tôi cần nước để chín. Hãy nhường nước cho chúng tôi.
 
      
      Phía Thích-ca trả lời:
 
      
      - Sau khi các anh đã thâu hoạch đầy bồ,  
      chúng tôi chỉ còn nước chết đói và xách túi đi xin ăn các anh. Lúa của  
      chúng tôi cũng cần nước để chín. Bây giờ hãy để chúng tôi lấy nước.
 
      
      - Không, chúng tôi không để các anh lấy  
      nước.
      
      - Hừm! Chúng tôi không bao giờ nhường nước  
      cho các anh.
 
      
      Cuộc bàn cãi trở nên gay cấn, đến lúc bên  
      này đấm bên kia một đấm, bên kia đấm trả lại và do đó có hận thù. Cuộc  
      tranh cãi gay cấn hơn khi đôi bên bắt đầu nói xấu về cội nguồn của nhau.
 
      
      Nông dân thành Câu-lợi nói:
 
      
      - Hỡi dân thành Ca-tỳ-la-vệ, hãy cõng vợ  
      bồng con đi nơi khác. Chúng ta không muốn sử dụng voi, ngựa, khí giới với  
      lũ các người đê tiện như lang sói, cưới chị làm vợ.
 
      
      Dân chủng tộc Thích-ca gào lên:
 
      
      - Ðồ cùi, hãy mang vợ con đi khuất mắt. Các  
      người tưởng rằng chúng ta thích đem khí giới, voi ngựa để đánh lại lũ  
      ngươi, chỉ sống dưới cây táo như súc vật?
 
      
      Ðán nông dân hai bên trình bày câu chuyện  
      lên quan Tổng Trấn của họ, và các quan Tổng Trấn tâu lên vua của họ. Dòng  
      Thích-ca chuẩn bị khí giới và la lên:
 
      
      - Chúng ta sẽ chứng tỏ sức mạnh của những kẻ  
      kết hôn với chị em bà con.
 
      
      Dòng Câu-lợi cũng sửa soạn chiến tranh và  
      đáp trả:
 
      
      - Chúng ta sẽ chứng tỏ thế nào là sức mạnh  
      của kẻ sống dưới cây táo.
 
      
      Khi đức Thế Tôn quan sát thế gian vào mỗi  
      sáng sớm, Ngài thấy sự kiện trên và nghĩ thầm: "Nếu Ta không đến giảng  
      hòa, họ sẽ giết hại lẫn nhau mất". Ngài bay lên hư không, ngay trên chỗ tụ  
      họp của hoàng gia Thích-ca, và ngồi kiết già trên khoảng không của sông  
      Rohinì . Hoàng tộc Thích-ca  
      thấy Ngài, họ ném khí giới và đảnh lễ Phật. Thế Tôn hỏi:
 
      
      - Ðại vương! Gây hấn vì chuyện gì thế?
 
      
      - Bạch Thế Tôn, con không biết.
 
      
      - Vậy thì ai biết?
 
      
      - Có lẽ thống tướng quân binh biết.
 
      
      Ông thống tướng trả lời:
 
      
      - Có lẽ phó vương biết.
 
      
      Cứ thế, Phật hỏi tuần tự, đến đám nông dân,  
      và họ trả lời:
 
      
      - Bạch Thế Tôn, cuộc chiến tranh này là vì  
      con sông.
 
      
      Ðức Phật hỏi nhà vua dòng Thích-ca:
 
      
      - Ðại vương! Giá trị của một chút nước ruộng  
      là ra sao?
 
      
      - Bạch Thế Tôn! Chẳng đáng gì.
 
      
      - Giá trị của các chiến sĩ dòng Sát-lợi như  
      thế nào?
 
      
      - Dòng Sát-lợi vô giá, bạch Thế Tôn!
 
      
      - Không có gì vô lý bằng chỉ vì chút nước mà  
      các ông tiêu diệt dòng Sát-lợi như thế.
 
      
      Họ im lặng. Ðức Phật khuyên dạy:
 
      
      - Chư đại vương! Vì sao chư đại vương hành  
      động như thế? Nếu Ta không đến đây hôm nay, các ông sẽ cho máu chảy thành  
      sông. Các ông hành động thật sai lầm. Các ông sống trong hận thù, nuôi  
      dưỡng sân giận. Ta đã thoát khỏi sân hận. Các ông sống trong sự hèn yếu  
      của dục vọng. Ta đã thoát khỏi dục vọng. Các ông say mê theo đuổi ngũ dục.  
      Ta đã thoát ngoài ngũ dục.
 
      
      Phật nói kệ:
 
      
      
      (197)  
      Vui thay, chúng ta sống,
 
      Không hận, giữa hận thù.
 
      Giữa những người thù hận,
 
      Ta sống không hận thù.
 
      
      
      (198)  
      Vui thay, chúng ta sống,
 
      Không bệnh giữa ốm đau,
 
      Giữa những người bệnh hoạn,
 
      Ta sống không ốm đau.
 
      
      
      (199)  
      Vui thay chúng ta sống,
 
      Không rộn giữa rộn ràng.
 
      Giữa những người rộn ràng,
 
      Ta sống không rộn ràng.
 
      
       
      
      2. Ma Vương  
      Chế Ngự Thôn Dân
 
      
      Vui  
      thay, chúng ta sống...
 
      
      Câu chuyện này được kể lại khi đức Thế Tôn ở  
      tại ngôi làng Bà-la-môn Pancasala,  
      liên hệ đến Ma vương.
 
      
      Một hôm, đức Phật quan sát căn cơ dân làng  
      Ba-la-môn nọ và nhận thấy có năm trăm cô gái trong làng có khả năng chứng  
      quả Tu-đà-hoàn, Ngài bèn đi đến gần làng ấy. Bấy giờ vào ngày lễ, các thôn  
      nữ đi đến gần bờ sông tắm, tắm xong các cô trang sức nhiều vòng tay vòng  
      chân, đi về làng. Ngay lúc đó, đức Thế Tôn đi vào làng khất thực, Ma vương  
      khống chế toàn bộ dân làng khiến không ai cúng dường Thế Tôn dù chỉ một  
      muỗng nhỏ, Phật ra khỏi làng với cái bát rỗng. Ma vương đứng ở cổng làng  
      hỏi:
      
      - Sa-môn, ông không nhận được gì ư?
 
      
      - Này hiện thân của xấu ác! Vì sao ông sắp  
      đặt để Ta không khất thực được gì?
 
      
      - Tốt lắm! Sa-môn hãy trở vào làng.
 
      
      Khi nói như thế, Ma vương thầm nghĩ: "Nếu  
      Cồ-đàm trở vào trong làng, ta sẽ dùng quyền lực khiến dân chúng vỗ tay,  
      cười vào mặt ông ấy, và làm mọi trò chế giễu".
 
      
      Khi đó các cô gái về đến cổng thấy đức Phật,  
      họ dùng lại đảnh lễ và đứng qua một bên. Ma vương nói với đức Phật:
 
      
      - Bạch Thế Tôn, Ngài không xin được chút  
      thức ăn nào, chắc là đói bụng lắm.
 
      
      - Này Ma vương, dù cho ngày hôm nay Ta bị  
      quấy rầy, Ta vẫn an lạc như ở cõi trời Quang Âm.
 
      
      Ngài nói kệ:
 
      
      
      (200)  
      Vui thay, chúng ta sống,
 
      Không gì, gọi của ta.
 
      Ta sẽ hưởng hỷ lạc,
 
      Như chư thiên Quang Âm.
 
      
       
      
      3. Vua  
      Ba-Tư-Nặc Bại Trận
 
      
      Chiến  
      thắng sinh thù oán...
 
      
      Câu chuyện này được kể lại khi đức Thế Tôn ở  
      tại Kỳ Viên, liên quan đến vua Ba-tư-nặc nước  
      Kosala.
      
      Chuyện kể rằng, vua Ba-tư-nặc đánh nhau với  
      A-xà-thế, gần làng Kasika  
      và ba lần bại trận. Trở về sau lần thất bại thứ ba, nhà vua nghĩ thầm:  
      "Nếu không thắng được tên miệng còn hôi sữa ấy, ta sống làm gì?". Nhà vua  
      bỏ ăn nằm dài trên long sàng. Tin tức bay đi khắp thành và đến tinh xá.
 
      
      Các Tỳ-kheo thuật lại chuyện cho đức Thế Tôn  
      nghe:
      
      - Bạch Thế Tôn, nhà vua sau ba lần chiến bại  
      ở gần làng Kasika, đã trở  
      về bỏ ăn, nằm dã dượi trên giường, nói: "Nếu ta không thắng được tên vua  
      trẻ tuổi kia, ta sống làm gì?".
 
      
      Sau khi nghe kể, Phật dạy:
 
      
      - Này các Tỳ-kheo, kẻ thắng bị oán ghét,  
      người thua phải buồn rầu.
 
      
      Ngài nói kệ:
 
      
      
      (201)  
      Chiến thắng sinh thù oán,
 
      Thất bại chịu khổ đau.
 
      Sống tịch tịnh an lạc,
 
      Bỏ sau mọi thắng bại.
 
      
       
      
      4. Ðừng Nhìn  
      Say Ðắm Nữ Nhân
 
      
      Lửa  
      nào sánh lửa tham ...
 
      
      Câu chuyện này được kể lại khi đức Thế Tôn ở  
      tại Kỳ Viên, liên quan đến một cô gái dòng quý tộc.
 
      
      Chuyện kể rằng, vào ngày hôn lễ của con gái,  
      cha mẹ cô mời đức Thế Tôn đến nhà cúng dường. Ðức Phật cùng chúng Tỳ-kheo  
      đến nhà cô thọ trai, cô dâu lăng xăng tới lui để tiếp đãi chúng Tăng. Khi  
      đó, chú rể đứng nhìn cô chăm chăm và lòng khởi lên tham dục. Chú không  
      thấy đức Phật, cả đến tám mươi vị Trưởng lão, chỉ nghĩ đến một điều duy  
      nhất: "Ta muốn ôm choàng lấy nàng".
 
      
      Ðức Phật biết được ý nghĩ của chàng, và Ngài  
      làm cho chú rể không thấy cô dâu nữa, mà quay sang chiêm ngưỡng Thế Tôn.  
      Khi chàng trai đứng đấy, nhìn Phật chăm chăm, Ngài nói với chàng trai:
 
      
      - Này con, không lửa nào bằng lửa tham dục,  
      không ác nào bằng lòng sân hận, không khổ nào bằng khổ uẩn, không vui nào  
      bằng vui Niết-bàn.
 
      
      Ngài nói kệ:
 
      
      
      (202)  
      Lửa nào sánh lửa tham?
 
      Ác nào bằng sân hận?
 
      Khổ nào sánh khổ uẩn?
 
      Lạc nào bằng tịnh lạc?
 
      
      Nghe xong, đôi vợ chồng trẻ chứng quả  
      Tu-đà-hoàn. Vào lúc đó, Phật cho phép họ lại nhìn thấy nhau.
 
      
       
      
      5. Phật Ban  
      Thức Ăn Cho Người Ðói
 
      
      Ðói  
      ăn, bệnh tối thượng ...
 
      
      Câu chuyện này được kể lại khi đức Thế Tôn ở  
      tại Alavi, liên quan đến  
      một nam cư sĩ.
 
      
      Ngày nọ, đức Thế Tôn ngồi trong hương thất ở  
      Kỳ Viên, Ngài quan sát căn cơ chúng sanh, và nhận thấy một nông dân nghèo  
      ở Alavi có duyên đắc quả  
      Tu-đà-hoàn. Ngài bèn đi cùng với năm trăm Tỳ-kheo đến  
      Alavi. Dân cư tại đây liền mời  
      Phật thọ trai. Người nghèo nọ cũng nghe tin Phật đã đến  
      Alavi, và định đi nghe thuyết  
      pháp. Nhưng hôm đó, con bò của ông đi lạc, ông suy tính: "Ta sẽ đi tìm bò  
      hay đi nghe pháp?" Cuối cùng ông quyết định: "Ta sẽ đi tìm bò trước, rồi  
      đi nghe pháp sau". Do đó, sáng sớm ông bương bả đi tìm bò.
 
      
      Cư dân của  
      Alavi sắp đặt cúng dường đức  
      Phật và chư Tăng. Sau khi Phật thọ trai xong, họ dọn cất bình bát và đợi  
      nghe Pháp. Thế Tôn nghĩ thầm: "Ta đi ba mươi dặm đường chỉ vì một chúng  
      sanh có căn cơ chứng quả, kẻ ấy đang lang thang trong rừng tìm con bò. Khi  
      nào người đó trở lại, Ta sẽ nói pháp". Và Ngài ngồi làm thinh.
 
      
      Ðến trưa, người nông dân kia tìm được con bò  
      và đánh nó về chuồng. Ông nghĩ: "Dù chưa ăn uống gì, ít ra ta cũng đi đảnh  
      lễ Phật". Ngay khi đó, dù đang đói meo, ông ta cũng quyết định không về  
      nhà mà vội vã đi đến chỗ Phật, cung kính đảnh lễ và ngồi một bên. Phật bèn  
      hỏi người coi về thức ăn:
 
      
      - Thức ăn của chư Tăng còn thừa chăng?
 
      
      - Bạch Thế Tôn, vẫn còn.
 
      
      - Tốt lắm! Hãy cho người nghèo này một phần  
      ăn.
      
      Và người ta dọn chỗ cho người kia theo sự  
      chỉ dẫn của Phật, cung cấp đầy đủ các loại thức ăn cứng, mềm. Người nông  
      dân ăn xong, súc miệng.
 
      
      (Ðây là trường hợp ngoại lệ duy nhất, trong  
      ba tạng không hề ghi lại việc Thế Tôn để tâm đến việc phân phối thức ăn).  
      Sau khi anh nông dân đã no lòng, tâm tư anh trở nên an tĩnh. Ðức Phật  
      giảng dạy Tứ đế theo thứ tự Khổ-Tập-Diệt-Ðạo. Cuối bài pháp, anh nông dân  
      chứng quả Tu-đà-hoàn. Ðức Thế Tôn hồi hướng công đức và trở về tinh xa,  
      thính chúng theo sau Ngài một đoạn đường rồi ai về nhà nấy.
 
      
      Các Tỳ-kheo tùy tùng đức Phật hôm ấy bất mãn  
      tột độ, xì xào:
 
      
      - Huynh đệ nghĩ xem, Thế Tôn đã làm như thế.  
      Một chuyện không hề xảy ra từ xưa đến nay. Vậy mà trưa nay khi thấy một  
      người nghèo đói, Ngài đã hỏi thức ăn và dạy đem cho anh ta.
 
      
      Ðức Phật dừng bước, quay lại hỏi:
 
      
      - Các Tỳ-kheo, các ông bàn tán việc gì?
 
      
      Sau khi nghe thuật lại, Ngài nói:
 
      
      - Ðúng thế! Này các Tỳ-kheo, Ta đến đây qua  
      một đoạn đường dài ba mươi dặm đầy nhọc nhằn, chỉ với mục đích duy nhất,  
      vì Ta thấy rõ người nông dân kia có khả năng chứng quả Tu-đà-hoàn. Từ sáng  
      sớm, ông ta vào rừng tất tả tìm con bò, lòng không bụng đói. Ta nghĩ nếu  
      Ta nói pháp cho người này nghe trong khi y khổ sở vì đói, y sẽ không hiểu  
      gì cả. Vì thế Ta phải làm như thế. Này các Tỳ-kheo, không gì khổ sở cho  
      bằng đói.
 
      
      Ngài nói kệ:
 
      
      
      (203)  
      Ðói ăn, bệnh tối thượng,
 
      Các hành ,khổ tối thượng,
 
      Hiểu như thực là vậy,
 
      Niết-bàn, lạc tối thượng.
 
      
       
      
      6. Ăn Uống  
      Tiết Ðộ
 
      
      Không  
      bệnh, lợi tối thượng ...
 
      
      Câu chuyện này được kể lại khi đức Phật ở Kỳ  
      Viên, liên quan đến vua Ba-tư-nặc.
 
      
      Có một lúc, vua Ba-tư-nặc có thói quen ăn  
      uống vô độ, ăn nhiều cơm, canh, cà-ri. Ngày kia sau khi dùng điểm tâm, nhà  
      vua không cưỡng nổi cơn ngầy ngật vì quá no, bèn đi đến chỗ đức Phật và  
      loanh quanh bên Ngài với vẻ mặt đau khổ. Nhà vua chỉ muốn nằm ngủ, nhưng  
      không dám, khi hiện diện bên Phật. Cuối cùng vua đến ngồi một bên Thế Tôn.  
      Phật hỏi:
 
      
      - Ðại vương, đến đây mà chưa ngủ nghỉ ư?
 
      
      - Bạch Thế Tôn, không phải như vậy, nhưng  
      con luôn luôn khổ sở sau khi ăn xong.
 
      
      - Này Ðại vương! Ăn uống quá độ thường mang  
      lại sự khổ nhọc.
 
      
      Ngài nói kệ:
 
      
      
      Người ưa ngủ, ăn lớn,
 
      Nằm lăn lóc qua lại,
 
      Chẳng khác heo no bụng,
 
      Kẻ ngu nhập thai mãi.
 
      
      Sau khi nói kệ khuyên vua, Phật dạy tiếp:
 
      
      - Ðại vương, cần phải giữ tiết độ khi ăn  
      uống, đó là điều tốt.
 
      
      Ngài nói kệ tiếp:
 
      
      
      Người lo chừng mực uống  
      ăn,
      Khổ đau giảm bớt, thêm tăng tuổi trời.
 
      
      Nhà vua không tài nào nhớ hết câu kệ (Vì rất  
      buồn ngủ). Nên đức Phật nói với hoàng tử  
      Sudassana (Tu-đà-na), vừa là  
      cháu ruột vừa theo hầu cận nhà vua:
 
      
      - Hãy ghi nhớ câu kệ này.
 
      
      - Bạch Thế Tôn, sau khi học thuộc câu kệ,  
      con sẽ làm gì?
 
      
      - Khi nhà vua dùng cơm, ngay khi xới chén  
      cơm cuối cùng con hãy đọc bài kệ. Nhà vua sẽ hiểu ý và lập tức buông chén.  
      Hôm sau, khi nấu cơm cho nhà vua, con hãy bớt đi số gạo tương đương chén  
      cơm cuối cùng đó.
 
      
      - Thưa vâng! Bạch Thế Tôn!
 
      
      Và mỗi buổi sáng chiều khi vua Ba-tư-nặc  
      dùng cơm, hoàng tử làm như lời Phật dạy. Và mỗi khi nghe bài kệ trên, nhà  
      vua bố thí cả ngàn đồng. Nhà vua tự hài lòng với lượng cơm giới hạn mỗi  
      ngày. Sau một thời gian nhà vua trở nên thon ốm và rất vui tươi.
 
      
      Một ngày khác, vua đến đảnh lễ Phật và bạch:
 
      
      _ Bạch Thế Tôn, bây giờ con rất sung sướng,  
      con có thể tham dự cuộc săn bắn gấu rừng, ngựa rừng. Con từng giận hờn đứa  
      cháu, nhưng sau đó con đã gả công chúa  
      Vajirà cho nó, con tặng công  
      chúa ngôi làng này để nàng có hồ tắm. Mối giận hờn tan biến và con thấy  
      hạnh phúc. Ngày hôm kia, một viên ngọc quý, tài sản của hoàng cung bị mất,  
      nhưng rồi tìm lại được, vì thế con cảm thấy hạnh phúc. Muốn kết tình thân  
      với đệ tử Phật, con đã có được một công nương trong hoàng tộc của Ngài về  
      sống với hoàng tộc con, và vì thế con cũng hạnh phúc.
 
      
      Phật dạy:
 
      
      - Sức khỏe là hạnh phúc lớn nhất mà mọi  
      người mong muốn. Bằng lòng với những gì hiện có là giàu có nhất. Trung tín  
      là điều tốt nhất khi giao hảo. Nhưng không có hạnh phúc nào có thể so sánh  
      với Niết-bàn.
 
      
      Ngài nói kệ:
 
      
      
      (204)  
      Không bệnh, lợi tối thượng,
 
      Biết đủ, tiền tối thượng.
 
      Thành tín đối với nhau,
 
      Là bà con tối thượng.
 
      Niết-bàn, lạc tối thượng.
 
      
       
      
      7. Sống Chân  
      Chánh Là Tôn Kính Phật
 
      
      Ðã  
      nếm vị độc cư ...
 
      
      Câu chuyện này kể lại khi đức Thế Tôn ở  
      Vệ-xá-ly (Vesali) liên quan  
      đến một thầy Tỳ-kheo.
 
      
      Khi nghe đức Phật tuyên bố:
 
      
      - Này các Tỳ-kheo, bốn tháng nữa ta sẽ vào  
      Niết-bàn.
      
      Bảy trăm thầy Tỳ-kheo tràn đầy lo sợ. Các  
      A-la-hán chứng nghiệm giáo lý vô thường, còn những vị chưa đắc Sơ quả thì  
      không ngăn nổi nước mắt. Các Tỳ-kheo, tụ tập thành từng nhóm nhỏ, và bàn  
      tán, hỏi han:
 
      
      - Chúng ta sẽ làm gì?
 
      
      Lúc bấy giờ, có một thầy Tỳ-kheo tên  
      Tissa nghĩ thầm: "Nếu quả thật  
      bốn tháng nữa Thế Tôn vào Niết-bàn, thì vì ta chưa thoát khỏi tham dục, ta  
      phải đạt được quả A-la-hán trong khi Thế Tôn còn ở tại thế". Lập tức, thầy  
      thúc liễm bốn oai nghi và sống riêng một mình không giao tiếp với các thầy  
      khác và không nói với ai lời nào. Các Tỳ-kheo hỏi han:
 
      
      - Này huynh  
      Tissa, tại sao huynh làm như  
      vậy?
      
      Tuy nhiên,  
      Tissa không lưu tâm đến lời lẽ  
      ấy.
      
      Các Tỳ-kheo lặp lại câu chuyện cho đức Phật  
      nghe:
      
      - Bạch Thế Tôn,  
      Tissa không có lòng tôn kính  
      Ngài.
      
      Ðức Phật gọi thầy  
      Tissa đến và hỏi:
 
      
      - Tissa!  
      Tại sao ông làm như thế?
 
      
      Khi  
      Tissa thuật lại động cơ đã tác động thầy, đức Phật khen ngợi:
 
      
      - Lành thay,  
      Tissa!
      
      Và Ngài bảo các Tỳ-kheo:
 
      
      - Các Tỳ-kheo! Chỉ có người như  
      Tissa mới thật sự tôn kính Ta.  
      Dù cho mọi người tôn kính Ta với hương hoa, cũng không phải thật sự tôn  
      kính.
      
      Nhưng người nào thực hành chân lý tối thượng  
      và giữ đúng luật nghi, người ấy mới thật sự tôn vinh Ta.
 
      
      Ngài nói kệ:
 
      
      
      (205)  
      Ðã nếm vị độc cư,
 
      Ðược hưởng vị nhàn tịnh,
 
      Không sợ hãi, không ác,
 
      Nếm được vị pháp hỷ.
 
      
       
      
      8. Ðế Thích  
      Săn Sóc Thế Tôn
 
      
      Lành  
      thay thấy thánh nhân ...
 
      
      Câu chuyện này được kể lại khi đức Phật ở  
      tại làng Beluva, liên quan  
      đến trời Ðế Thích.
 
      
      Vào những ngày cuối đời, đức Phật bị bệnh  
      kiết lỵ, nên rất đau đớn, trời Ðế-thích lo lắng nghĩ thầm: "Ta phải đi đến  
      chỗ đức Phật và săn sóc Ngài trong cơn đau ốm". Lập tức, trời Ðế-thích rời  
      bỏ thân hình cao lớn đi đến chỗ Phật, đảnh lễ và dùng hai tay xoa bóp chân  
      Phật, Phật hỏi:  - Ai đấy?
 
      
      - Bạch Thế Tôn, con Ðế Thích.
 
      
      - Vì sao ông đến đây?
 
      
      - Con săn sóc Thế Tôn trong cơn đau.
 
      
      - Này Ðế Thích! Ðối với chư thiên, mùi của  
      phàm nhân hôi hám khó ngửi, dù cách xa một trăm dặm. Ông hãy rời khỏi nơi  
      đây vì Ta đã có các Tỳ-kheo săn sóc.
 
      
      - Bạch Thế Tôn, con nghe được hương thơm đức  
      hạnh của Ngài lan xa từ tám muôn bốn ngàn dặm. Con đến đây chỉ là muốn  
      được săn sóc Ngài trong cơn đau.
 
      
      Ðế Thích không cho ai mó tay đến thùng phân  
      của đức Phật, chính tự mình đội nó lên đầu, và không chút tỏ vẻ nhờm gớm,  
      như thể vua trời đang đội một bình đầy hương thơm. Cứ như vậy Ðế Thích săn  
      sóc Thế Tôn, và chỉ rời khỏi chỗ khi Phật đã bớt đau.
 
      
      Các thầy Tỳ-kheo bàn tán:
 
      
      - Ôi! Thật lớn lao làm sao là lòng tôn kính  
      của Ðế Thích đối với Thế Tôn! Thử nghĩ Ðế Thích đã rời cung trời lộng lẫy,  
      để đến săn sóc Thế Tôn trong cơn đau như thế! Thử nghĩ, ông ấy đã đội  
      thùng phân của Thế Tôn trên đầu như là đội bình hương, không tỏ vẻ nhờm  
      gớm dù chỉ một nét nhích môi!.
 
      
      Nghe thế Phật dạy:
 
      
      - Các ông nói gì? Không có gì lạ khi Ðế  
      Thích, vua chư thiên đã tận tâm chăm sóc Ta. Bởi vì nhờ Ta, trời Ðế Thích  
      này đã cởi bỏ lốt thân Ðế Thích già nua, chứng được quả Tu-đà-hoàn và nhận  
      một thân Ðế Thích mới, trẻ trung. Ở thân trước, ông ấy đến viếng Ta với sự  
      sợ hãi vì mình sắp chết, được dự báo bởi nhạc thần Càn-thát-bà. Khi ấy Ta  
      ngồi trong động Indasala  
      giữa chư thiên, Ta trấn an ông ta bằng bài kệ:
 
      
      
      Hãy hỏi, Vasava
 
      Muốn gì cứ nói ra
 
      Ta sẵn sàng giải đáp
 
      
      Những gì ngươi hỏi ta.  Sau đó, Ta thuyết  
      pháp cho Ðế Thích nghe. Cuối cùng, có một trăm bốn mươi triệu thiên thần  
      được Pháp nhãn. Ðế Thích chứng quả Tu-đà-hoàn ngay sau đó và đổi thân làm  
      Ðế Thích hiện nay. Vì Ta đã cứu độ ông ấy nên không có gì lạ khi ông ấy  
      bày tỏ lòng tôn kính Ta. Này các Tỳ-kheo! Thật là hạnh phúc khi được sống  
      gần gũi và chăm nom chư Phật, còn sống với người ngu chỉ đem lại đau khổ.
 
      
      Phật nói kệ:
 
      
      
      (206)  
      Lành thay, thấy thánh nhân,
 
      Sống chung thường an lạc,
 
      Không thấy những người ngu,
 
      Thường thường được an lạc.
 
      
      
      (207)  
      Sống chung với người ngu,
 
      Lâu dài bị lo buồn,
 
      Khổ thay gần người ngu,
 
      Như thường sống kẻ thù.
 
      Vui thay, gần người trí
 
      Như chung sống bà con.
 
      
      
      Do  
      vậy:
      
      
      (208)  
      Bậc hiền sĩ, trí tuệ,
 
      Bậc nghe nhiều, trì giới,
 
      Bậc tự chế, thánh nhân,
 
      Hãy gần gũi thân cận,
 
      Thiện nhân, trí giả ấy,
 
      Như trăng theo đường sao.