Tích  
      truyện Pháp Cú
 
      Thiền  
      viện Viên Chiếu
 
      
      Nguyên tác: "Buddhist Legends",
 
      Eugène Watson Burlingame
 
      
      --- o0o ---
                 
      
      
      
      III. Phẩm  
      Tâm
      
      1. Trưởng  
      Lão Meghiya
 
      
      Tâm  
      hoảng hốt giao động ...
 
      
      Thế Tôn dạy giáo lý này khi ngụ trên núi  
      Càlikà liên quan đến Tôn giả 
      Meghiya.
      
      Trưởng lão  
      Meghiya bị tam độc tham sân si  
      quấy nhiễu không thể hành thiền tinh tấn trong khu rừng xoài, nên trở về  
      chỗ Thế Tôn.
 
      
      Thế Tôn dạy ông:
 
      
      -  
      Meghiya, ông đã phạm một lỗi lớn. Ta đã bảo rằng Ta chỉ một  
      mình, ông nên ở lại đợi đến khi có Tỳ-kheo khác đến hãy đi. Nhưng ông  
      không đếm xỉa đến lời Ta, cứ làm theo ý mình. Một Tỳ-kheo không bao giờ  
      nên bỏ Ta mà đi khi Ta yêu cầu ở lại. Một Tỳ-kheo không bao giờ nên để tâm  
      ý dẫn dắt như thế. Khi tâm ý giao động, ta phải luôn luôn biết chế ngự.
 
      
      Và Thế Tôn nói hai câu Pháp Cú sau:
 
      
      
      (33)  
      Tâm hoảng hốt giao động,
 
      Khó bộ trì, khó nhiếp,
 
      Người trí làm tâm thẳng,
 
      Như thợ tên, làm tên.
 
      
      
      (34)  
      Như cá quăng lên bờ,
 
      Vất ra ngoài thủy giới,
 
      Tâm này vùng vẫy mạnh,
 
      Hãy đoạn thế lực ma.
 
      
      Ngay khi Thế Tôn dứt câu, Trưởng lão  
      Meghiya chứng quả Dự lưu và  
      nhiều người khác chứng Nhị quả và Tam quả.
 
      
       
      
      2. Người Ðọc  
      Ðược Tâm
 
      
      Khó  
      nắm giữ, khinh động ...
 
      
      Ðức Phật dạy câu này khi ở Xá-vệ, liên quan  
      đến một Tỳ-kheo.
 
      
      Trong xứ của vua Ba-tư-nặc, dưới chân một  
      ngọn núi, có một làng an cư lạc nghiệp tên  
      Màtika. Sau khi nhận đề tài  
      thiền quán từ Phật, một hôm sáu mươi Tỳ-kheo đến làng khất thực. Mẹ của  
      thôn trưởng Màtika trông  
      thấy liền mời các Tỳ-kheo ngồi, dâng cúng cháo đặc nấu thật ngon với gia  
      vị chọn lọc, và hỏi thăm. Biết các Tỳ-kheo tìm một chỗ thích hợp để an cư  
      trong mùa mưa, bà gieo mình xuống chân họ thưa thỉnh:
 
      
      - Xin chư Tỳ-kheo ở đây an cư trong ba tháng  
      hạ, tôi sẽ tuân giữ Tam quy và Ngũ giới, và sẽ làm tròn bổn phận ngày  
      chay.
      
      Các Tỳ-kheo chấp nhận. Với sự giúp đỡ của bà  
      họ sẽ khỏi lo lắng về ăn uống, và có thể tu chứng giải thoát sanh tử.
 
      
      Mẹ của  
      Màtika xây cất tinh xá xong, rước các Tỳ-kheo đến ở. Họ nhắc  
      nhở lẫn nhau:
 
      
      - Chư huynh đệ! Chúng ta không nên sống  
      phóng dật, vì trước mặt chúng ta là tám cửa địa ngục sừng sững luôn rộng  
      mở như cửa nhà chúng ta. Chúng ta đã nhận đề tài thiền quán từ Thế Tôn và  
      đã đến đây. Ân huệ của chư Phật không thể đến với người dối trá, dù hắn có  
      bước theo dấu chân của các Ngài. Chỉ khi nào hành theo ý chư Phật dạy mới  
      được ân huệ của các Ngài. Vì vậy chúng ta phải chú tâm tỉnh giác. Hai  
      Tỳ-kheo không được đứng hay ngồi chung một chỗ. Chúng ta chỉ phải gặp nhau  
      vào buổi chiều để hầu hạ Trưởng lão và sáng sớm trước khi đi khất thực.  
      Những lúc khác, chúng ta không được tụ tập hai người. Nếu có Tỳ-kheo mắc  
      bệnh, hãy đưa ông ta đến trước sân tinh xá và đánh chuông, lúc đó chúng ta  
      sẽ tụ đến lo chữa trị.
 
      
      Tất cả đều đồng ý.
 
      
      Một buổi chiều, bà mẹ của  
      Màtika mang bơ, mật mía và  
      những thức ăn khác cùng đám người hầu đến tinh xá. Không thấy bóng dáng  
      các Tỳ-kheo, bà ngạc nhiên hỏi thăm và được biết các Tỳ-kheo đã quy định  
      với nhau như thế, và bà đã được khuyên hãy đánh chuông nếu muốn gặp họ.  
      Khi tiếng chuông vang lên, tưởng rằng có người bị bệnh. Các Tỳ-kheo từ chỗ  
      riêng của mình đến họp trước sân tinh xá, không có hai Tỳ-kheo đến cùng  
      một đường. Bà cư sĩ thấy vậy lại đoán họ cãi nhau, nên đảnh lễ Tăng chúng  
      xong bà liền hỏi thăm:
 
      
      - Các Ngài đã cãi nhau phải không, chư Tôn  
      giả?
      
      - Không đâu, cư sĩ.
 
      
      - Thế tại sao khi đến nhà chúng tôi, các  
      Ngài đi chung mà bây giờ mỗi người từ chỗ riêng của mình đến từng người  
      một?
      
      - Cư sĩ! Chúng tôi đang hành thiền ở thất  
      riêng.
      
      - Hành thiền là sao, chư Tôn giả?
 
      
      - Chúng tôi tu tập ba mươi hai yếu tố của  
      thân, từ đó nhận thức rõ ràng sự hoại diệt nằm trong thân.
 
      
      - Chư Tôn giả, chỉ có các Ngài mới được phép  
      tu tập, còn chúng tôi có được phép không?
 
      
      - Pháp tu này không cấm cản ai, cư sĩ ạ!
 
      
      - Vậy xin chư Tôn giả giảng dạy cho tôi.
 
      
      - Tốt lắm !
 
      
      Học xong bà bắt đầu ngay tu tập về ba mươi  
      hai yếu tố của thân. Kết quả là, trước cả các Tỳ-kheo, bà chứng quả  
      A-na-hàm đạt tứ thông và những thần thông khác cao hơn.
 
      
      Từ niềm an lạc của đạo quả, vì muốn biết lúc  
      nào những đứa con trai của mình (bà quý trọng các Tỳ-kheo và xem họ như  
      con) chứng đạo, bà dùng Thiên nhãn xem xét và thấy rằng họ vẫn còn bị trói  
      buộc trong tham sân si, tuy có hành thiền nhưng vẫn chưa đạt Minh sát tuệ.  
      Bà thắc mắc không biết họ có đủ khả năng chứng A-la-hán không và thấy rằng  
      họ có. Chỗ ở có thích hợp hay không? Thính hợp. Bạn đồng tu có xứng đáng  
      hay không? Có. Thức ăn có đủ hay không? Không đủ.
 
      
      Từ đó bà cung cấp cho những Tỳ-kheo nhiều  
      loại cháo đặc vớt tất cả thức ăn cứng và mềm, nêm nếm bằng nhiều loại gia  
      vị chọn lọc. Các Tỳ-kheo thọ nhận thức ăn tốt lành, tâm trở nên yên tĩnh,  
      và do tĩnh tâm họ khai mở Minh sát tuệ, chứng A-la-hán cùng những thần  
      thông.
      
      Hết thời gian an cư, hành lễ Tự Tứ xong, các  
      Tỳ-kheo từ giã bà Màtika về  
      thăm Thế Tôn. Bà đưa tiễn một đoạn đường và thỉnh cầu họ mùa an cư năm sau  
      trở lại.
 
      
      Ðến Xá-vệ, các Tỳ-kheo đảnh lễ thế Tôn và  
      kính cẩn ngồi một bên. Phật hỏi thăm:
 
      
      - Các Tỳ-kheo Trông các ông có vẽ khỏe mạnh,  
      được bồi dưỡng đầy đủ, không lo lắng về ăn uống.
 
      
      Các Tỳ-kheo thưa:
 
      
      - Chúng con được khỏe mạnh, bạch Thế Tôn,  
      được bồi dưỡng đầy đủ và khỏi bận tâm về ăn uống là nhờ mẹ của  
      Màtika biết được tâm ý của  
      chúng con. Bà ta nấu đúng món ăn chúng con nghĩ đến.
 
      
      Một Tỳ-kheo nghe huynh đệ mình ca ngợi những  
      đặc tính của bà cư sĩ thí chủ, muốn đến nơi đó. Ông nhận đề tài thiền quán  
      từ Thế Tôn và xin đi. Rời Kỳ-viên, ông đến làng  
      Màtika. Bước vào tinh xá, ông  
      khởi nghĩ bà cư sĩ này biết được tâm người khác chắc sẽ hiểu rằng ta đi  
      đường mệt mõi không thể quét dọn được, và chắc chắn bà sẽ cho người tạp  
      dịch. Quả nhiên bà cho người đến. Và cứ thế Tỳ-kheo này nghĩa đến nước  
      uống thì có nước uống, nghĩ đến cháo đặc với nhiều bơ cùng thức ăn ngon  
      liền có ngay, muốn có thức ăn cứng cũng có, thậm chí muốn gặp bà cư sĩ  
      cùng thức ăn mềm nêm nếm với gia vị chọn lọc thì bà đích thân mang tới  
      ngay. Khi ăn xong, Tỳ-kheo hỏi bà:
 
      
      - Cư sĩ, bà là mẹ  
      Màtika?
      
      - Phải con ạ.
 
      
      - Bà biết được tâm ý người khác phải không?
 
      
      - Tại sao con hỏi ta như thế?
 
      
      - Vì bà đã mang đến cho tôi mọi thứ tôi mong  
      muốn.
      
      - Có nhiều Tỳ-kheo biết được tâm ý người  
      khác con ạ.
 
      
      - Tôi không hỏi người khác, tôi hỏi bà.
 
      
      Bà  
      Màtika tránh không xác nhận là mình đọc được tư tưởng người  
      khác, thay vào đó bà bảo:
 
      
      - Những ai không biết tư tưởng người khác  
      mới làm vậy, con ạ.
 
      
      Vị Tỳ-kheo cảm thấy bối rối. Ông nghĩ:  
      "Người chưa chứng quả đều có những ý tưởng thầm kín có thể cao qúy hoặc ti  
      tiện. Nếu ta khởi nghĩ một tư tưởng tội lỗi nào, chắc chắn bà ta như đi  
      guốc trong bụng ta, sẽ nắm chóp ta ngay, tóm gọn cả bao lẫn bị như chộp  
      bắt một tên trộm, ôi thôi tai hại! Ba mươi sáu kế chỉ có chuồn đi là tốt  
      nhất."
      
      Ông liền từ giã bà cư sĩ trở về Thế Tôn, và  
      kể lại tự sự. Thế Tôn khuyên:
 
      
      - Tỳ-kheo, chỉ nơi ấy là nơi ông cần phải ở  
      lại.
      
      - Con không thể, bạch Thế Tôn! Con không  
      muốn ở lại đó nữa.
 
      
      - Vậy Tỳ-kheo! Ông có canh chừng được một  
      việc duy nhất hay không?
 
      
      - Nghĩa là gì, bạch Thế Tôn?
 
      
      - Chỉ canh chừng tâm của ông. Tâm ý rất khó  
      kiểm soát. Ðứng nghĩ thêm việc gì khác, hãy chế ngự tâm mình vì tâm thường  
      chao động.
 
      
      Và Ngài nói Pháp Cú:
 
      
      
      (35)  
      Khó nắm giữ, khinh động,
 
      Theo các dục quay cuồng,
 
      Lành thay, điều phục tâm,
 
      Tâm điều, an lạc đến.
 
      
      Rồi Thế Tôn dạy Tỳ-kheo hãy tiếp tục trở lại  
      chỗ cũ, và không nên lo nghĩ gì khác ngoài việc canh chừng tâm ý của mình.  
      Bà cư sĩ biết trước Tỳ-kheo sắp trở lại, nên chuẩn bị sẵn thức ăn ngon  
      dâng cúng, và chỉ trong vài ngày ông chứng quả A-la-hán. Nếm được pháp lạc  
      của đạo quả và một lòng biết ơn bà cư sĩ, ông muốn biết xem trong quá khứ  
      bà có từng giúp đỡ mình hay không. Ông nhớ lại được chín mươi chín kiếp  
      trước và thấy bà đã từng là vợ ông, nhưng lại dành tình cảm cho người đàn  
      ông khác, và bà đã khiến ông mất mạng. Thật độc ác làm sao!
 
      
      Bà cư sĩ ngồi tại nhà quan sát thấy Tỳ-kheo  
      đã đạt đến cứu cánh đạo quả, và cũng biết là ông đã nhớ lại chín mươi chín  
      kiếp trước và đã biết tâm độc ác của bà trong quá khứ. Bà bèn nhớ lại tới  
      kiếp thứ một trăm bà cũng là vợ ông, và trong hoàn cảnh phải giết chồng,  
      bà đã tha mạng ông. Bà liền bảo vị Tỳ-kheo hãy nhớ đến tiền kiếp xa hơn và  
      quan sát sự việc. Nhờ thiên nhĩ thông, vị Tỳ-kheo nghe được lời bà và làm  
      theo. Ông nhận ra quả bà cư sĩ đã giúp đở ông nhiều. Ông giải đáp cho bà  
      cư sĩ những vấn đề liên quan đế A-la-hán quả. Sau đó, ông nhập Vô dư y  
      Niết-bàn.
      
       
      
      3. Một Tỳ  
      Kheo Bất Mãn
 
      
      Tâm  
      khó thấy, tế nhị ...
 
      
      Phật dạy câu này khi ngụ tại Kỳ-Viên vì một  
      Tỳ-kheo bất mãn.
 
      
      Tại Xá-vệ, con của một chưởng khố đến vị  
      Trưởng lão thường khất thực tại nhà mình, xin dạy con đường giải thoát  
      phiền não. Trưởng lão khuyên anh ta hãy bố thí những thứ như thức ăn chia  
      theo phiếu, thức ăn ngày rằm và ba mươi, phòng xá trong mùa mưa đến an cư,  
      y bát và những nhu cầu khác. Ngài còn dạy thêm nên chia tài sản ra làm ba,  
      một phần để làm ăn sinh sống, một phần dành cấp dưỡng cho vợ con và phần  
      thứ ba cúng dường Tam Bảo.
 
      
      Anh ta thi hành đúng lời dạy, rồi đến gặp  
      lại Trưởng lão, hỏi xem còn phải làm điều gì nữa. Ngài dạy anh tuân giữ  
      Tam quy Ngũ giới. Và anh hỏi tiếp thì được khuyên giữ mười giới, cứ thế  
      anh hoàn tất từ từ việc công đức này đến công đức khác nên được gọi là  
      Anupubla. Anh lại tiếp tục hỏi  
      Trưởng lão và được dạy là nên xuất gia. Lập tức anh từ bỏ thế gian đi tu,  
      và dưới quyền dạy dỗ của một Giáo thọ sư thông thuộc tạng Luận và một Giám  
      luật thông thuộc tạng Luật. Sau khi làm tròn bổn phận anh đến vị Giáo thọ  
      thưa thỉnh và được dạy bảo theo tạng Luận:
 
      
      - Trong giáo lý Phật đà điều này đúng pháp,  
      điều kia không đúng pháp.
 
      
      Nếu thưa thỉnh với vị Giám luật thì cũng  
      được dạy bảo theo tạng Luật:
 
      
      - Trong giáo lý Phật đà điều này chính đáng,  
      điều kia không chính đáng.
 
      
      Thời gian trôi qua, anh chán nản vì cảm thấy  
      khó nhọc với nhiệm vụ tu sĩ. Anh muốn giải thoát mà giờ đây ngay cả chỗ để  
      duỗi thẳng tay cũng không có. Sống đời cư sĩ có khi cũng được giải thoát  
      phiền não. Vì thế anh có ý định hoàn tục.
 
      
      Từ đó anh bất mãn và khó chịu trong lòng,  
      thôi không tu tập ba mươi hai yếu tố thân nữa, và cũng không nghe lời dạy  
      bảo nữa. Mặt anh trở nên hốc hác,da dẻ nhăn nheo, nổi gân xanh, mệt nhọc  
      đè nặng, ghẻ chóc đầy người. Những người tu tập và Sa-di hỏi thăm, anh  
      cũng kể thật là đang bất mãn. Họ cho vị Giáo thọ và Giám luật của anh hay,  
      và hai vị này đưa anh đến Thế Tôn. Anh thuật lại tâm tư mình cùng ý định  
      hoàn tục, Phật bảo:
 
      
      - Tỳ-kheo! Nếu ông chỉ canh chừng được một  
      việc mà thôi, thì khỏi phải cần để ý đến những việc khác.
 
      
      - Việc đó là gì, thưa Thế Tôn?
 
      
      - Ông có thể canh chừng tâm ý của ông chăng?
 
      
      - Dạ được, bạch Thế Tôn.
 
      
      - Vây thì ông chỉ canh chừng tâm của ông.
 
      
      Rồi Thế Tôn nói Pháp Cú:
 
      
      
      (36)  
      Tâm khó thấy, tế nhị,
 
      Theo các dục cuồng quay,
 
      Người trí phòng hộ tâm,
 
      Tâm hộ an lạc đến.
 
      
       
      
      4. Tăng Hộ  
      Cháu
      
      Chạy  
      xa sống một mình ...
 
      
      Thế Tôn dạy lời này khi ở Xá-vệ liên quan  
      đến ngài Tăng Hộ (Sangharakkhita).
 
      
      Thành Xá-vệ có một chàng trai thuộc gia đình  
      khá giả, sau khi nghe Thế Tôn thuyết pháp, đã từ bỏ thế gian, được nhận  
      vào Tăng đoàn, làm tròn bổn phận, và chỉ trong mấy ngày đắc quả A-la-hán.  
      Ðó là Trưởng lão Tăng Hộ.
 
      
      Người em gái út của Trưởng lão sanh bé trai  
      cũng đặt tên là Tăng Hộ, tức Tăng Hộ cháu. Ðến tuổi trưởng thành Tăng Hộ  
      cháu gia nhập Tăng đoàn theo Trưởng lão, và khi làm tròn bổn phận, ông an  
      cư suốt mùa hạ trong tinh xá một làng nọ. Nhận được hai bộ y dành cho  
      Tỳ-kheo mặc trong mùa mưa, một cái dài bảy cubits, một cái dài tám cubits,  
      ông chọn chiếc dài định dâng cúng cho vị thân giáo sư của mình và giữa lại  
      chiếc ngắn, Mãn hạ, ông rời tinh xá về thăm thầy, vừa đi, vừa khất thực.  
      Ðến nơi ông quét dọn, lấy nước rữa chân, sửa soạn chỗ ngồi cho Trưởng lão  
      rồi ngồi ngắm con đường Trưởng lão sẽ đi qua. Ông Trưởng lão đến, ông xá  
      chào, đở y bát và mời ngồi. Rồi ông lấy cây quạt lá cọ quạt cho trưởng  
      lão, dâng nước uống, nước rữa chân, cuối cùng dâng y, đặt dưới chân Trưởng  
      lão thưa:
 
      
      - Tôn giả! Xin đắp y này!
 
      
      - Tăng Hộ! Ta đủ y rồi, ông cứ mặc y này đi!
 
      
      - Bạch Tôn giả, tự lúc nhận y con đã định  
      dâng cho Ngài. Xin Ngài nhận cho.
 
      
      - Ðừng bận tâm, Tăng Hộ, ta đã đủ y.
 
      
      - Tôn giả, xin đừng từ chối. Ngài nhận y con  
      sẽ được phước baó lớn.
 
      
      Dù Tăng Hộ cháu lặp đi lặp lại lời thỉnh cầu  
      nhiều lần, Trưởng lão vẫn từ chối chiếc y tặng. Ông vừa quạt cho Trưởng  
      lão lòng ngỗn ngang trăm mối: "Lúc còn cư sĩ ta là cháu, xuất gia thì cùng  
      ở chung, nhưng Trưởng lão vẫn không muốn với cương vị thầy nhận cho ta  
      cúng dường. Như vậy ta còn ở lại đây tu nữa làm gì, ta nên hoàn tục."  
      Nhưng ông lại lo là không biết trở lại làm gia chủ sẽ sống ra sao. À, ta  
      sẽ bán chiếc y dài tám cubits này để mua một con dê cái. Có dê cái nhiều  
      rồi ta bán dê con, cứ thế túi tiền sẽ to dần, chẳng mấy chốc giàu sang đến  
      nơi. Rồi ta sẽ tìm một cô vợ, vợ ta sẽ sinh cho ta một đứa con. Thế rồi  
      những hình ảnh kế tiếp lần lượt xuất hiện trong đầu ông. Ông và vợ đẩy đứa  
      bé trong xe đi thăm người chú, vừa đi vừa trò chuyện:
 
      
      - Này, đưa con cho tôi bế một tí nào!
 
      
      - Lắm chuyện, bế nó làm chi. Ðến đây mà đẩy  
      cái xe này!
 
      
      Miệng nói tay bế, khốn khổ cô vộ lính quính  
      thế nào làm rớt tọt đứa bé xuống đường ngay dưới bánh xe. Ông ta giận dữ  
      giáng một cây gậy vào lưng cô ta, đồng thời chiến quạt lá cọ cũng bay  
      xuống đầu Trưởng lão. Trưởng lão quán sát và hiểu hết chuyện, bảo:
 
      
      - Tăng Hộ ! Ông không đánh trúng người đàn  
      bà, nhưng một Trưởng lão già đã làm gì để đáng ăn một gậy?
 
      
      Vị tăng trẻ hoảng hốt:
 
      
      - Ôi! Chết ta rồi! Thầy ta đã hiểu biết hết  
      mọi ý nghĩa của ta. Làm sao dám ở lại tu nữa?
 
      
      Ông ném quạt đi và bỏ chạy. Những người tập  
      tu và Sa-di đuổi theo, bắt ông dẫn đến Phật kể hết mọi chuyện, Phật dạy:
 
      
      - Tỳ-kheo! Tại sao ông lại phạm lỗi nặng như  
      thế? Ông không phải là đệ tử của một vị Phật có thần lực vô hạn hay sao?  
      Ðã từ bỏ thế gian sống trong Giáo đoàn của Phật, mà ông lại quên không tự  
      điều phục mình hướng đến Sơ quả, Nhị quả, Tam quả hay A-la-hán. Tại sao  
      ông lại phạm lỗi trầm trọng như thế?
 
      
      - Bạch Thế Tôn, con bất mãn.
 
      
      - Tại sao ông bất mãn?
 
      
      Tăng Hộ cháu thuật lại toàn bộ câu chuyện,  
      từ ngày nhận y nơi an cư đến lúc đập quạt lên đầu Trưởng lão, và ông thưa  
      tiếp:
      
      - Bạch Thế Tôn, đó là lý do tại sao con muốn  
      bỏ đi không tu nữa.
 
      
      Phật dạy:
 
      
      - Này, Tỳ-kheo! Ðừng bối rối. Tâm thường  
      chạy theo những chuyện dẫn đi rất xa. Ta phải cố gắng thoát khỏi sự trói  
      buộc của tham sân, si.
 
      
      Và Ngài nói Pháp Cú:
 
      
      
      (37)  
      Chạy xa, sống một mình,
 
      Không thân, ẩn hang sâu,
 
      Ai điều phục được tâm,
 
      Thoát khỏi ma trói buộc.
 
      
       
      
      5.  
       Trưởng  
      Lão Tâm Ðược Ðiều Phục
 
      
      Ai  
      không tâm an trú ...
 
      
      Lúc ngụ tại Xá-vệ, Phật đã dạy Trưởng lão  
      Cittahattha, người-bị-  
      tâm-sai-sử câu kệ trên.
 
      
      Một chàng trai thuộc gia đình khả kính sống  
      ở Xá-vệ vào rừng kiếm con bò bị lạc. Giữa trưa anh tìm thấy và đưa nó về  
      bầy. Nhưng đói khát quá, anh vào tinh xá gặp các Tỳ-kheo cúi chào và đứng  
      cung kính một bên. Thấy anh quá kiệt sức, các Tỳ-kheo chỉ thức ăn thừa  
      trong bình, bảo anh lấy ăn (khi Phật còn hiện đời luôn luôn có cháo được  
      cùng dường dồi dào cùng với nhiều thứ nước sốt và cà ri). Chàng trai ăn  
      uống no nê xong rửa tay, chào các Tỳ-kheo và hỏi:
 
      
      - Chư Tôn giả! Chắc hôm nay nhà nào mới  
      thỉnh các Ngài?
 
      
      - Không cư sĩ ạ! Các Tỳ-kheo thường xuyên  
      nhận được thức ăn như thế.
 
      
      Chàng trai thấy rằng dù làm lụng tích cực  
      vất vả liên tục ngày và đêm cũng không bao giờ được chaó ngon như vậy.  
      Trong khi các Tỳ-kheo, theo lời họ, vẫn được ăn liên miên. Thế tại sao ta  
      cứ sống đời cư sĩ ? Ta sẽ xuất gia. Anh đến các Tỳ-kheo xin và được nhận  
      vào Tăng đoàn. Sau khi làm tròn bổn phận chính và phụ chỉ trong vài ngày  
      được chia phần trong số phẩm vật cúng dừơng, anh tròn trịa và phương phi  
      hẵn ra, nhưng rồi anh hết thích đời sống khất thực nên hoàn tục. Trở về  
      nhà làm việc chỉ vài ngày thân hình anh lại tiều tụy. Anh lại xuất gia,  
      rồi bất mãn, rồi lại về nhà. Thời gian ở chung, anh hay giúp đở các  
      Tỳ-kheo nên về nhà rồi xin tu trở lại, họ nghĩ tình chấp nhận. Cứ như thế  
      anh ra vào đến sáu lần liên tiếp. Các Tỳ-kheo đặt tên anh là  
      Cittahattha, tức người bị tâm  
      sai sử.
 
      
      Ra vào lui tới như thế, vợ anh mang thai.  
      Lần thứ bảy anh từ rừng trở về mang theo nông cụ. Cất nông cụ xong anh  
      bước vào phòng, lòng phân vân ray rứt muốn khoác y trở lại. Bấy giờ vợ anh  
      đang ngủ, quần áo trong tuột ra, nước miếng nhễ nhại, miệng mở toang hoác,  
      ngáy vang trời, trông chẳng khác nào một tử thi trương phình lên. Anh thấy  
      rõ trong thế gian này tất cả đều vô thường và khổ não. Liền đó anh nhận ra  
      suốt thời gian đi tu chỉ vì nghĩ đến cô ta mà anh thối tâm nản chí. Tay  
      nắm viền chiếc y vàng vừa anh quấn vào bụng vừa chạy ra khỏi nhà.
 
      
      Mẹ vợ anh chợt thấy anh phóng vụt qua, kêu  
      lên thất thanh, nhưng anh chẳng thèm nghe, một mực chạy thẳng. Bà chỉ còn  
      biết lầm bầm:
 
      
      - Cái gã phản bội này, vừa mới từ rừng về,  
      lại bỏ nhà, mình quấn y mà chạy vào tinh xá. Thế là sao?
 
      
      Bước vào nhà thấy con gái nằm ngủ, bà hiểu  
      ngay lý do. Bà lay con gái dậy mắng:
 
      
      - Dậy đi, đồ phù thủy! Chồng mày thấy mày  
      nằm ngủ, nó gớm ghiếc quá nên bỏ đi rồi. Mày không còn chồng nữa kể tù  
      đây!
      
      Cô gái dịu mắt, giọng lè nhè:
 
      
      - Ði đi, mẹ! Anh ta đi hay ở có gì quan  
      trọng đâu! Vài bữa nữa anh ta lại về.
 
      
      Trên đường,  
      Cittahattha ôn đi ôn lại câu  
      "Các pháp trong thế gian đều vô thường, trói buộc trong đau khổ", và anh  
      chứng quả Dự lưu. Ðến gặp các Tỳ-kheo anh cúi chào và xin vào Tăng đoàn.  
      Lần này anh bị từ chối quyết liệt:
 
      
      - Không! Chúng tôi không thể nhận anh. Tại  
      sao anh đi tu nữa? Ðầu anh cứng như cục đá mài.
 
      
      Anh khẩn khoản:
 
      
      - Chư Tôn giả! Hãy nhận con vào Tăng đoàn  
      một lần nữa thôi!
 
      
      Và chỉ sau vài ngày ông chứng quả A-la-hán  
      cùng các thần thông. Các Tỳ-kheo không hiểu tại sao lần này ông ở lâu,  
      được các ông giải thích là trước đây ông còn quyến luyến thế gian nên rời  
      bỏ Tăng đoàn, nay đã cắt hết mọi trói buộc nên không bỏ đi nữa. Các  
      Tỳ-kheo không tin, thưa lại với Thế Tôn câu chuyện. Phật bảo:
 
      
      - Ðúng vậy, các Tỳ-kheo! Ðệ tử của Ta khi  
      tâm không kiên định, khi không biết pháp lành thì đi tu cứ hay về nhà.  
      Nhưng bây giờ ông ta đã buông bỏ cả thiện và ác.
 
      
      Và Ngài nói Pháp Cú:
 
      
      
      (38)  
      Ai tâm không an trú,
 
      Không biết chân diệu pháp,
 
      Tịnh tín bị rúng động,
 
      Trí tuệ không viên thành.
 
      
      
      (39)  
      Tâm không đầy tràn dục
 
      Tâm không (bận) công phá,
 
      Ðoạn tuyệt mọi thiện ác,
 
      Kẻ tỉnh không sợ hãi.
 
      
      Một hôm các Tỳ-kheo lại bàn tán về Tỳ-kheo  
      đi tu bảy lần và hoàn tục bẩy lần, cũng vì tham dục xấu xa tại hại ghê  
      gớm. Phật vào Pháp đường ngồi xuống Phật tòa, nghe thế liền dạy:
 
      
      - Quả vậy các Tỳ-kheo! Tham dục xấu xa rất  
      là tai hại. Giả sử mấy thứ tham dục ấy có hình dạng cụ thể để ta đem bỏ  
      đâu, thì một thế giới cũng còn quá nhỏ, cõi trời Ðại Phạm cũng còn quá  
      thấp, không chứa nổi chúng. Ta không thể đắt chúng vào đâu cả. Ngay một  
      người trí tuệ và dòng dõi cao qúy như Ta cũng bị chúng áp đảo nữa. Thử hỏi  
      ai có thể tả được ảnh hưởng của nó? Trong một tiền kiếp, chỉ vì một xị đậu  
      giống và cái cuốc cùn mà Ta đã đi tu và ra đời sáu lần liên tiếp.
 
      
      Các Tỳ-kheo hỏi:
 
      
      - Chuyện đó xảy ra hồi nào, Bạch Thế Tôn?
 
      
      - Các ông muốn nghe sao? Ðó là:
 
      
      
      Chuyện quá khứ
 
      
      Kuddàla Và Cái Cuốc
 
      
      Ngày xưa, thời Phạm-ma-đạt cai trị  
      Ba-la-nại, có một người thiện trí tên  
      Kuddàla, có nghĩa là "vị Thánh Cuốc"
 
      
      Ông là một tu sĩ ngoại đạo đã sống tám tháng  
      trong Hy-mã-lạp-sơn. Một đêm vào mùa mưa, thấy mặt đất ẩm ướt ông nhớ đến  
      ở nhà còn một chai đậu giống. Sợ giống hư ông trở lại thế gian lấy cuốc  
      dọn một miếng đất nhỏ, tỉa đậu và rào chung quanh. Ðậu già, ông hái xuống,  
      để một số trong chai làm trái giống, phần còn lại thì ăn. Nhưng chẳng bao  
      lâu ông lại chán cuộc sống thế gian, vào núi tu suốt tám tháng. Cứ như  
      thế, chỉ vì chai đậu giống và cái cuốc cùn, ông đi tu đến bảy lần.
 
      
      Lần thứ bảy, ông chợt nghiệm ra rằng chỉ vì  
      cây cuốc cùn này mà phải đi tu rồi lại hoàn tục mãi nên quyết định ném bỏ  
      nó, luôn cả chai đậu giống. Ông đến bờ sông Hằng buộc cái chai đậu giống  
      trong một miếng vải buộc vào cán cuốc, tay nắm chạt đầu cuốc, nhắm mắt  
      lại, quay cuốc ba vòng trên đầu rồi ném xuống sông. Ông cố tình làn như  
      thế để đừng thấy chỗ cuốc rơi, sợ sau này động tâm lại xuống sông vớt lên.  
      Và ông la lớn ba lần lớn:
 
      
      - Ta đã chiến thắng! Ta đã chiến thắng!
 
      
      Lúc bấy giờ vua Ba-la-nại vừa trở về sau  
      cuộc dẹp loạn ở biên giới, cắm trại bên bờ sông Hằng và xuống sông tắm.  
      Chợt nghe tiếng Kuddàla  
      vang lên liền hỏi:
 
      
      - Chỉ có ta vừa mới hạ được kẻ thù mới gọi  
      là chiến thắng, còn ngươi cũng xưng chiến thắng, nghĩa là sao?
 
      
      Kuddàla 
      đáp:
 
      
      - Ngài đã chiến thắng bọn giặc cướp ở bên 
      ngoài. Chiến thắng của Ngài có thể sẽ bị thua trở lại. Còn tôi đã chiến 
      thắng một kẻ thù ở bên trong, kẻ cướp tên là 
      Tham Dục. Hắn sẽ không bao giờ  
      thắng tôi được nữa. Chiến thắng được hắn mới thực sự là chiến thắng.
 
      
      Rồi ông đọc bài kệ sau:
 
      
      
      Chiến thắng không thực  
      sự.
      Khi bị thua trở lại.
 
      Chiến thắng là thật sự.
 
      Khi chẳng còn bị bại.
 
      
      Cùng lúc ấy, do nhìn sông Hằng và quán tưởng  
      về yếu tố nước, ông đạt thần thông. Ông bay lên trời, ngồi kiết già trong  
      hư không.
 
      
      Nhà vua sau khi nghe bài thuyết của Bồ-tát  
      Kuddaala liền đảnh lễ Ngài, xin được nhận làm tu sĩ. Vua cùng toàn quân  
      đông dài khoảng một dặm đường đều đi tu. Vua nước láng giềng nghe tin muốn  
      đánh chiếm vương quốc Ba-la-nại, nhưng khi thấy thành quách thịnh vượng đó  
      trống không, mới hiểu rằng một vị vua từ bỏ một kinh thành tráng lệ như  
      thế để đi tu chắc chắn là không phải muốn bị trói buộc. Vua bèn đảnh lễ  
      Bồ-tát xin được đi tu với đoàn tùy tùng của mình. cứ như thế bảy vị vua  
      lần lượt đi tu. Cùng với hội chúng đông đảo đó, Bố-tát Kuddaala sống đời  
      Phạm hạnh và sanh lên cõi trời Ðại phạm.
 
      
      Thế Tôn kết luận:
 
      
      - Các Tỳ-kheo! Lúc đó Ta là  
      Kuddàla. Hãy học từ chuyện này  
      để biết tham dục nguy hiểm trầm trọng đến mức nào.
 
      
       
      
      6. Tỳ Kheo  
      Và Thần Cây
 
      
      Biết  
      thân như đồ gốm ...
 
      
      Thế Tôn đã dạy như thế khi ngụ tại Xá-vệ,  
      liên quan đến các Tỳ-kheo khai mở Minh-sát-tuệ.
 
      
      Tại Xá-vệ có năm trăm Tỳ-kheo nhận từ Phật  
      để mục thiền quán hướng đến quả vị A-la-hán. Với ý định hết lòng hành  
      thiền, họ đi xa một trăm dặm đến một làng rộng lớn. Dân làng dâng chỗ  
      ngồi, cúng cháo ngon và các loại thức ăn khác, và khi biết các Tỳ-kheo cần  
      chỗ ở thích hợp, liền mời thỉnh ở lại suốt ba tháng, nghĩ rằng dưới sự chỉ  
      dạy của các Ngài họ sẽ có nơi vững vàng để thọ Tam quy Ngũ giới. Các  
      Tỳ-kheo ưng thuận và được chỉ đến khu rừng lớn kế cận.
 
      
      Kể từ đó những vị thần đức hạnh trong rừng  
      lo lắng không dám để vợ con trèo lên cây trú ngụ. Họ tuột hết xuống đất,  
      chưa biết tính sao, cứ đoán già đoán non là nếu các Tỳ-kheo ngồi dưới cội  
      cây đêm nay thì sáng mai họ sẽ rời khỏi rừng. Nhưng ngày kế, sau khi khất  
      thực trong làng các Tỳ-kheo lại trở về khu rừng cũ. Thần cây lại hy vọng  
      nếu bây giờ các Tỳ-kheo chưa đi thì ngày mai có người thỉnh cúng chắc sẽ  
      đi. Nhưng ngày qua ngày chẳng có gì thay đổi, thần cây và vợ con rất khổ  
      sở vì phải ở dưới đất hết nữa tháng. Vì nghi các tỳ-kheo có thể sẽ ở lại  
      đến ba tháng, họ tính kế đuổi các Tỳ-kheo đi. Họ biến hóa cho các Tỳ-kheo  
      thấy những chiếc đầu không thân, những thân mình không đầu và cho nghe  
      tiếng yêu quái. Ðồng thời các Tỳ-kheo phiền não vì hắt hơi, ho và những  
      bệnh tật khác nữa, nên quyết định rời khu rừng trở về chỗ của Phật. Sau  
      khi đảnh lễ Phật, cung kính ngồi xuống một bên và được Phật hỏi, các  
      Tỳ-kheo thưa:
 
      
      - Bạch Thế Tôn, nhiều việc đáng sợ đã xuất  
      hiện trước mặt chúng con, Chỗ đó thật khó ở, chúng con phải quyết định ra  
      di.
      
      Phật dạy:
 
      
      - Các Tỳ-kheo, các ông nên trở về ở lại  
      chính ngay chỗ đó mới tốt.
 
      
      - Chúng con không dám, bạch Thế Tôn.
 
      
      - Các Tỳ-kheo, lần đầu đến đó các ông không  
      đem theo vũ khí. Bây giờ các ông phải đem theo vũ khí.
 
      
      - Vũ khí gì, bạch Thế Tôn?
 
      
      - Ta sẽ cho.
 
      
      Và Ngài đọc toàn bộ kinh Từ Bi, bắt đầu là  
      người muốn tìm lợi ích tinh thần cho mình, tức là muốn đạt đến cõi tịch  
      tĩnh an lạc, cần phải lương thiện, chánh trực, hiền lành, hoà nhã và không  
      tự cao tự đại. Ngài dạy tiếp:
 
      
      - Các Tỳ-kheo, hãy tụng đọc kinh này trong  
      rừng, bên ngoài ngôi tinh xá ẩn tu, thì các ông sẽ vào được tinh xá.
 
      
      Các Tỳ-kheo vâng theo, đảnh lễ Thế tôn rồi  
      ra đi. Ðến bên ngoài nơi ẩn tu, họ đồng loạt tụng bài kinh và vào chỗ cư  
      ngụ. Kết quả, những vị thần khắp khu rừng đều có cảm tình thân thiện với  
      các Tỳ-kheo. Họ đến gặp các Ngài, xin cho đỡ y bát, dâng nước rửa tay  
      chân, bố trí canh gác bảo vệ khắp nơi và cùng ngồi chung với các Tỳ-kheo.  
      Không còn nghe tiếng ma quái, tâm các Tỳ-kheo trở nên yên tĩnh. Tọa thiền  
      dù đêm dù ngày, các Tỳ-kheo đều cố gắng đạt Minh sát tuệ. Họ chuyên tâm  
      thiền quán về tính hoại diệt ngay trong thân mình: "Thân này mỏng manh,  
      không bền, như chiếc bình gốm." Cuối cùng các Tỳ-kheo khai mở Minh sát  
      tuệ.
      
      Ðức Thế Tôn ngồi ở hương thất biết như thế  
      liền dạy:
 
      
      - Ðúng vậy, các Tỳ-kheo! Thần này mỏng manh  
      không bền, giống như chiếc bình gốm.
 
      
      Rồi vẫn ngồi ở hương thất cách các Tỳ-kheo  
      một trăm dặm, Ngài phóng quang ảnh, hiện đến trước mặt các Tỳ-kheo, thân  
      phát hào quang sáu màu rực rỡ và dạy Pháp Cú:
 
      
      
      (40)  
      Biết thân như đồ gốm,
 
      Trú tâm như thành trì,
 
      Chống ma với gươm trí,
 
      Giữ chiến thắng không tham.
 
      
       
      
      7.  Vì Bạo  
      Ác Nổi Mụn Nhọt
 
      
      Không  
      bao lâu thân này ...
 
      
      Ðức Phật dạy câu trên lúc ở Xá-vệ liên quan  
      đến Trưởng lão Pùtigatta Tissa.
 
      
      Một chàng trai sống ở Xá-vệ, nghe Phật  
      thuyết pháp liền hướng tâm về đạo, xin được xuất gia vào Tăng đoàn, khi  
      thành Tỳ-kheo được gọi là Trưởng lão  
      Tissa. Thời gian sau, mụn nhọt bỗng nổi lên khắp người ông.  
      Trước tiên là những mụt mủ không lớn hơn hột cải, rồi tăng dần bằng hột  
      đậu tây, đậu Hà Lan, hạt táo,và bằng trái "vilva".  
      Cuối cùng mụn nhọt vỡ ra và toàn thân trưởng lão lở loét, vì thế Ngài có  
      tên là Pùtigatta tissa. Về  
      sau xương Ngài bắt đầu hư thối, không ai muốn săn sóc Ngài. Y trong và  
      ngoài của Ngài bị dính máu khô nhìn như bánh lưới. Bạn cùng liêu không thể  
      săn sóc nên đuổi Ngài ra khỏi liêu, để nằm dưới đất chẳng ai giúp đỡ.
 
      
      Ðức Phật không bao giờ quên quan sát thế  
      gian mỗi ngày hai lần, bình minh và chiều đến. Ngài nhìn từ chân trời đến  
      hương thất không thiếu sót, và thấy Trưởng lão  
      Tissa. Biết rằng ông sắp chứng  
      A-la-hán và không còn ai nương tựa ngoài Phật, Thế tôn từ hương thất đi  
      một vòng tinh xá đến nhà bếp. Ngài rửa nồi nước đặt lên lò than và đợi.  
      Khi nước đã nóng Ngài đến nắm lấy chân giường  
      tissa.
      
      Lúc đó các Tỳ-kheo thưa với Phật:
 
      
      - Xin Thế Tôn đi trước, chúng con sẽ khiêng  
      ông ta đến nhà bếp.
 
      
      Thế Tôn bảo mang đến một cái chậu và đổ nước  
      nóng vào. Ngài bảo các Tỳ-kheo cởi ngoại y của  
      Tissa, giặt bằng nước nóng cho  
      thật sạch rồi phơi khô dưới ánh nắng. Sau đó, Ngài dùng nước nóng lau  
      mình, kỳ cọ và tắm nắng. Tắm xong thì ngoại y của ông cũng vừa khô. Thế  
      Tôn sai mặc ngoại y cho ông và bảo lấy nội y giặt nước nóng và vừa khô.  
      Khi người ông đã khô ráo thì nội y cũng vừa khô. Ðược mặc y vàng làm nội y  
      và một cái khác làm ngoại y Tissa  
      nằm xuống giường, thân khỏa khắn và tâm an tĩnh. Thế Tôn đứng nơi đầu  
      giường bảo ông:
 
      
      - Tỳ-kheo, thần thức sắp rời ông, chẳng bao  
      lâu thân ông sẽ thành vô dụng như khúc gỗ nằm lăn trên đất.
 
      
      Và Ngài đọc Pháp Cú:
 
      
      
      (41)  
      Không bao lâu thân này,
 
      Sẽ nằm dài trên đất,
 
      Bị vất bỏ, vô thức,
 
      Như khúc cây vô dụng.
 
      
      Cuối Bài kệ Trưởng lạo  
      Pùtigatta Tissa chứng A-la-hán  
      và nhập Niết-bàn. Thế Tôn cho tiến hành lễ Trà-Tỳ, lấy xá-lợi và xây bảo  
      tháp thờ phụng.
 
      
      Các Tỳ-kheo thắc mắc hỏi Thế Tôn:
 
      
      - Bạch Thế tôn! Trưởng lão  
      Tissa tái sanh về đâu?
 
      
      - Ông ta nhập Niết-bàn.
 
      
      - Bạch thế tôn! một Tỳ-kheo sắp chứng  
      A-la-hán tại sao thân còn bệnh như thế, xương ung thối? Hành nghiệp kiếp  
      trước của ông như thế nào mà ông chứng được A-la-hán?
 
      
      - Các Tỳ-kheo, mọi việc xảy ra đều do hành  
      nghiệp kiếp trước.
 
      
      - Ông ta đã làm gì, thưa Thế Tôn?
 
      
      - Các Ông hãy lắng nghe:
 
      
      
      Chuyện quá khứ:
 
      
      Người Bẫy Chim Bạo Ác.
 
      
      Trong thời Phật Ca-diếp, trưởng lão  
      Tissa là người bẫy chim. Ông  
      bắt được rất nhiều chim, đa số mang vào hoàng cung hoặc mang đi bán. Nếu  
      giết chim đi và cất lại quá lâu không đem bán thì thịt chim sẽ hư thối, và  
      để giữ chim khỏi bay mất ông thường bẻ xương chân và xương cánh của chúng,  
      dồn đống chúng lại một chỗ để đem ra bán ngày hôm sau. Nếu bẫy được quá  
      nhiều, ông cũng đánh chén vài con.
 
      
      Một hôm thức ăn nấu chín thơm phức vừa dọn  
      lên, có một vị A-la-hán dừng chân trước cửa nhà ông khất thực. Ông bỗng  
      thấy lòng thanh thản, thầm nghĩ mình đã giết hại và thịt nhiều sinh mạnh  
      nên muốn cúng dường Ngài. Và ông đỡ bình bát, bỏ đầy những món ăn thơm,  
      năm vóc gieo xuống đất, đảnh lễ về thưa:
 
      
      - Tôn giả! Xin cho con được vào quả vị cao  
      nhất mà Ngài đã chứng.
 
      
      Trưởng lão hồi hướng công đức cho ông sẽ  
      được như vậy.
 
      
      Các Tỳ-kheo, do công đức đã làm này, phước  
      báo đã đến với ông như thế. Vì ông đã bẻ chân chim nên tứ chi ông bệnh  
      hoạn và xương ông ung thối. Vì ông cúng dường thức ăn ngon cho A-la-hán  
      nên ông chứng quả A-la-hán.
 
      
       
      
      8.  
      Nanda Chăn Bò
 
      
      Kẻ  
      thù hại kẻ thù...
 
      
      Ðức Phật lúc ngụ tại  
      Kosala đã dạy cho  
      Nanda người chăn bò giáo lý  
      này.
      
      Trưởng giả Cấp-cô-độc ở Xá-vệ có người chăn  
      bò tên Nanda. Ông giàu có,  
      tài sản dư dả, nhiều thú vui. Người ta nói, giống như nhà ẩn sĩ bện tóc  
      Kennigan xuất gia làm đạo sĩ. 
      Nanda chăn bò và quản lý  
      tài sản cho vua để giữ vững tài sản riêng của mình. Nhiều lần  
      Nanda đem năm sản phẩm lấy từ  
      bò đến nhà ông Cấp-cô-độc, gặp đức Ðạo sư, nghe pháp và thỉnh Ðạo sư đến  
      nhà riêng. Phật không nhận lời ngay mà chờ đến khi trí huệ của  
      Nanda chìn muồi. Khi đó Phật  
      cùng chúng Tỳ-kheo đi khất thực. Ðến gần nhà  
      Nanda, Ngài và chư Tăng ngồi  
      xuống dưới một cội cây.
 
      
      Nanda 
      đến đảnh lễ Thế tôn, chào hỏi thân tình và thỉnh Thế Tôn cho phép ông cúng  
      dường cả Tăng chúng trong bảy ngày vời năm thực phẩm chọn lọc từ bò. Ngày  
      cuối tuần cúng dường, Thế Tôn hồi hướng công đức cho ông và giảng thêm  
      những bài pháp về bố thí cúng dường. Cuối thời pháp,  
      Nanda người chăn bò chứng quả  
      Dự Lựu. Sau đó ông cầm binh bát cho Thế Tôn, đưa tiễn một dặm đường, đến  
      khi Phật bảo dừng ông mới trở lui về nhà.
 
      
      Trên đường đi,  
      Nanda bị một thợ săn bắn tên  
      chết. Các Tỳ-kheo trên đường trở về, thấy vậy bèn đến gặp thế tôn thưa  
      hỏi:
      
      - Bạch Thế Tôn! Vì Ngài đến đó,  
      Nanda đã cúng dường nhiều thực  
      phẩm, tiễn Ngài một đoạn đường và bị giết khi trở về. Nếu Ngài không đến  
      đó thì ông ta không chết.
 
      
      Phật đáp:
 
      
      - Các Tỳ-kheo! Dù ta có đến hay không, dù  
      Nanda có đi bốn phương Tám  
      hướng, ông ta cũng không tránh khỏi cái chết. Bởi vì một khi giặc cướp hay  
      kẻ thù không làm hại chúng sanh trong cõi đời này được, thì chính cái tâm  
      hư hỏng, tà vạy của họ có thể hại họ được vậy.
 
      
      Và Phật nói kệ sau:
 
      
      
      (42)  
      Kẻ thù hại kẻ thù,
 
      Oan gia hại oan gia,
 
      không bằng tâm hướng tà,
 
      Gây ác cho tự thân
 
      
      Vì các Tỳ-kheo không hỏi  
      Nanda đã làm gì trong kiếp  
      trước nên Phật không nói đến.
 
      
       
      
      9. Vừa Là  
      Cha Vừa Là Mẹ
 
      
      Ðiều  
      mẹ cha, bà con...
 
      
      Thế Tôn dạy câu trên khi ngài ngụ tại Kỳ  
      viên trong Thành Xá-vệ, cho vị chưởng khố, tức trưởng lão  
      Soreyya. Chuyện bắt đầu tại  
      thành Soreyya và kết thúc ở  
      Xá-vệ.
      
      Khi bậc Chánh Ðẳng Giác ngụ tại Xá-vệ, thì ở  
      thành Soreyya con của vị  
      chưởng khố tên Soreyya,  
      ngồi trên xe kiệu với một người bạn thân và đám tùy tùng đông đảo, ra  
      ngoài thành đi tắm. Họ gặp trưởng lão Ðại ca-chiên-diên đang đắp đại y  
      trước khi vào thành khất thực. Thân thể vàng óng của trưởng lão đập vào  
      mắt Soreyya khiến anh không  
      khỏi buột miệng: "Ồ! phải chi Trưởng lão này là vợ ta! Hoặc giả vợ ta có  
      nước da được như thế!" Ý muốn vừa dấy khởi thì anh biến thành đàn bà. Bối  
      rối và hổ thẹn, anh bước xuống xe và vụt bỏ chạy. Những người đi theo  
      không biết việc gì xảy ra nhao nhao lên:
 
      
      - Thế nghĩa là gì? Thế nghĩa là gì?
 
      
      Soreyya 
      mang thân phụ nữ bỏ đi về phía  
      Takkasilà. Người bạn chung xe kiếm anh khắp nơi không thấy. Tắm  
      xong mọi người về nhà. Họ lắp bắp trả lời với cha mẹ anh là anh đã về  
      trước. Ðến phiên cha mẹ anh đi tìm khắp nơi vẫn không thấy, hai ông bà  
      khóc lóc than van; cuối cùng cho là anh đã chết, họ làm đám tang.
 
      
      Soreyya,  
      bấy giờ là phụ nữ gặp đoàn thương buôn cùng hướng về  
      Takkasilà, bèn theo sát xe ông  
      trưởng đoàn. Trong đoàn chú ý đến cô, và thắc mắc không biết cô là con cái  
      nhà ai. Cô bảo họ cứ đi xe còn cô đi bộ theo. Ði hết một đoạn đường dài,  
      cô lo lót họ với chiếc nhẫn làm quà để xin một chỗ ngồi trên xe. Họ nghĩ,  
      đến con trai chưởng khố thành Xá-vệ chưa có vợ, và muốn làm mai cho cô,  
      mong được quà cáp hậu hỷ. Thấy cô hợp tuổi mình và quá đẹp, anh ta bằng  
      lòng cưới cô.
 
      
      (Ai cũng phải trải qua thân phận khi làm đàn  
      ông, khi làm đàn bà. Như ngài A-nan, người đầy đủ đức tính toán hảo trong  
      trăm ngàn kiếp, và là một Ðại đệ tử, đã từng là thợ rèn ở một kiếp trong  
      vòng luân hồi, phạm tội với vợ người khác bị đọa địa ngục, và sau đó vì  
      quả báo của hành động xấu chưa hết, Ngài phải trải qua mười bốn kiếp làm  
      vợ người khác cộng thêm bảy kiếp nữa mới dứt nghiệp. Mặt khác, không muốn  
      làm đàn bà nữa, và lập nghiệp được tái sanh làm đàn ông, sẽ được như ý.  
      Ngoài ra, những đàn bà vợ cư xử tốt với chồng sẽ tái sanh làm đàn ông.  
      Nhưng Soreyya đã dại dột mơ  
      tưởng tới Trưởng lão, nên ngay trong kiếp này đã biến thành đàn bà).
 
      
      Cô  
      Soreyya có thai và sau mười tháng sanh một bé trai. Khi đứa bé  
      chập chững biết đi thì cô sanh đứa thứ hai. Như thế  
      Soreyya trước là cha hai đứa  
      con sanh ở thành Soreyya,  
      nay là mẹ hai đứa nữa sanh ở thành  
      Takkasilà, tất cả là bốn đứa. Một hôm con vị chưởng khố, bạn  
      đồng hành khi xưa của Soreyya,  
      rời thành Soreyya với năm  
      trăm xe đi đến thành Takkasilà.  
      Lúc đó cô Soreyya đứng nơi  
      cửa sổ trên lầu cao nhất trong lâu đài nhìn xuống đường nhận ra anh bạn,  
      liền sai tỳ nữ mời vào căn phòng lớn, tiếp đãi kính trọng như thường lệ.
 
      
      Khách nói với chủ nhà:
 
      
      - Thưa bà, tôi chưa hề biết bà nhưng bà đón  
      tiếp tôi quá tốt. Bà biết tôi sao?
 
      
      Chủ nhà từ tốn:
 
      
      - Phải ông ạ. Tôi biết ông rất rõ. ông không  
      còn ở trong thành Soreyya  
      à?
 
      
      - Vâng, thưa bà.
 
      
      Và bà chủ nhà hỏi thăm sức khỏe cha mẹ vợ  
      con mình lúc trước. Khách trả lời tất cả đều khỏe và chất vấn tiếp:
 
      
      - Bà biết họ à?
 
      
      - Vâng ông ạ, tôi biết họ rất rành. Và này  
      ông, họ có một anh con trai, hiện nay không biết ở đâu?
 
      
      Khách buồn bã kể lại chuyện đau lòng năm  
      xưa, chủ thú thật:
 
      
      - Này ông, chính tôi là anh ta đấy!
 
      
      - Thôi đi bà! Bà nói gì lạ thế? Anh ta là  
      bạn thân của tôi, anh ta như một thiên thần trẻ trung, là một người đàn  
      ông.
      
      - Ấy thế đó! Nhưng tôi lại chính là anh ta  
      đấy, hoàn toàn đúng như thế.
 
      
      - Thế là thế nào?
 
      
      - Ngày đó, ông có nhớ là đã trong thấy  
      Trưởng Lão Ðại ca-Chiên-diên không?
 
      
      - Vâng, tôi nhớ là có gặp Ngài.
 
      
      - Bỗng dưng lúc đó tôi chợt nghĩ phải chi  
      Trưởng lão là vợ mình hoặc vợ mình có được nước da như Trưởng lão. Tức  
      khắc tôi biến thành đàn bà. Tôi liền bỏ chạy một mạch đến xứ này.
 
      
      - Ồ thật là tai hại! Tại sao anh không nói  
      với tôi? Mà anh đã sám hối không?
 
      
      - Ngài đang ở gần đây, ngay trong thành này.
 
      
      - Ngài đến đây ư? Tôi muốn cúng dường vật  
      thực cho Trưởng lão.
 
      
      - Tốt lắm, hãy chuẩn bị đầy đủ. Tôi sẽ  
      thuyết phục Trưởng lão tha lỗi cho anh.
 
      
      Rồi người bạn ngày xưa của  
      Soreyya đến chỗ Trưởng lão,  
      đảnh lễ Ngài, cung kính ngồi một bên xin Trưởng lão nhận lời cúng dường  
      ngày mai. Ngài nhận lời. Sáng hôm sau Ngài đến đứng trước cửa nhà. Con của  
      chưởng khố dâng Ngài chỗ ngồi và những thức ăn chọn lọc. Rồi ông dẫn người  
      đàn bà đến phủ phục dưới chân Ngài kể lại tự sự và xin được tha thứ.
 
      
      Trưởng lão hoan hỷ:
 
      
      - Tốt lắm, hãy đứng lên. Ta tha thứ cho bà.
 
      
      Trưởng lão vừa dứt câu,  
      Soreyya lập tức biến trở lại  
      thành đàn ông. Người chồng cũ của  
      Soreyya trấn an anh:
 
      
      - Bạn thân! Vì anh đã là mẹ trong khi tôi là  
      cha của hai đứa bé này. Chúng thật sự là con của cả hai chúng ta. Vậy  
      chúng ta vẫn tiếp tục sống lại đây. Ðừng khó chịu.
 
      
      Soreyya:
      
      - Này bạn, tôi trải qua hai lần chuyển hóa  
      trong một đời người. Trước tiên tôi là đàn ông, biến thành phụ nữ giờ trở  
      lại làm đàn ông. Ban đầu tôi là cha của hai đứa bé, mới đây là mẹ của hai  
      đứa nữa. Bạn đừng nghĩ rằng sau khi đã trải qua hai lần chuyển hóa trong  
      một kiếp sống, tôi bằng lòng sống đời tại gia nữa. Tôi sẽ đi tu theo  
      Trưởng lão của tôi. Bổn phận của bạn là nuôi dưỡng hai đứa bé này. Chớ xao  
      lãng.
      
      Nói xong  
      Soreyya hôn hai đứa con, ôm  
      vào lòng và trao lại cho người cha, bước ra khỏi nhà, và trở thành tu sĩ  
      theo Trưởng Lão. Trưởng lão thuận cho anh vào Tăng đoàn, nhận cho anh làm  
      tròn bổn phận, dẫn anh cùng về thành Xá-vệ. Và anh trở thành Trưởng lão  
      Soreyya.
      
      Dân cư trong xứ nghe chuyện rất xúc động và  
      xôn xao, đến hỏi Trưởng lão Soreyya 
      có thật như thế không, và tình cảm dành cho hai đứa con nào  
      mạnh hơn. Trưởng lão trả lời thương hai đứa gọi bằng mẹ hơn. Xong trưởng  
      lão rút lui khỏi đám đông. Khi ngồi thì ngồi một mình, khi đứng thì đứng  
      một mình. Sống độc cư như thế, Ngài quán chiếu về sự hoại diệt, và chúng  
      A-la-hán cùng những thần thông. Kề từ đó có ai hỏi Ngài thương hai đứa bé  
      nào hơn thì Ngài trả lời rằng không đặt tình cảm lên đứa nào cả. Các  
      Tỳ-kheo nghe vậy cho là Ngài nói dối, và thưa chuyện đến Phật. Phật trả  
      lời:
      
      - Các Tỳ-kheo! Ðệ tử ta không nó dối. Tâm đệ  
      tử Ta hoàn toàn chất trực từ khi ông ta thấy đạo. Không có cha mẹ nào có  
      thể mang đến lợi lạc cho mình mà chỉ có tâm hướng về chánh đạo làm được  
      điều tốt đẹp.
 
      
      Nói xong Phật nói Pháp Cú:
 
      
      
      (43)  
      Ðiều mẹ cha, bà con,
 
      Không có thể làm được,
 
      Tâm hướng chánh làm được,
 
      Làm được tốt đẹp hơn.