Tích  
      truyện Pháp Cú
 
      Thiền  
      viện Viên Chiếu
 
      
      Nguyên tác: "Buddhist Legends",
 
      Eugène Watson Burlingame
 
      
      --- o0o ---
                 
      
      
      
      XI. Phẩm  
      Già
      
      1. Bạn Của  
      Tỳ-Sá-Khư Say Rượu
 
      
      Cười  
      gì, hân hoan gì...
 
      
      Vì chuyện những người bạn của bà Tỳ-xá-khư  
      nên Thế Tôn đã dạy câu trên tại Kỳ Viên.
 
      
      Năm trăm thanh niên vọng tộc cho năm trăm bà  
      vợ theo đại cư sĩ nữ Tỳ-xá-khư, tin rằng với sự tốt lành như thế vợ của họ  
      sẽ sống đời chánh niệm. từ đó dù đến lạc viên hay tinh xá, các bà vợ luôn  
      luôn đi cùng với Tỳ-xá-khư. Nhân lễ hội uống rượu, các bà pha rượu cho  
      chồng chè chén suốt bảy ngày. Ðến ngày thứ tám trống báo hết lễ, các ông  
      chồng trở về đi làm bình thường.
 
      
      Thấy rượu còn thừa, các bà muốn uống nên  
      giauá chồng lén đem rượu theo, rồi rủ Tỳ-xá-khư đến lạc viên. Họ uống rượu  
      vào, say ngất ngưởng, đi khắp khu vườn chơi. Trông dáng đi của các bà,  
      Tỳ-xá-khư biết họ đã uống rượu và say. Các ngoại đạo sẽ có dịp rêu rao nữ  
      cư sĩ của Sa-môn Cồ-đàm uống rượu, bà gọi các bà vợ đến quở trách:
 
      
      - Này các bạn, các bạn đã phạm lỗi lầm to  
      tát, làm tôi cũng nhục lây. Chồng các bạn sẽ nổi giận. Các bạn phải tính  
      sao đây?
 
      
      Họ lo lắng thưa:
 
      
      - Thưa đức bà, chúng tôi sẽ cáo bệnh.
 
      
      Về nhà, các ông chồng biết ngay họ đã uống  
      rượu thừa. Họ bị đánh đập nên rất buồn khổ.
 
      
      Lễ hội năm sau, họ lại muốn uống rượu như  
      lần trước, nên rủ Tỳ-xá-khư đến vườn giải trí, nhưng bị bà từ chối. Họ bèn  
      bỏ ý định đó và rủ nhau đi đến tinh xá. Thế là họ sắp hương hoa vào thùng,  
      tay ôm bình đựng rượu, mặc áo choàng ấm, đến gặp Tỳ-xá-khư và cùng bà đến  
      tinh xá. Sau, các bà vợ ấy lẻn đi uống rượu, vứt bình rồi vào ngồi trong  
      Pháp đường, trước mặt đức Thế Tôn. Bà Tỳ-xá-khư bạch:
 
      
      - Bạch Thế Tôn, xin Ngài giảng pháp cho các  
      bà này nghe.
 
      
      Nhưng các bà kia say đến nỗi thân thể lắc lư  
      đảo qua đảo lại và bỗng họ nảy ý muốn múa hát. Một quyến thuộc của Ma  
      vương thấy thế liền bắt xác họ, làm cho họ có những cử chỉ lố lăng trước  
      mặt Phật. Ðức Phật quán sát thấy được nguyên nhân, bèn nghĩ:
 
      
      - Ta sẽ không cho phép quyến thuộc Ma vương  
      tấn công. Bởi vì mục đích hoàn thành giác hạnh viên mãn của Ta chẳng phải  
      là để Ma vương được dịp hoành hành.
 
      
      Ngài phóng một đạo hào quang màu xanh đậm từ  
      chặng mày. Lập tức trời đất tối đen. Mấy bà kia sợ chết đến nỗi rượu trong  
      người khô hết. Phật rời chỗ ngồi, bay lên đỉnh núi Tu-di, phóng hào quang  
      giữa chặng lông mày, lúc đó trời sáng như thể cả ngàn mặt trăng cùng mọc.  
      Và Ngài bảo các bà:
 
      
      - Các ngươi đã đến và vào đây trong sự tán  
      tâm. Vì thế một quyến thuộc của Ma vương đã bắt xác các ngươi. Vào thời  
      điểm mà các ngươi không nên cười đùa hay có những cử chỉ không được nghiêm  
      chỉnh, nó đã bắt các ngươi cười cợt lố lăng. Từ đây về sau các ngươi phải  
      nỗ lực dập tắt lửa ái dục và tham ái.
 
      
      Và Ngài đọc Pháp Cú:
 
      
      
      (146)  
      Cười gì, hân hoan gì,
 
      Khi đời mãi bị thiêu?
 
      Bị tối tăm bao trùm,
 
      Sao không tìm ngọn đèn?
 
      
      Biết họ đã vững niềm tin, không còn bị lay  
      chuyển nữa, Phật xuống núi Tu-di và ngồi vào tòa Như Lai. Lúc đó Tỳ-xá-khư  
      thưa:
      
      - Rượu chính là điều ác, đã khiến hạng người  
      phẩm cách như các bà này, tuy ngồi trước mặt Thế Tôn, vẫn không đủ sức  
      kiểm soát hành động của mình, mà múa chân, vỗ tay, phát cười, phát ca hát,  
      nhảy nhót.
 
      
      Phật bảo:
 
      
      - Quả vậy, Tỳ-xá-khư! Rượu là điều ác, vì lẽ  
      đó vô số chúng sanh buồn khổ.
 
      
      Nhưng bạch Thế Tôn, vào thời nào và nguyên  
      nhân nào xảy ra chuyện trên?
 
      
      Thế Tôn bèn kể lại chuyện quá khứ trong Bổn  
      Sanh Kumbha.
 
      
       
      
      2. Ðức Phật  
      Chữa Trị Một Tỳ Kheo Lụy Tình
 
      
      Hãy  
      xem hình bóng đẹp...
 
      
      Câu này Thế Tôn dạy ở  
      Veluvana, liên quan đến  
      Sirimà.
      
      Sirimà 
      vốn là gái giang hồ hạng sang ở Vương Xá. Vào mùa mưa, cô lỡ xúc phạm  
      đến nữ cư sĩ Uttarà, vợ của 
      Sumana, con một phú gia, và  
      là chị của phú gia Punnaka.  
      Muốn nối lại quan hệ tốt, cô đến nhà nữ cư sĩ khi Thế Tôn và Tăng đoàn ở  
      đó. Khi đức Phật thọ thực xong, cô liền đến trước Ngài xin sám hối. Thế  
      Tôn đấng Thập lực đọc kệ sau cho  
      Sirimà nghe:
 
      
      
      (223)  
      Lấy không giận thắng giận,
 
      Lấy thiện thắng không thiện,
 
      Lấy thí thắng xan tham,
 
      Lấy chơn thắng hư ngụy.
 
      
      Cuối bài kệ,  
      Sirimà chứng quả Dự lưu. (Ðây  
      chỉ là tóm lược toàn bộ câu chuyện nằm trong phần kinh luận bài kệ thuộc  
      phẩm Phẫn Nộ).
 
      
      Sau đó cô thỉnh Thế Tôn đến thọ thực, và sau  
      dâng nhiều lễ vật. Từ đó cô đều đặn cúng dường tại nhà tám phần ăn. Cô múc  
      bơ lỏng và sữa đầy bát, phần cho một Tỳ-kheo đủ dùng ba cho đến bốn vị  
      Tỳ-kheo, và cô còn bố thí cho mỗi vị mười sáu đồng.
 
      
      Có một Tỳ-kheo đến khất thực tại nhà  
      Sirimà, trở về ông dừng chân  
      tại tinh xá cách đó ba dặm. Các Tỳ-kheo hỏi thăm ông thọ thực ở đâu và như  
      thế nào? Ông thật thà kể đủ chi tiết, nào là món hảo hạng, một phần ăn ba  
      bốn vị dùng cũng đủ, đã thế thí chủ xinh xắn càng nhìn càng đẹp. Một  
      Tỳ-kheo khác nghe thế đem lòng yêu cô ta, và muốn đến nhìn mặt.
 
      
      Hỏi được địa chỉ, sáng sớm vừa rạng đông.  
      Tỳ-kheo này lên đường đến phòng phát phiếu khất thực, tự nhận là trưởng  
      lão của hội chúng và nhận được một phiếu trong tám phần ăn tại nhà  
      Sirimà. Trước đó một ngày, tức  
      ngày Tỳ-kheo kia nhận thức ăn xong đi về, cô lâm bệnh, phải tháo hết nữ  
      trang nằm nghỉ trong phòng. Các Tỳ-kheo đến khất thực, cô không dậy nổi để  
      tự tay phục dịch, nên nhờ nô tỳ bưng dọn, không quên dặn họ phải chăm sóc  
      chu đáo, và xong xuôi dẫn cô đến đảnh lễ các Tỳ-kheo.
 
      
      Cô đến trước mặt các Tỳ-kheo đảnh lễ, toàn  
      thân run rẩy. Tỳ-kheo này thấy cô hồn phi phách tán, đang bệnh mà còn đẹp  
      như thế, nếu khỏe mạnh, trang điểm và đeo đồ trang sức nữa thì còn đẹp đến  
      đâu! Sau đó tham ái đã tích lũy từ hàng triệu năm nay nổi dậy trong lòng.  
      Ông không còn biết gì mọi vật xung quanh và không thể thọ thực được. Ông  
      bưng bát trở về tinh xá, đậy bát lại để qua một bên, nới y ra và nằm dài.  
      Tỳ-kheo đi chung năn nỉ, nhưng ông không nuốt nổi một thứ gì.
 
      
      Ngay tối ngày hôm đó  
      Sirimà qua đời. Thế Tôn hay  
      tin, bảo vua quàng xác để trong nhà thiêu, chớ có hỏa táng, và canh giữ  
      đừng để quạ chó mổ ăn thịt. Ngày qua ngày, đến ngày thứ tư xác của  
      Sirimà trương lên, giống như  
      đống thịt lở loét, từ chín lỗ dòi bò ra chẳng khác gì nồi nấu cơm vỡ nứt.  
      Vua cho đánh trống rao khắp thành bắt mọi người phải đến xem xác  
      Sirimà, ai không đến xem phạt  
      tám tiền. Thế Tôn cùng với Tăng đoàn đến xem.
 
      
      Bấy giờ Tỳ-kheo tương tư này đã bỏ ăn bốn  
      ngày, không đếm xỉa gì đến lời khuyên của các bạn đồng tu. Cơm trong bát  
      đã thối rữa, bình bát thì lên mốc, Nhưng khi nghe tin Thế Tôn sắp đi xem  
      xác Sirimà, đang nằm liệt  
      giường ông tức tốc nhỏm dậy. Và khi có người hỏi ông đi không, ông đáp  
      không cần suy nghĩ: "Chắc chắn là tôi đi". Rồi ông hắt bỏ cơm thiu rữa và  
      cất bát trong giỏ lưới xong ra đi.
 
      
      Thế Tôn và chúng Tỳ-kheo tăng đứng một bên  
      thi thể. Chúng Tỳ Kheo Ni và đoàn tùy tùng của vua với nam nư cư sĩ đứng  
      bên kia. Thế Tôn hỏi vua:
 
      
      - Ðại vương, người đàn bà này là ai?
 
      
      - Bạch Thế Tôn,  
      Sirimà, em của  
      Jìvaka.
      
      - Sirimà  
      à?
 
      
      - Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
 
      
      - Vậy thì hãy đánh trống loan hết phố thành  
      ai bỏ ra một ngàn đồng sẽ được sở hữu cô ta.
 
      
      Chẳng có ai "ừ hử" gì cả. Phật bảo vua hạ  
      giá xuống thấp. Từ trăm xuống đến chục, rồi đến xu, một phần hai xu, một  
      phần tư xu, một phần tám xu, cũng chẳng ai muốn lãnh nàng dù là cho không.
 
      
      Phật liền dạy:
 
      
      - Các Tỳ-kheo! Các ông thấy rõ giá trị của  
      một người đàn bà dưới mắt dân chúng chứ. Trong thành này, trước đây người  
      ta dám bỏ cả ngàn đồng để hân hạnh qua một đêm với người đàn bà này. Nhưng  
      bây giờ không ai chịu lãnh nàng dù được cho không, vì lẽ sắc đẹp đã tàn  
      tạ, không còn nữa. Nhìn xem, các Tỳ-kheo, thi thể này tàn rụi và thối rữa.
 
      
      Và Phật đọc Pháp Cú:
 
      
      
      (147)  
      Hãy xem hình bóng đẹp,
 
      Chỗ chất chứa vết thương,
 
      Bệnh hoạn nhiều suy tư,
 
      Thật không gì trường cửu.
 
      
       
      
      3. Bà Ni Già
 
      
      Thân  
      này bị suy già ...
 
      
      Phật dạy câu trên tại Kỳ Viên, liên quan đến  
      ni cô Uttarà.
 
      
      Ni cô vẫn tiếp tục hành hương khất thực cho  
      đến một trăm hai mươi tuổi. Một hôm, gặp một Tỳ-kheo, bà dâng hết thức ăn  
      trong bát, không chừa lại gì cho mình. Ngày thứ hai và tiếp ngày thứ ba, 
      Uttarà cũng lại gặp và dâng  
      cúng cho vị Tỳ-kheo đó tại chỗ cũ.
 
      
      Ðến ngày thứ tư,  
      Uttarà đang đi khất thực như  
      thường lệ thì gặp Phật ở nơi thật đông người. Bà bước lui, lá y bà bị  
      tuột, bà giẫm chân lên, vướng víu nên té ngã. Thế Tôn đến gần bà và bảo:
 
      
      - Sư muội, thân của ngươi suy yếu theo tuổi  
      già, không còn bao lâu sẽ hoại diệt.
 
      
      Và Phật đọc Pháp Cú:
 
      
      
      (148)  
      Thân này bị suy già,
 
      Ổ tật bệnh mỏng manh,
 
      Nhóm bất tịnh đổ vỡ,
 
      Chết, chấm dứt mạng sống.
 
      
       
      
      4. Nhóm Tỳ  
      Kheo Cả Tin
 
      
      Như  
      trái bầu mùa thu...
 
      
      Phật đã nói tại Kỳ Viên câu trên liên quan  
      đến nhóm Tỳ-kheo cả tin.
 
      
      Năm trăm Tỳ-kheo nhận đề mục thiền quán từ  
      Thế Tôn, rút vào rừng nỗ lực phấn đấu thiền định. Nghĩ rằng mình không còn  
      tham ái và đã hoàn thành tu tập, họ ra khỏi rừng đến báo với Thế Tôn đã  
      chứng đắc. Họ vừa đến ngoài cổng tinh xá, Thế Tôn vội bảo Trưởng lão A-nan  
      rằng họ chưa có duyên gặp Phật, xin đến lò thiêu trước rồi trở lại sau.
 
      
      Thay vì thắc mắc tại sao, các Tỳ-kheo bảo  
      nhau "Ðức Phật là bậc đại trí, chắc chắn Ngài có ý". Họ tuân hành đến lò  
      thiêu và trông thấy các thi thể. Với các thi thể để lâu đến một hai ngày  
      thì họ thấy ghê tởm, các thi thể mới chết còn tươi rói lại kích động lòng  
      dục của họ. Lúc đó họ mới nhận ra tham ái vẫn còn trong lòng. Thế Tôn ngồi  
      trong hương thất phóng quang ảnh đến đối diện với các Tỳ-kheo bảo:
 
      
      - Này các Tỳ-kheo, thấy nguyên bộ xương mà  
      các ông thích thú tham đắm xấu xa thì có hợp lẽ không?
 
      
      Rồi Ngài đọc Pháp Cú:
 
      
      
      (149)  
      Như trái bầu mùa thu
 
      Bị vất bỏ quăng đi,
 
      Nhóm xương trắng bồ câu,
 
      Thấy chúng còn vui gì?
 
      
       
      
      5. Ni Cô Và  
      Bóng Sắc
 
      
      Thành  
      này làm bằng xương...
 
      
      Phật đã dạy như thế tại Kỳ Viên, liên quan  
      đến ni cô Janapada-Kalyànì Rùpanandà
 
      
      Cô nghĩ rằng: "Anh cả của ta đã từ bỏ vinh  
      quang của quyền uy, trở thành Tỳ-kheo, và giờ đây là người siêu việt ở thế  
      gian, là Phật. Con Ngài là Ràhula  
      Kumàra, cũng là tăng sĩ. Chồng ta là tăng và cả mẹ ta cũng là  
      ni. Cả gia quyến đều sống đời xuất gia, tại sao ta vẫn kéo dài đời tại  
      gia?" Do đó cô muốn đi tu, gia nhập Ni chúng, không phải với lòng tin mà  
      vì lòng thương gia quyến. Vì có vẻ đẹp tuyệt trần nên cô có tên  
      Rùpa.
      
      Một hôm nghe Thế Tôn giảng: "Cái đẹp của sắc  
      là vô thường, hệ lụy với khổ đau, phi thực; thọ, tưởng, hành, thức cũng  
      đều như thế". Cô cho rằng Thế Tôn đã nhìn thấy cái xấu trên thân xác của  
      mình, dù rất đẹp để nhìn rất xinh để ngắm. Do đó cô không thích diện kiến  
      Thế Tôn nữa.
 
      
      Dân cư ở Xá-vệ thường cúng dường sáng sớm,  
      tiếp tục bổn phận của ngày Bát quan trai. Buổi chiều ăn mặc sạch sẽ tươm  
      tất, tay cầm hương hoa, họ tụ tập tại tinh xá để nghe pháp, Ni chúng cũng  
      thế. Nghe pháp xong, họ vào thành ca tụng công đức của Thế Tôn.
 
      
      Có bốn tiêu chuẩn để người ta phán đoán về  
      Như Lai và lấy làm mãn nguyện:
 
      
      
      1. Trên điều họ thấy được là thân kim sắc  
      của Phật, trang nghiêm với ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp.
 
      
      
      2. Trên điều họ nghe được về đức hạnh của  
      Phật qua biết bao trăm kiếp, và nghe Phật âm gồm có Bát Diệu khi Ngài  
      thuyết pháp.
 
      
      
      3. Trên sự khổ hạnh của Phật.
 
      
      
      4. Trên sự nhận xét về Ngài là chính trực,  
      có thập lực, có trí, an tĩnh, Phật là bậc độc tôn không ai sánh bằng.
 
      
      Rùpanandà 
      nghe Ni chúng và nữ cư sĩ kể lại lời ca tụng Như Lai, nhưng cô cho rằng họ  
      xứng tán quá lố đối với anh mình. Nếu như Ngài định chỉ trích sắc đẹp của  
      cô trong chỉ một ngày thôi, Ngài sẽ nói nhiều đến đâu trong khoảng thời  
      gian ấy? Rồi cô có ý định đi nghe pháp, nhìn Thế Tôn rồi trở về mà không  
      muốn cho ai thấy mình. Ni chúng vui sướng dẫn  
      Rùpanandà cùng đi, vì từ lâu  
      cô không muốn đến hầu Phật, có cô Ngài sẽ thuyết pháp với nhiều chi tiết  
      phong phú hơn.
 
      
      Thế Tôn biết trước hôm nay  
      Rùpanandà đến đảnh lễ. Và để  
      dạy dỗ người quá đắm trước thân mình, để làm tiêu tan lòng kiêu hãnh của  
      nàng vì ỷ có sắc đẹp, Ngài sẽ dùng chính sắc đẹp thân thể làm phương tiện,  
      giống như phải dùng gai lễ gai. Thế Tôn liền hiển thần thông: một thiếu nữ  
      mười sáu xuân xanh, đẹp chưa từng thấy mặc bộ y phục đỏ thẫm, trang điểm  
      với tất cả món trang sức, đứng trước Thế Tôn, cầm quạt phe phẩy. Chỉ có  
      Phật và Rùpanandà trông  
      thấy cô gái.
 
      
      Rùpanandà 
      vào tinh xá với Ni chúng. Cô đứng phía sau, năm vóc gieo xuống đảnh lễ  
      Phật và ngồi xuống chỗ Ni chúng. Rồi cô quan sát Thế Tôn từ đầu đến chân.  
      Rực rỡ xán lạn với ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp, hào quang bao  
      quanh tỏa rộng đến hai mét. Rồi cô thấy cô gái đứng cạnh Phật và cô quan  
      sát gương mặt sáng rực như trăng rằm của cô gái. Ngắm lại thân mình, cô  
      thấy mình chẳng khác gì con quạ đang đứng trước con ngỗng chúa thân kim  
      sắc. Cô trợn tròn mắt vì mái tóc thiếu nữ, ôi thật thanh tú. Cô say mê  
      từng bộ phận trên người thiếu nữ, và nóng lòng muốn mình cũng được như  
      thế. Thế Tôn biết được ý tưởng của cô nên bắt đầu thuyết cho cô bài pháp  
      sau. Thế Tôn hóa hiện thiếu nữ từ mười sáu tuổi lên hai mươi tuổi.  
      Rùpanandà nhận ra ngay bóng  
      sắc này không bằng trước đây. Rồi thiếu nữ thành thiếu phụ một con, đến  
      trung tuần và cuối cùng là một lão bà già khụ.  
      Rùpanandà theo dõi từng giai  
      đoạn biến hóa, mỗi lúc vẻ đẹp chỗ này mất, sắc tươi chỗ kia hết. và khi  
      đứng đó là bà lão răng rụng, tóc bạc, lưng còng, oằn xuống như chiếc rui  
      nhà hình chữ nhân, phải tựa lên gậy, tay chân run rẩy.  
      Rùpanandà không khỏi ghê tởm.
 
      
      Phần cuối bài thuyết pháp của Phật là bà lão  
      lâm bệnh. Ném gậy và quạt đi, bà kêu thét lên, té xuống đất, lăn qua lăn  
      lại trên đống phân và nước tiểu của mình.  
      Rùpanandà nhìn và muốn lợm  
      giọng. Rồi đức Phật cho thấy cái chết của bà lão. Liền đó thi thể bà  
      trương phồng, từ chín lỗ mủ chảy ra có dạng như bấc đèn và có cả giun sán.  
      Quạ và chó nhào lên người bà xé xác. Sự kiện này làm chấn động  
      Rùpanandà khôn kể. Cô thấy rõ  
      ngay chính chỗ này người đàn bà này già đi, lâm bệnh rồi chết; và thân của  
      cô cũng sẽ như thế. Từ cái thấy thân mình nằm trong sự vô thường, cô thấy  
      thân thể mình hệ lụy đến khổ đau, và do đó phi thực.
 
      
      Liền đó, ba pháp (già, bệnh, chết) giống như  
      nhà bị lửa thiêu đốt, hoặc như dây thừng quấn ngang cổ cô, hiển hiện trước  
      mắt Rùpanandà khiến tâm cô  
      đi vào thiền định. Tuy vậy, Phật biết cô chưa thể chứng quả, nên đọc thêm  
      bài kệ để hỗ trợ cho cô như sau:
 
      
      
      Hãy nhìn, Nandà!
 
      Sự liên kết những bộ phận gọi là thân,
 
      Nó là bệnh tật, bất tịnh, thối tha, rỉ chảy.
 
      Thật là ngu ngốc nếu ham muốn nó.
 
      Thân này như thế nào, thân kia cũng thế,
 
      Thân kia ra sao, thân này cũng sẽ vậy.
 
      Hãy nhìn các yếu tố của thân đều là không.
 
      Ðừng trở lại thế gian,
 
      Hãy dập tắt tham ái khiến tái sanh,
 
      Và ngươi sẽ đi trong an tĩnh.
 
      
      Hướng tâm ý thuận theo giáo lý Phật,  
      Rùpanandà chứng quả  
      Tu-đà-hoàn. Vì muốn cho cô tiến lên Tam đạo và Tam quả trên nữa, đẩy cô  
      thiền định thêm về lý không. Thế Tôn dạy thêm:
 
      
      - Này  
      Rùpanandà, đừng nghĩ rằng thân này có thực, không một chút gì  
      là thực trong thân này. Thân này là thành trì làm bằng xương, do ba trăm  
      khúc xương dựng lên.
 
      
      Và Ngài đọc Pháp Cú:
 
      
      
      (150)  
      Thành này làm bằng xương,
 
      Quét tô bằng thịt máu,
 
      Ở đây già và chết,
 
      Mạn, lừa đảo chất chứa.
 
      
      Cuối bài kệ, ni cô chứng quả A-la-hán, và  
      nhiều người cũng thọ trì được bài kệ này.
 
      
       
      
      6. Hoàng Hậu 
      Mallikà Và Con Chó
 
      
      Xe  
      vua đẹp cũng già...
 
      
      Tại Kỳ Viên Phật đã dạy câu trên liên quan  
      đến hoàng hậu Mallikà.
 
      
      Ngày kia hoàng hậu  
      Mallikà vào phòng tắm. Rửa mặt  
      xong, bà cúi người xuống và rửa chân. Không dè con chó cưng của bà cũng  
      vào theo. Nó thấy thế bèn làm hạnh bất tịnh với bà, và bà cứ để nó tiếp  
      tục. Từ tầng trên cung điện nhà vua nhìn thấy hết, sau đó mắng nhiếc bà  
      thậm tệ. Bà tìm cách chối quanh, nhưng nhà vua khẳng định:
 
      
      - Chính mắt ta đã thấy. Chết tiệt đi, con  
      tiện tỳ khốn kiếp!
 
      
      Bà vẫn chống chế:
 
      
      - Tâu đại vương, thật lạ kỳ! Ai bước vào  
      phòng tắm ấy, người ở ngoài nhìn vào đều thấy thành hai.
 
      
      - Mi nói dối.
 
      
      - Nếu bệ hạ không tin , xin hãy vào phòng  
      tắm, thiếp sẽ ở ngoài nhìn vào.
 
      
      Vua quả là thật thà, cả tin nên làm theo lời  
      bà. Ðột ngột bà ở ngoài la thất thanh:
 
      
      - Nhà vua điên khùng kia! Sao làm điều ô uế  
      với con dê cái?
 
      
      - Ái khanh, ta có làm như thế đâu!
 
      
      - Chính mắt thiếp thấy!
 
      
      Vì thế nhà vua tin lời giải thích của hoàng  
      hậu, là ai vào phòng tắm đều bị thấy thành hai.
 
      
      Nhưng  
      Mallikà cảm thấy bất an. Tuy đã dối gạt được nhà vua, vì ông đã  
      là một tên ngu ngốc, nhưng bà đã phạm tội trọng, và còn sai quấy khi kết  
      tội nhà vua. Thế Tôn sẽ biết tội của bà, cả hai Ðại đệ tử và tám mươi  
      Trưởng lão cũng biết. Tội lỗi trầm trọng biết bao! (Trước đó bà và vua  
      cúng dường rất nhiều của báu, số tiền lên đến một trăm bốn mươi triệu  
      đồng. Riêng đức Như Lai được cúng dường bốn món vô giá: một chiếc lọng  
      trắng, một chiếc giường, một ghế ngồi và một vật đỡ chân).
 
      
      Mallikà 
      lúc hấp hối lại quên hẳn sự cúng dường, chỉ nhớ đến hành động xấu ác mình  
      đã phạm, do đó bị đọa vào địa ngục A-tỳ. Vua Ba-tư-nặc rất yêu bà  
      Mallikà nên buồn khổ vô cùng.  
      Lễ tang xong, vua đến gặp Phật, ý muốn hỏi xem bà sanh ở đâu. Thế Tôn biết  
      trước, nên khôn khéo không để vua nhớ lý do đi đến tinh xá. Phật cứ thuyết  
      pháp, vua nghe xong hoan hỷ hồi cung. Như thế suốt bảy ngày vua không thể  
      nào nhớ để hỏi.
 
      
      Còn  
      Mallikà, sau bảy ngày rên siết trong địa ngục, được giải thoát  
      và tái sanh vào cõi trời Ðâu-suất.
 
      
      (Sở dĩ Phật phải làm như thế vì  
      Mallikà rất được sủng ái. Nếu  
      biết bà, một người có niềm tin kiên cố, bố thí cúng dường rất nhiều mà rơi  
      vào địa ngục, thì số phận của vua sau này sẽ ra sao? Nhà vua sẽ hiểu sai  
      lạc sanh ra hoài nghi, không tiếp tục cúng dường năm trăm Tỳ-kheo nữa, và  
      như thế vua sẽ đọa vào địa ngục).
 
      
      Vào ngày thứ tám, Thế Tôn ra ngoài khất thực  
      một mình. Ðến cổng hoàng cung vua nghe tin, cầm bát của Phật định mang lên  
      sân thượng cung điện. Nhưng Phật muốn ngồi ngay nhà để xe, vua bèn dâng  
      chỗ ngồi nơi đó và cúng dường thức ăn loại cứng loại mềm. Rồi nhà vua đảnh  
      lễ Phật hỏi lại câu đã quên suốt bảy ngày qua. Phật đáp:
 
      
      - Vào cung trời Ðâu-suất, đại vương ạ.
 
      
      Vua vẫn còn buồn khổ nên than:
 
      
      - Bạch Thế Tôn, từ khi nàng đi về cõi khác,  
      con người tôi không còn sống nữa.
 
      
      Phật an ủi:
 
      
      - Ðại vương, chớ nên đau lòng. Ðó là quy  
      luật bất biến cho mọi chúng sanh.
 
      
      Rồi Phật hỏi tiếp:
 
      
      - Ðại vương, xe này của ai?
 
      
      - Bạch Thế Tôn, của ông tôi.
 
      
      - Còn xe này?
 
      
      - Của cha tôi, bạch Thế Tôn.
 
      
      - Còn xe kia.
 
      
      - Của tôi.
 
      
      Ðức Phật bèn dạy:
 
      
      - Ðại vương, xe của cha còn tốt hơn xe ông  
      nội, cũng vậy xe của đại vương còn tốt hơn xe của cha. Sự suy tàn cũng sẽ  
      làm hư hoại thân này. Ðại vương, chỉ có đức hạnh chân chánh mới không hư  
      hoại.
      
      Và Phật đọc Pháp Cú:
 
      
      
      (151)  
      Xe vua đẹp cũng già,
 
      Thân này rồi sẽ già,
 
      Pháp bậc thiện không già.
 
      Như vậy bậc chí thiện,
 
      Nói lên cho bậc thiện.
 
      
       
      
      7. Một Tỳ  
      Kheo Thường Nói Không Ðúng Chỗ
 
      
      Người  
      ít nghe kém học...
 
      
      Phật dạy câu này tại Kỳ Viên, liên quan đến  
      Trưởng lão Ca-lưu-đà-di.
 
      
      Trưởng lão này ưa đến các nhà nơi dân chúng  
      làm lễ và đọc kệ về tang tế như "Họ đứng bên ngoài cõi chết". Thay vì nói  
      những lời thích hợp như thế, có nghĩa là còn sống mãi, khi tang lễ đang  
      tiến hành ông lại nói những câu kệ không dính dáng như "Bố thí và xót  
      thương". hoặc một câu trong kinh Kim Cang "Bất cứ tài sản nào có được, đời  
      này cũng như đời sau".
 
      
      Thật ra, bất kể đi đến đâu, nếu ông dự định  
      nói một điều gì đó thì khi mở miệng cũng khác hẳn, và chính ông không biết  
      mình đã lỡ lời nói không đúng.
 
      
      Các Tỳ-kheo nghe ông nói bèn trình lên Phật:
 
      
      - Bạch Thế Tôn! Ca-lưu-đà-di đi đến chỗ lễ  
      lạc hay tang ma có lợi ích gì? Ðiều đáng phải nói, Ca-lưu-đà-di nói trật  
      lất.
      
      Thế Tôn đáp:
 
      
      - Các Tỳ-kheo! Ðây không phải lần đầu  
      Ca-lưu-đà-di nói như thế mà ở kiếp trước ông ta luôn luôn không nói điều  
      đúng rồi, lại nói trật lất.
 
      
      
      Chuyện quá khứ
 
      
      7A.  
      Aggidatta, Somadatta Và Nhà  
      Vua
      
      Xưa, có một Bà-la-môn tên là  
      Aggidatta ngụ tại Ba-la-nại có  
      con là Somadatta theo hầu  
      vua rất được sủng ái. Ông sống bằng nghề nông, chỉ có hai con bò đực, lại  
      chết mất một con. Ông bảo con xin nhà vua con bò khác. E vua hiểu lầm mình  
      lợi dụng quyền chức để xin xỏ,  
      Somadatta bảo cha trực tiếp đến xin vua, và sợ ông không biết  
      ăn nói, anh chịu khó chỉ dạy thật tỉ mỉ. Anh dẫn cha đến bãi thiêu xác tên  
      là Bụi Cuscus, nhặt cỏ bó  
      thành từng túm, bảo:
 
      
      - Ðây là nhà vua, đây là phó vương, đây là  
      tổng tư lệnh quân đội. Vào hoàng cung cha phải đi vào như thế này đây, lùi  
      bước như thế này đây. Rồi cha tâu lên nhà vua trước, phó vương sau. Ðến  
      gần vua, cha phải tâu "Bệ hạ cao quý muôn năm!" Và đứng như vầy, rồi đọc  
      bài kệ sau:
 
      
      
      Tôi có hai con bò đực  
      giúp tôi cày bừa.
 
      Nhưng một con đã chết,
 
      Xin cho tôi con khác, vương tử anh hùng!
 
      
      Bà-la-môn mất hết một năm mới thuộc bài kệ  
      trên. Ông cho con biết, rồi hai cha con cùng mang lễ vật lên đường. Ðến  
      nơi, Somadatta đến ngồi vào  
      chỗ cận vua. Bà-la-môn một mình mang lễ vật đến sân rồng. Vua vui mừng  
      thấy ông, hỏi thăm vồn vã:
 
      
      - Chào ông bạn! Ông bạn đã đi đường xa, hãy  
      ngồi lên giường này và cho ta biết ông bạn cần chi?
 
      
      Bà-la-môn lấy hết sức mình đọc bài kệ một  
      lèo:
      
      
      Tôi có hai con bò đực  
      giúp tôi cày bừa,
 
      Nhưng một con đã chết,
 
      Xin lấy con còn lại, vương tử anh hùng!
 
      
      Vua ngạc nhiên hỏi:
 
      
      - Nói gì lạ vậy, ông bạn? Hãy lặp lại!
 
      
      Nhưng ông vẫn nhắc lại y như trước. Vua biết  
      ông lỡ lời nói ngược lại ý của mình, bèn cười bảo:
 
      
      -  
      Somadatta, chắc ngươi có nhiều bò đực ở nhà.
 
      
      Somadatta 
      thưa:
 
      
      - Tâu bệ hạ, nhiều bằng số bệ hạ đã ban cho  
      chúng tôi.
 
      
      Vua hài lòng với câu trả lời của vị Phật  
      tương lai, nên ban cho Bà-la-môn mười sáu con bò đực, thêm nữ trang và đồ  
      gia dụng, và một ngôi làng để trú ngụ. Như thế vua đã ban cho Bà-la-môn  
      quà tặng xứng đáng và vinh dự to lớn.
 
      
      Phật kể chuyện xong, đồng hóa như sau:
 
      
      - Thời đó nhà vua là A-nan. Bà-la-môn là  
      Ca-lưu-đà-di và Somadatta  
      chính là Ta.
 
      
      Và Ngài nói thêm:
 
      
      - Này các Tỳ-kheo! Ðây không phải lần đầu  
      tiên ông ta không thể nói đúng việc đúng thời vì quá ngu si. Thực vậy,  
      người ít nghe kém học không khác gì con trâu đực.
 
      
      Phật đọc tiếp Pháp Cú:
 
      
      
      (152)  
      Người ít nghe kém học,
 
      Lớn già như trâu đực,
 
      Thịt nó tuy lớn lên,
 
      Nhưng tuệ không tăng trưởng.
 
      
       
      
      8. Kệ Của  
      Trưởng Lão A-Nan
 
      
      Lang  
      thang bao kiếp sống...
 
      
      Câu này Phật thốt ra khi ngồi dưới cội  
      bồ-đề, sau này nói lại cho Trưởng lão A-nan để đáp một câu hỏi.
 
      
      Dưới cội bồ-đề, trước khi mặt trời lặn, Phật  
      chiến thắng Ma vương; đầu đêm, Ngài vén màn vô minh đã bao phủ từ nhiều  
      kiếp; giữa đêm, đắc thần thông; cuối đêm, vì lòng thương xót chúng sanh,  
      Ngài tập trung tư tưởng vào lý nhân duyên, thiền quán theo chiều thuận và  
      chiều nghịch, và hừng đông Thế Tôn giác ngộ viên mãn. Sau đó, như vô lượng  
      chư Phật đã làm, Ngài long trọng phát biểu bài kệ sau:
 
      
      
      (153)  
      Lang thang bao kiếp sống,
 
      Ta tìm nhưng chẳng gặp,
 
      Người xây dựng nhà này,
 
      Khổ thay phải tái sanh!
 
      
      
      (154)  
      Ôi! Người làm nhà kia!
 
      Nay ta đã thấy ngươi!
 
      Ngươi không làm nhà nữa.
 
      Ðòn tay ngươi bị gãy,
 
      Kèo cột ngươi bị tạn.
 
      Tâm ta đạt tịch diệt,
 
      Tham ái thảy tiêu vong.
 
      
       
      
      9. Ðại Phú,  
      Con Của Chưởng Khố
 
      
      Lúc  
      trẻ không phạm hạnh...
 
      
      Thế Tôn đã dạy câu này tại  
      Isipatana, liên quan đến  
      Mahàdhana (Ðại Phú) con của  
      chưởng khố.
 
      
      Ðại Phú sanh tại Ba-la-nại, nhà giàu, gia  
      sản trị giá tám trăm triệu của cải nhiều như thế, nên ông bà không cần  
      phải cho con làm việc gì khác hơn ngoài vui chơi thỏa thích. Do đó Ðại Phú  
      chỉ học hát và chơi đàn. Một nhà giàu khác trong thành cũng có tài sản tám  
      trăm triệu sanh bé gái. Vì đồng ý nghĩ nên cô bé cũng được cha mẹ chỉ cho  
      học ca hát và nhảy múa. Hai đứa trẻ lớn lên, họ cho thành hôn với nhau  
      theo nghi lễ tập tục. Cha mẹ hai bên qua đời khiến gia sản hai trẻ tăng  
      gấp đôi số tám trăm triệu.
 
      
      Thường lệ, mỗi ngày ba lần, con của chưởng  
      khố phải đến hầu vua. Một bọn bất lương trong thành khiếm cách rù quến Ðại  
      Phú để trục lợi. Chúng kiếm rượu và các thứ cần thiết, ngồi một chỗ rình  
      rập con đường Ðại Phú sắp đi qua. Thấy anh ta, chúng đến gần, lấy rượu ra  
      uống, cho muối và đường vào miệng, nhét rễ và củ hành vào răng nhai ngấu  
      nghiến rồi cất tiếng:
 
      
      - Hãy sống đến trăm tuổi, công tử con của  
      chưởng khố! Với sự đỡ đầu của công tử, chúng tôi sẽ được ăn uống thỏa  
      thuê!
      
      Ðại Phú ngạc nhiên hỏi tiểu đồng theo sau:
 
      
      - Mấy người này uống gì thế?
 
      
      - Thưa công tử, một loại rượu.
 
      
      - Ngon không?
 
      
      - Thưa công tử, trên thế gian này không gì  
      sánh bằng.
 
      
      - Thế thì ta cũng uống.
 
      
      Rồi Ðại Phú bảo tiểu đồng mang thêm một chút  
      rượu nữa... và uống hết. Chẳng bao lâu bọn bất lương biết rằng Ðại Phú đã  
      ghiền rượu. Chúng tụ tập quanh ông ta, càng lúc càng đông. Mỗi lần đi uống  
      anh phải tiêu một đến hai trăm đồng. Sau đó anh tập tành chất tiền từng  
      đống để gọi rượu và các thứ như:
 
      
      - Lấy tiền mua hoa về cho ta!
 
      
      - Cầm tiền, mang hương về cho ta.
 
      
      - Người này khéo đổ súc sắc, người kia nhảy  
      giỏi hát hay, người đó đàn tuyệt! Cho người này một ngàn, cho người kia  
      hai ngàn!
 
      
      Ném tiền qua cửa sổ như thế, chẳng bao lâu  
      anh đã phung phí hết gia sản tám trăm triệu của mình. Rồi tám trăm triệu  
      của nhà vợ cũng tan như mây khói. Ðại Phú bán hết ruộng đất, vườn tược, xe  
      cộ... luôn cả ly chén, khăn trải giường, áo khoác. Về già anh bán luôn căn  
      nhà, dắt vợ ra đi và trọ ven tường nhà người khác, tay cầm mảnh sành ăn  
      xin đầu đường xó chợ, kiếm chút cơm thừa canh cặn qua ngaỳ.
 
      
      Ngày kia, đứng trước cửa một ngôi nhà nghỉ,  
      anh nhận thức ăn thừa của mấy chú Sa-di và tập sự. Thế Tôn trông thấy thế  
      mỉm cười. Trưởng lão A-nan hỏi và được Ngài giải thích:
 
      
      - A-nan! Nhìn xem Ðại Phú, con của chưởng  
      khố! Anh đã tiêu hết gia sản gấp hai lần tám trăm triệu để bây giờ dắt vợ  
      đi ăn xin. Nếu hồi trẻ anh biết sử dụng đồng tiền để kinh doanh thì đã  
      thành vị chưởng khố đệ nhất của thành này; và nếu anh lìa bỏ thế gian  
      thành Tỳ-kheo sẽ đắc quả A-la-hán, còn vợ anh chứng Tam quả. Nếu ở tuổi  
      trung tuần, anh không tiêu phí tài sản và biết làm ăn thì sẽ trở thành đệ  
      nhị chưởng khố thành này; và nếu lìa bỏ thế gian thành Tỳ-kheo sẽ đắc Tam  
      quả, còn vợ anh sẽ đắc Nhị quả. Nếu cuối đời mình, anh mới biết chuyển  
      hướng như đã kể, thì sẽ thành đệ tam chưởng khố, hoặc chứng Nhị quả còn vợ  
      anh chứng Dự-lưu. Nhưng bây giờ anh đã đánh mất hết tài sản thuộc về cư  
      sĩ, cũng như quả vị của đạo. Anh ta không khác gì con cò mắc cạn trong ao.
 
      
      Rồi Phật đọc Pháp Cú:
 
      
      
      (155)  
      Lúc trẻ không phạm hạnh,
 
      Không tìm kiếm tiền bạc,
 
      Như cò già bên ao,
 
      Ủ rũ, không tôm cá.
 
      
      
      (156)  
      Lúc trẻ không phạm hạnh,
 
      Không tìm kiếm bạc tiền,
 
      Như cây cung bị gãy,
 
      Thở than những ngày qua.