3.7.4. How far to heaven?The king said: ‘How far is it, Nāgasena, from here to the Brahma world ?’ |
3.7.4. Bao xa để tới Cung Trời?Đức vua hỏi: ‘Này Nāgasena, từ đây đến cõi Phạm thiên bao xa? |
‘Very far is it, O king. If a rock, the size of an upper chamber, were to fall from there, it would take four months to reach the earth, though it came down eight-and-forty thousand leagues each day and night.’ |
Thưa đại vương, cõi Phạm Thiên rất là xa, nếu một tảng đá, có kích thước bằng một căn phòng trên cao, rơi xuống từ đó, , trong khi rơi xuống ngày đêm bốn mươi tám ngàn do-tuần thì mất bốn tháng mới có thể đến được trái đất.’ |
‘Good, Nāgasena! Now do not your people say that a Bhikkhu, who has the power of Iddhi and the mastery over his mind, can vanish from jambu-dīpa, and appear in the Brahma world, as quickly as a strong man could stretch forth his bent up arm, or bend it in again if it were stretched out? That is a saying I cannot believe. How is it possible that he could traverse so quickly so many hundreds of leagues?’ |
'Thưa tôn giả Nāgasena! Tốt lắm, chẳng phải các người nói rằng một vị tỳ kheo, người có năng lực thần thông và khả năng làm chủ tâm của mình, có thể biến mất khỏi xứ jambu-dīpa (đảo Jambu, tức là bán đảo Ấn Độ), và xuất hiện trong cõi Phạm thiên, nhanh như một người đàn ông lực lưỡng có thể duỗi cánh tay đang co lại của mình, hoặc uốn cong nó lại nếu nó bị kéo dài ra. Đó là một câu nói mà trẫm không thể tin được. Làm thế nào mà anh ta có thể di chuyển hàng trăm dặm nhanh như vậy?’ |
The Elder replied: ‘In what district, O king, were you born?’ |
Vị Trưởng Lão trả lời: "Thưa đại vương, ngài sinh ở đâu?" |
‘There is an island called Alasanda. It was there I was born.’ |
Thưa ngài, có hòn đảo tên là Alasandā. Đó là nơi Trẫm sanh ra |
‘And how far is Alasanda from here?’ |
'Thưa đại vơng, từ đây đến đảo Alasand bao xa?" |
‘Oh, yes.’ |
'Thưa tôn giả, trẫm nhớ' Tâu đại vương, như vậy là ngài đã di chuyển khoảng cách hai trăm do-tuần một cách nhẹ nhàng. |
‘Very good, Nāgasena!’ |
"Thật tuyệt vời, thưa tôn giả Nāgasena!’ |
3.7.5. How fast is rebirth?The king said: ‘If one man, Nāgasena, were to die here and be reborn in the Brahma world, and another were to die here and be reborn in Kashmir, which of the two would arrive first?’ |
33.7.5. Sự tái sinh nhanh như thế nào?Đức vua hỏi: “Thưa tôn giả Nāgasena, nếu một người chết ở đây và sinh vào cõi Phạm thiên, và một người khác chết ở đây và tái sinh xứ Kashmir, thì ai sẽ tái sinh trước?” |
‘Both together, O king.’ |
'Thưa đại vương, cả hai cùng tái sinh thời gian bằng nhau' |
‘Just so, great king, would it take no longer to be reborn in the Brahma world than to be reborn in Kashmir. And tell me, O king. Suppose two birds were flying, and one were to alight on a tall tree, and the other on a small shrub. If they settled both at the same moment, whose shadow would first fall to the ground?’ |
Cũng vậy, tâu đại vương, sự tái sinh vào cõi Phạm thiên không lâu hơn là tái sinh vào Kashmir. Thưa đại vương, hãy nói cho bần tăng biết. Giả sử có hai con chim đang bay, một con đậu trên cây cao, con kia đậu trên bụi cây nhỏ. Nếu chúng đồng thời đáp xuống, bóng con nào hiện ở mặt đất trước, và bóng con nào hiện mặt đất sau?” |
‘The two shadows would fall together.’ |
'Thưa tôn giả, cả hai cái bóng cùng hiện ở mặt đắt một lúc.' |
3.7.6. Kinds of wisdom The king said: ‘Venerable Nāgasena, how many kinds of wisdom are there?’ |
3.7.6. Nhân sanh giác ngộ Đức vua hỏi: ‘Thưa Tôn giả Nāgasena, có bao nhiêu pháp trợ duyên cho trí tuệ? |
‘And by how many kinds of Wisdom does one become wise?’ |
Và với bao nhiêu pháp trọ duyên Trí tuệ thì người ta trở lên thông thái ? |
‘By one: that is to say by the kind of wisdom called “the investigation of the Truth.”’ |
Tâu đại vương, một người được giác ngộ với một giác chi là trạch pháp giác chi.” |
‘Then why is it said there are seven?’ |
Tại sao vừa rồi tôn giả nói có bảy ? |
‘Certainly not.’ |
"Dĩ nhiên là không" |
‘Very good, Nāgasena!’ |
Ngài thật là khôn khéo |
3.7.7. Is merit or demerit greater?The king said: ‘Which, Nāgasena, is there more of, merit or demerit?’ |
3.7.7. Phước hay tội lớn hơn?Đức vua hỏi rằng: “Thưa ngài Nāgasena, phước và tội cái nào nhiều hơn?” |
‘Merit.’ |
"Phước." |
‘He who does wrong, O king, comes to feel remorse, and acknowledges his evil-doing. So demerit does not increase. But he who does well feels no remorse, and feeling no remorse gladness will spring up within him, and joy will arise to him thus gladdened, and so rejoicing all his frame will be at peace, and being thus at peace he will experience a blissful feeling of content, and in that bliss his heart will be at rest, and he whose heart is thus at rest knows things as they really are. For that reason merit increases. A man, for example, though his hands and feet are cut off, if he gave to the Blessed One merely a handful of lotuses, would not enter purgatory for ninety-one Kalpas. That is why I said, O king, that there is more merit than demerit.’ |
‘Tâu đại vương, kẻ làm điều sai trái, sẽ cảm thấy hối hận và thừa nhận việc làm sai trái của mình. Vì vậy, tội lỗi không tăng lên. Nhưng người làm điều tốt không cảm thấy hối hận, và đối với người không hối hận, hân hoan sanh khởi; đối với người được hân hoan, hỷ sanh khởi; đối với người có tâm hỷ, thân khinh an; thân được khinh an thì cảm giác sự an lạc; có sự an lạc, tâm được định tĩnh; đã được định tĩnh, thì nhận biết mọi thứ như chúng thực sự là. Vì lý do đó, phước sẽ tăng lên. Ví dụ, một người đàn ông, mặc dù tay và chân của mình bị chặt đứt, nếu anh ta chỉ dâng cho Đức Thế Tôn một nắm hoa sen, sẽ không vào địa ngục trong chín mươi mốt Kiếp. Đó là lý do tại sao bần tăng nói rằng có nhiều phước hơn là tội lỗi. |
‘Very good, Nāgasena!’ |
"Ngài thật là khôn khéo" |
3.7.8. Intentional wrong doingThe king said: ‘Whose, Nāgasena, is the greater demerit—his who sins consciously, or his who sins inadvertently?’ |
3.7.8. Có tác ý làm saiĐức vua hỏi rằng: “Thưa ngài Nāgasena, người làm việc bất thiện mà biết và người làm việc bất thiện mà không biết, người nào có tội nhiều hơn?” |
‘He who sins inadvertently, O king, has the greater demerit.’ |
"Tâu đại vương, người nào làm việc bất thiện mà không biết, người ấy có tội nhiều hơn.” |
‘In that case, reverend Sir, we shall punish doubly any of our family or our court who do wrong unintentionally.’ |
Trong trường hợp đó, thưa Ngài, chúng tôi sẽ trừng phạt gấp đôi bất kỳ thành viên nào trong hoàng cung hoặc trong triều đình quan đại thần nào vô ý làm sai. |
‘But what do you think, O king? If one man were to seize hold intentionally of a fiery mass of metal glowing with heat, and another were to seize hold of it unintentionally, which would be more burnt?’ |
"Tâu đại vuong, bệ hạ nghĩ sao? Nếu một người cố ý nắm lấy một khối kim loại đang cháy rực, và một người khác vô tình nắm lấy nó, thì ai sẽ bị bỏng nhiều hơn?" |
‘The one who did not know what he was doing.’ |
"Thưa Tôn Giả, người nào cầm lấy khối kim loại được nung nóng mà không biết, thì người ấy bị phỏng với mức độ trầm trọng hơn." |
‘Well, it is just the same with the man who does wrong.’ |
“Tâu đại vương, tương tự như thế người nào làm việc bất thiện mà không biết, người ấy có tội nhiều hơn.” |
‘Very good, Nāgasena!’ |
Thưa Tôn Giả Nāgasena Ngài thật là khôn khéo" |
3.7.9. TravellingThe king said: ‘Is there any one, Nāgasena, who can go with this bodily frame to Uttara-kuru or to the Brahma world, or to any other of the four great continents (into which the world is divided)?’ |
3.7.9. Du HànhĐức vua hỏi: ‘Thưa ngài Nāgasena, có ai có thể phân thân mà đi đến Uttara-kuru hay đến cõi Phạm Thiên, hay đến bất kỳ một trong bốn châu lục lớn (nơi thế giới được chia thành) không?’ |
‘Yes, there are such people.’ |
"Tâu đại vương, có người có thể có" |
‘Do you recollect, O king, having ever jumped a foot or two feet across the ground?’ |
‘Tâu đại vương, đại vương có nhớ đã từng nhảy cao một hoặc hai feet trên mặt đất không?’ |
‘Yes, Nāgasena, I can jump twelve feet.’ |
‘Vâng, thưa Tôn Giả Nāgasena, trẫm có thể nhảy xa mười hai feet.’ |
‘But how?’ |
"Nhưng như thế nào ?" |
‘Just so, O king, can the Bhikkhu, who has the power of Iddhi, and has the mastery over his mind, when he has made his mind rise up to the occasion, travel through the sky by means of his mind.’ |
‘Tâu Đức Vua, cũng như vậy, vị Tỳ kheo có năng lực thần thông và làm chủ được tâm mình, khi đã đưa tâm mình đến đúng lúc, có thể du hành trên bầu trời bằng năng lực của tâm mình.’ |
‘Very good, Nāgasena!’ |
"Thật là tuyệt vời, thưa Tôn Giả Nāgasena!" |
3.7.10. Long bonesThe king said: ‘Your people say there are bones even a hundred leagues long. Now there is no tree even one hundred leagues in length, how then can there be bones so long?’ |
3.7.10. Xương dàiĐức vua hỏi: ‘“Thưa ngài Nāgasena, ngài nói như vầy: Có những khúc xương dài đến một trăm do-tuần. Bây giờ không có cây nào dài đến một trăm do-tuần, vậy thì làm sao có thể có những khúc xương dài như vậy?’ |
‘But tell me, O king. Have you not heard of fishes in the sea five hundred leagues in length?’ |
‘Tâu đại vương. Hãy nói cho bần tăng biết. Ngài có từng nghe nói đến những con cá dài năm trăm dặm dưới biển không?’ |
‘Yes. I have heard of such.’ |
“Thưa tôn giả, đúng vậy. Trẫm đã được nghe.” |
‘If so, could they not have bones a hundred leagues long?’ |
“Tâu đại vương, phải chăng những khúc xương của con cá dài năm trăm do-tuần cũng sẽ có những khúc xương dài năm trăm do-tuần?” |
‘Very good, Nāgasena!’ |
"Thật là tuyệt vời, thưa tôn giả Nāgasena!’ |
3.7.11. Cessation of breathingThe king said: ‘Your people, Nāgasena, say that it is possible to suppress the inhaling and exhaling (of one’s breath).’ |
3.7.11. Sự ngưng hơi thở vào và raĐức vua hỏi: ‘Thưa ngài Nāgasena, những người đệ tử của ngài nói rằng có thể ngưng việc hít vào và thở ra (hơi thở của một người).’ |
‘Yes, that can be done.’ |
“Tâu đại vương, đúng vậy. Một người tu tập có thể ngưng các hơi thở ra hơi thở vào của họ.” |
‘Yes.’ |
Có, trẫm có nghe. |
‘Then surely if that sound would stop at the mere bending of the body of one who is untrained alike in body, in conduct, in mind, and in wisdom—why should it not be possible for the breathing of one trained in all these respects, and who has besides reached up to the fourth stage of the ecstatic contemplation, to be suppressed?’ |
‘Tâu đại vương, vậy thì chắc chắn nếu âm thanh đó dừng lại ở việc uốn cong cơ thể của một người chưa được tu tập về cả thân, giới, và định—tại sao hơi thở của một người được tu tập về thân, về giới, về định, và người đã chứng đạt đến giai đoạn thứ tư của sự tu thiền tức là chứng đạt tứ thiền, phải chăng hơi thở ra hơi thở vào của người này sẽ không được ngưng lại?” |
‘Very good, Nāgasena!’ |
'Thật là tuyệt vời, thưa tôn giả Nāgasena!’ |
3.7.12. OceanThe king said: ‘There is the expression ocean, Nāgasena. Why is the water called ocean?’ |
3.7.12. Đại dươngĐức vua đã nói rằng: “Thưa ngài Nāgasena, vì lý do gì nước được gọi là ‘đại dương’?” |
The Elder replied : ‘Because there is just as much salt as water, O king, and just as much water as salt, therefore is it called ocean.’ |
Trưởng lão đáp rằng: ‘Bởi vì lượng muối bằng lượng nước, thưa đại vương, và lượng nước bằng lượng muối, nên nó được gọi là đại dương.’ |
‘Very good, Nāgasena!’ |
"Thật là tuyệt vời, thưa tôn giả Nāgasena!’ |
3.7.13. The taste of salt^The king said: ‘Why, Nāgasena, is the ocean all of one taste, the taste of salt?’ |
3.7.13. Vị mặn của muốiĐức vua đã nói rằng: “Thưa ngài Nāgasena, vì sao mà đại dương có một vị mặn của muối?” |
‘Because the water in it has stood so long, therefore it is all of one taste, the taste of salt.’ |
“Tâu đại vương, bởi vì nước trong đại dương đã được tồn tại từ lâu là đối với nước của đại dương thì có một vị là vị mặn của muối.” |
‘Very good, Nāgasena!’ |
"Thật là tuyệt vời, thưa tôn giả Nāgasena!" |
3.7.14. DividingThe king said: ‘Can even the most minute thing, Nāgasena, be divided?’ |
3.7.14. Phân chiaĐức vua hỏi: ‘Này tôn giả Nāgasena, ngay cả vật nhỏ nhất cũng có thể phân chia được sao?’ |
‘Yes, it can.’ |
"Thưa đại vương, có thể được |
‘Truth (Dhamma), O king, is the most minute and subtle. But this is not true of all qualities (Dhammā). Subtleness or the reverse are epithets of qualities. But whatever can be divided that can wisdom (Paññā) divide, and there is no other quality which can divide wisdom.’ |
Tâu đại vương, Pháp (Dhamma) là cái nhỏ nhất và vi tế nhất. Nhưng điều này không đúng với tất cả các Pháp (Dhammā). Sự vi tế hay thô cứng lại là những tính từ diễn tả của các Pháp. Nhưng bất cứ điều gì có thể phân chia được thì trí tuệ (Paññā) có thể phân chia, tuy nhiên không có vật nào khác có thể phân chia được trí tuệ. |
‘Very good, Nāgasena!’ |
'Thật tuyệt vời, thưa tôn giả Nāgasena!' |
3.7.15. Perception, reason, and the soulThe king said: ‘These three, Nāgasena—perception, and reason, and the soul in a being—are they all different both in letter and in essence, or the same in essence differing only in the letter?’ |
3.7.15. Thức, tuệ, sanh mạngĐức vua hỏi: ‘Ba điều này, thưa tôn giả Nāgasena—thức, tuệ và tâm trong một chúng sinh—tất cả chúng đều khác nhau về cả chữ nghĩa lẫn bản chất, hay là giống nhau về bản chất chỉ khác nhau về chữ nghĩa?’ |
‘Recognition, O king, is the mark of perception, and discrimination of reason, and there is no such thing as a soul in beings.’ |
‘Tâu đại vương, sự nhận biết là dấu hiệu của nhận thức và sự phân biệt là của tuệ, và không có thứ gì như linh hồn trong chúng sinh.’ |
‘But if there be no such thing as a soul, what is it then which sees forms with the eye, and hears sounds with the ear, and smells odours with the nose, and tastes tastes with the tongue, and feels touch with the body, or perceives qualities with the mind?’ |
Nhưng nếu không có thứ gọi là mạng sống, vậy thì cái gì nhìn thấy hình dạng bằng mắt, nghe âm thanh bằng tai, ngửi mùi bằng mũi, nếm vị bằng lưỡi, cảm nhận xúc giác bằng cơ thể, hay nhận thức cảnh pháp bằng tâm? |
The Elder replied: ‘If there be a soul (distinct from the body) which does all this, then if the door of the eye were thrown down (if the eye were plucked out) could it stretch out its head, as it were, through the larger aperture and (with greater range) see forms much more clearly than before? Could one hear sounds better if the cars were torn away, or smell better if the nose were cut off, or taste better if the tongue were pulled out, or feel touch better if the body were destroyed?’ |
Trưởng lão trả lời: ‘Nếu có một linh hồn (khác với cơ thể) làm tất cả những điều này, thì nếu cánh cửa của mắt bị hạ xuống (nếu mắt bị lấy ra) thì nó có thể duỗi đầu ra, như thể, qua lỗ mở lớn hơn và (với phạm vi lớn hơn) có thể nhìn thấy các hình dạng rõ ràng hơn nhiều so với trước đây không? Người ta có thể nghe âm thanh tốt hơn nếu tai bị xé toạc, hoặc ngửi tốt hơn nếu mũi bị cắt đứt, hoặc nếm tốt hơn nếu lưỡi bị kéo ra, hoặc cảm thấy xúc giác tốt hơn nếu cơ thể bị phá hủy không?’ |
‘Certainly not, Sir.’ |
'Thưa ngài, chắc chắn là không.' |
3.7.16. A hard thingThe Elder said: ‘A hard thing there is, O king, which the Blessed One has done.’ |
3.7.16. Việc khóTrưởng lão nói: ‘Tâu Đại Vương, có một việc khó mà Đức Thế Tôn đã làm.’ |
‘And what is that?’ |
'Đó là điều gì thưa ngài? |
‘Give me an illustration.’ |
Hãy cho trẫm một minh họa |
‘Impossible, Sir.’ |
'Không thể được thưa ngài' |
‘Very good, Nāgasena!’ |
'Thật là tuyệt vời, thưa tôn giả Nāgasena!’ |
3.8. What is the time?The Elder said: ‘Do you know, O king, what time it is now?’ |
3.8. Mấy giờ rồi?Vị trưởng lão hỏi: “Tâu đại vương, đại vương có biết bây giờ là mấy giờ không?” |
‘Yes, Sir, I know. The first watch of the night is now passed. The middle watch is now going on. The torches are lit. The four banners are ordered to be raised, and appropriate gifts to be issued to you from the treasury.’ |
‘Vâng, thưa ngài, trẫm biết. Canh đầu tiên của đêm đã qua. Canh giữa đang diễn ra. Các ngọn đuốc đã được thắp sáng. Bốn lá cờ được lệnh kéo lên, và các vật dụng của hoàng gia sẽ từ nhà kho mang đến.’ |
The Yonakas said: ‘Very good, great king. Most able is the Bhikkhu.’ |
Những người Yonakas đã nói rằng: ‘Rất tốt, thưa đức vua thật là khôn ngoan. Vị Tỳ kheo là người trí tuệ.’ |
‘Yes, my men. Most able is the Bhikkhu. Were the master like him and the pupil like me, a clever scholar would not take long in getting at the truth.’ |
Đúng vậy, này các khanh. Người có tri tuệ nhất là Tỳ kheo. Nếu có người thầy như Ngài và học trò như trẫm, một học giả thông minh sẽ không mất nhiều thời gian để tìm hiểu được giáo pháp.' |
Then the king, pleased with the explanations given of the questions he had put, had Nāgasena robed in an embroidered cloak worth a hundred thousand, and said to him: ‘Venerable Nāgasena, I hereby order that you shall be provided with your daily meal for eight hundred days; and give you the choice of anything in the palace that it is lawful for you to take.’ And when the Elder refused, saying he had enough to live on, the king rejoined: ‘I know, Sir, you have enough to live on. But you should both protect me and protect yourself—yourself from the possibility of a public rumour to the effect that you convinced me but received nothing from me, and me from the possibility of a public rumour that though I was convinced I would give nothing in acknowledgement.’ |
Sau đó, đức vua, hài lòng với những lời giải thích được đưa ra cho những câu hỏi mà đức vua đã đặt ra, đức vua đã ban cho vị Trưởng Lão Nāgasena mặc một chiếc áo choàng thêu trị giá một trăm ngàn, và nói với Trưởng Lão: 'Thưa ngài Nāgasena, trẫm sẽ cho chuẩn bị cung cấp một trăm lẻ tám bữa ăn hàng ngày của Ngài ; và Ngài được lựa chọn bất cứ thứ gì trong cung điện Ngài được phép lấy.' Và khi Trưởng lão từ chối, nói rằng mình đã đủ để sống, đức vua đáp lại: 'Trẫm biết, thưa ngài, ngài đã đủ để sống. Nhưng ngài vừa phải bảo vệ trẫm vừa phải bảo vệ chính mình - bản thân ngài khỏi khả năng có tin đồn rằng ngài đã thuyết phục trẫm nhưng không nhận được gì từ trẫm, và trẫm khỏi khả năng có tin đồn rằng mặc dù trẫm đã bị thuyết phục nhưng trẫm đã không đưa ra bất cứ thứ gì để thừa nhận.' |
‘Let it be as you wish, great king,’ was the reply. |
Trưởng Lão trả lời: 'Xin hãy như ý ngài'. |
Then the king said: ‘As the lion, the king of beasts, when put into a cage, though it were of gold, would turn his face longingly to the outside; even so do I, though I dwell in the world, turn my thoughts longingly to the higher life of you recluses. But, Sir, if I were to give up the household life and renounce the world it would not be long I should have to live, so many are my foes.’ |
Bấy giờ đức vua nói: ‘Giống như sư tử, vua của các loài thú, khi bị nhốt vào lồng, mặc dù lồng bằng vàng, sẽ hướng mặt ra ngoài một cách thèm muốn; cũng vậy, mặc dù trẫm sống trên thế gian, trẫm cũng hướng suy nghĩ của mình một cách thèm muốn đến cuộc sống của các bậc ẩn sĩ. Nhưng, thưa Ngài, nếu trẫm từ bỏ cuộc sống gia đình và từ bỏ thế gian, trẫm sẽ không còn sống được bao lâu, vì có quá nhiều kẻ thù.’ |
Then the venerable Nāgasena, having thus solved the questions put by Milinda the king, arose from his seat and departed to the hermitage. |
Sau khi trả lời xong những câu hỏi của vua Milinda, tôn giả Nāgasena đứng dậy khỏi chỗ ngồi và đi đến ẩn thất. |
Not long after Nāgasena had gone, Milinda the king thought over to himself whether he had propounded his questions rightly, and whether the replies had been properly made. And he came to the conclusion that to questions well put replies had been well given. And Nāgasena likewise, when he reached the hermitage, thought the matter over to himself, and concluded that to questions well put right replies had been given. |
Không lâu sau khi Trưởng Lão Nāgasena đi, vua Milinda tự hỏi liệu mình đã nêu câu hỏi đúng chưa, và liệu câu trả lời đã được đưa ra đúng chưa. Và vua đi đến kết luận rằng đối với những câu hỏi được đặt ra đúng đắn, câu trả lời đã được đưa ra đúng đắn. Và Trưởng Lão Nāgasena cũng vậy, khi Ngài đến ẩn thất, tự nghĩ về vấn đề này, và kết luận rằng đối với những câu hỏi được đặt ra đúng đắn, câu trả lời đã được đưa ra đúng đắn. |
Now Nāgasena robed himself early in the morning, and went with his bowl in his hand to the palace, and sat down on the seat prepared for him. And Milinda saluted the venerable Nāgasena, and sat down respectfully at his side, and said to him: ‘Pray do not think, Sir, that I was kept awake all the rest of the night exulting in the thought of having questioned you. I was debating with myself as to whether I had asked aright, and had been rightly answered. And I concluded that I had.’ |
Sau đêm đó, buổi sáng sớm Trưởng Lão Nāgasena đã mặc y, và đi đến cung điện với bình bát trên tay, và ngồi xuống trên chỗ ngồi đã được chuẩn bị sẵn cho mình. Vua Milinda đã chào hỏi Trưởng Lão Nāgasena, và cung kính ngồi xuống bên cạnh Trưởng Lão, vua nói với ngài: 'Xin đừng nghĩ rằng, thưa ngài, trẫm đã thức suốt đêm còn lại để vui mừng vì nghĩ rằng đã hỏi ngài. Trẫm đã tranh luận với chính mình về việc liệu trẫm đã hỏi đúng và đã được Ngài trả lời đúng hay không. Và trẫm kết luận rằng trẫm đã làm vậy.' |
And the Elder on his part said: ‘Pray do not suppose, great king, that I passed the rest of the night rejoicing at having answered all you asked. I too was thinking over what had been said by us both. And I came to the result that you had questioned well, and that I had rightly answered.’ |
Trưởng lão trả lời: ‘Tâu đại vương ngài đừng nghĩ rằng bần tăng đã vui mừng suốt đêm vì đã trả lời tất cả những gì đại vương hỏi. Bần tăng cũng đã suy nghĩ về những gì cả hai chúng ta đã nói. Và đã đi đến kết quả là ngài đã hỏi tốt, và tôi đã trả lời đúng.’ |
Thus did these two great men congratulate each the other on what he had spoken well. |
Thật vậy, hai bậc xuất chúng này đã chúc mừng nhau về những điều tốt đẹp mà họ đã nói. |
Here ends the answering of the problems of the questions of Milinda. |
Đến đây kết thúc phần trả lời các câu hỏi của vua Milinda |
4.1. Eight places to avoid when discussing
Milinda tried to test great Nāgasena’s skill. Leaving him not, again and yet again, He questioned and cross-questioned him, until His own skill was proved foolishness. Then he became a student of the Holy Writ. All night, in secrecy, he pondered o’er The ninefold Scriptures, and therein he found Dilemmas hard to solve, and full of snares. And thus he thought: ‘The conquering Buddha’s words Are many-sided, some explanatory, Some spoken as occasion rose to speak, Some dealing fully with essential points. Through ignorance of what, each time, was meant There will be strife hereafter as to what The King of Righteousness has thus laid down In these diverse and subtle utterances. Let me now gain great Nāgasena’s ear, And putting to him that which seems so strange And hard—yea contradictory—get him To solve it. So in future times, when men Begin to doubt, the light of his solutions Shall guide them, too, along the path of Truth.’ |
4.1. Tám nơi cần tránh khi thảo luậnBậc thầy của ngôn từ và ngụy biện, thông minh và khôn ngoan |
Now Milinda the king, when the night was turning into day, and the sun had risen, bathed, and with hands clasped and raised to his forehead, called to mind the Buddhas of the past, the present, and the future, and solemnly undertook the observance of the eightfold vow, saying to himself: ‘For seven days from now will I do penance by taking upon myself the observance of the eight rules, and when my vow is accomplished will I go to the teacher and put to him, as questions, these dilemmas.’ So Milinda, the king laid aside his usual dress, and put off his ornaments; and clad in yellow robes, with only a recluse’s turban on his head, in appearance like a hermit, did he carry out the eightfold abstinence, keeping in mind the vow—’For this seven days I am to decide no case at law. I am to harbour no lustful thought, no thought of ill-will, no thought tending to delusion. Towards all slaves, servants, and dependents I am to show a meek and lowly disposition. I am to watch carefully over every bodily act, and over my six organs, of sense. And I am to fill my heart with thoughts of love towards all beings.’ Keeping this eightfold vow, establishing his heart in this eightfold moral law, for seven days he went not forth. But as the night was passing into day, at sunrise of the eighth day, he took his breakfast early, and then with downcast eyes and measured words, gentle in manner, collected in thought, glad and pleased and rejoicing in heart, did he go to Nāgasena. And bowing down at his feet, he stood respectfully on one side, and said: |
Bấy giờ, vua Milinda, khi đêm đã chuyển sang ngày, và mặt trời đã mọc, tắm rửa, và với hai tay chắp lại và đưa lên trán, nhớ đến các vị Phật trong quá khứ, hiện tại và tương lai, và long trọng thực hiện lời nguyện tám phần, tự nhủ: 'Trong bảy ngày kể từ bây giờ, ta sẽ sám hối bằng cách tự mình thực hiện tám điều luật, và khi lời nguyện của ta đã hoàn thành, ta sẽ đến gặp vị thầy và đặt ra những câu hỏi, những tình huống khó xử này.' Vì vậy, vua Milinda đã cởi bỏ trang phục thường ngày của mình, và cởi bỏ đồ trang sức; và mặc áo choàng vàng, chỉ đội khăn xếp của một ẩn sĩ trên đầu, trông giống như một ẩn sĩ, ông đã thực hiện tám phần kiêng cữ, ghi nhớ lời nguyện—'Trong bảy ngày này, ta sẽ không quyết định bất kỳ vụ kiện nào. Ta sẽ không nuôi dưỡng bất kỳ ý nghĩ dâm dục nào, không có ý nghĩ xấu xa nào, không có ý nghĩ hướng đến ảo tưởng nào. Đối với tất cả nô lệ, người hầu và người phụ thuộc, ta phải tỏ ra thân ái và khiêm nhường. Ta phải cẩn thận theo dõi mọi hành vi của thân và sáu giác quan của mình. Và ta phải lấp đầy trái tim mình bằng những sự từ ái yêu thương đối với tất cả chúng sinh. Giữ lời thề tám phần này, thiết lập trái tim mình trong luật đạo đức tám phần này, trong bảy ngày, vua không ra đi. Nhưng khi đêm sắp chuyển sang ngày, vào lúc mặt trời mọc của ngày thứ tám, vua dùng bữa sáng sớm, rồi với đôi mắt nhìn xuống và lời nói điềm tĩnh, thái độ nhẹ nhàng, tập trung suy nghĩ, vui vẻ và hài lòng và hân hoan trong lòng, vua đã đến gặp Trưởng Lão Nāgasena. Và cúi đầu dưới chân ngài, vua đứng một bên một cách cung kính, và nói: |
‘There is a certain matter, venerable Nāgasena, that I desire to talk over with you alone. I wish no third person to be present. In some deserted spot, some secluded place in the forest, fit in all the eight respects for a recluse, there should this point of mine be put. And therein let there be nothing hid from me, nothing kept secret. I am now in a fit state to hear secret things when we are deep in consultation. And the meaning of what I say can be made clear by illustration. As it is to the broad earth, O Nāgasena, that it is right to entrust treasure when occasion arises for laying treasure by, so is it to me that it is right to entrust secret things when we are deep in consultation.’ |
‘Thưa Trưởng Lão Nāgasena , có một vấn đề mà trẫm muốn nói riêng với ngài. Trẫm không muốn có người thứ ba có mặt. Ở một nơi vắng vẻ nào đó, một nơi hẻo lánh nào đó trong rừng, phù hợp với tất cả tám khía cạnh của một ẩn sĩ, thì điểm này của trẫm sẽ nêu ra. Và ở đó, không có gì phải che giấu trẫm, không có gì phải giữ bí mật. Bây giờ trẫm đang ở trong trạng thái phù hợp để nghe những điều thâm sâu khi chúng ta đang tham vấn sâu sắc. Và ý nghĩa của những gì trẫm nói có thể được làm rõ bằng các minh họa. Thưa Trưởng Lão Nāgasena, cũng như đối với trái đất rộng lớn, việc giao phó kho báu khi có cơ hội để cất giữ kho báu là đúng, thì đối với trẫm, việc giao phó những điều thâm sâu khi chúng ta tham vấn là đúng.’ |
Then having gone with the master to a secluded spot he further said: ‘There are eight kinds of places, Nāgasena, which ought to be altogether avoided by a man who wants to consult. No wise man will talk a matter over in such places, or the matter falls to the ground and is brought to no conclusion. And what are the eight? Uneven ground, spots unsafe by fear of men, windy places, hiding spots, sacred places, high roads, light bambū bridges, and public bathing places.’ |
Sau đó, cùng với Trưởng Lão đi đến một nơi vắng vẻ, đức vua nói thêm: ‘Bạch Trưởng Lão Nāgasena, có tám loại nơi chốn mà một người muốn tham vấn phải tránh xa hoàn toàn. Không một người thông thái nào sẽ bàn bạc vấn đề ở những nơi như vậy, nếu vấn đề đã được thảo luận sẽ bị đổ vỡ, và không được đưa ra kết luận. Và tám loại đó là gì? Đất gồ ghề, những nơi không an toàn vì sợ người, những nơi có gió, những nơi che kín, những nơi của Chư Thiên, những đường lộ cao, trên một cây cầu không vững chắc, và những bến nước.’ |
The Elder asked: ‘What is the objection to each of these?’ |
Trưởng lão hỏi: “Có gì sai đối với mỗi điều này?” |
The king replied: ‘On uneven ground, Nāgasena, The matter discussed becomes jerky, verbose, and diffuse, and comes to nothing. In unsafe places the mind is disturbed, and being disturbed does not follow the point clearly. In windy spots the voice is indistinct. In hiding places there are eavesdroppers. In sacred places the question discussed is apt to be diverted to the serious surroundings. On a high road it is apt to become frivolous, on a bridge unsteady and wavering, at a public bathing place the discussion would be matter of common talk. Therefore is it said: |
Đức vua trả lời: ‘Thưa Tôn giảNāgasena, Trên mặt đất gồ ghề vấn đề thảo luận trở nên khó khăn, dài dòng, lan man, và không đi đến đâu cả. Ở những nơi không an toàn, tâm trí bị xáo trộn, và bị xáo trộn không theo dõi được vấn đề một cách rõ ràng. Ở những nơi có gió, giọng nói không rõ ràng. Ở những nơi ẩn núp có những kẻ nghe lén. Ở những nơi linh thiêng, vấn đề được thảo luận có xu hướng bị chuyển hướng sang môi trường nghiêm túc. Trên một con đường lộ cao, nó có xu hướng trở nên phù phiếm, trên một cây cầu không vững chắc và dao động, tại bến nước công cộng, cuộc thảo luận sẽ trở thành vấn đề nói chuyện thông thường. Do đó, người ta nói rằng: |
And hiding places, and god-haunted shrines, High roads, and bridges, and all bathing ghāts— These eight avoid when talking of high things.”’ |
Và những nơi ẩn náu, và những đền thờ bị thần linh ám ảnh, Những con đường cao, những cây cầu, và tất cả những bến nước tắm— Tám điều này cần tránh khi nói về những điều thâm sâu.”’ |
4.2. Kinds of people who spoil discussions‘There are eight kinds of people, Nāgasena, who when talking a matter over, spoil the discussion. And who are the eight? He who walks in lust, he who walks in ill-will, he who walks in delusion, he who walks in pride, the greedy man, the sluggard, the man of one idea, and the fool.’ |
4.2. Những loại người làm trở ngại cuộc thảo luận‘Thưa tôn giả Nāgasena, có tám loại người khi nói về một vấn đề, làm trở ngại cuộc thảo luận. Và tám loại người đó là ai? Hạng có tánh ái luyến, hạng có tánh sân, hạng có tánh si, hạng có tánh ngã mạn, hạng tham lam, hạng lười biếng, hạng suy nghĩ một chiều, hạng ngu dốt. Tám hạng người này làm hỏng cuộc thảo luận.' |
‘What is the objection to each of these?’ asked the Elder. |
Vị trưởng lão hỏi rằng: “Những người ấy làm điều gì sai trái?” |
‘The first spoils the discussion by his lust, the next by his ill-will, the third by his delusions, the fourth by his pride, the fifth by his greed, the sixth by his sloth, the seventh by his narrowness, and the last by his folly. Therefore is it said: |
‘Người đầu tiên làm hỏng cuộc thảo luận bằng dục vọng của mình, người tiếp theo bằng ác ý của mình, người thứ ba bằng ảo tưởng của mình, người thứ tư bằng lòng kiêu hãnh của mình, người thứ năm bằng lòng tham của mình, người thứ sáu bằng sự lười biếng của mình, người thứ bảy bằng sự hẹp hòi của mình, và người cuối cùng bằng sự điên rồ của mình. Do đó, người ta nói rằng: |
The proud, the greedy, or the slothful man, The man of one idea, and the poor fool— These eight are spoilers of high argument.”’ |
“
Kẻ kiêu ngạo, kẻ tham lam, hoặc kẻ lười biếng, Kẻ chỉ có ý tưởng một chiều, và kẻ ngu ngốc tội nghiệp— Tám điều này là kẻ phá hỏng cuộc tranh luận cao cả.” |
4.3. Kinds of people who spill secrets‘There are nine kinds of people, Nāgasena, who let out a secret that has been talked over with them, and treasure it not up in their hearts. And who are the nine? the lustful man reveals it in obedience to some lust, the ill-tempered man in consequence of some ill-will, the deluded man under some mistake. The timid man reveals it through fear, and the man greedy for gain to get something out of it. A woman reveals it through infirmity, a drunkard in his eagerness for drink, a eunuch because of his imperfection, and a child through fickleness. Therefore is it said: |
4.3. Những loại người tiết lộ bí mậtHạng có tánh ái luyến tiết lộ nó vì tuân theo một số ham muốn, hạng có tánh sân tính tiết lộ nó vì hậu quả của một số ác ý, hạng có tánh si người bị lừa dối do vô minh., hạng hèn nhát người nhút nhát tiết lộ nó vì sợ hãi, người tham lam lợi nhuận để có được một cái gì đó từ nó, phụ nữ tiết lộ nó vì bản tánh của họ, hạng nghiện ngập say rượu vì sự kích thích của rượu,, hạng vô căn vì sự không hoàn hảo của mình, trẻ con một đứa trẻ vì sự thay đổi.” Do đó, có câu nói |
The timid man, and he who seeks for gain, A woman, drunkard, eunuch, or a child— These nine are fickle, wavering, and mean. When secret things are talked over to them They straightway become public property.”’ |
Người hèn nhát, và người xem trọng vật chất, Một người phụ nữ, người say rượu, hoạn quan, hoặc một đứa trẻ— Chín người này là những kẻ hay thay đổi, dao động và hèn hạ. Khi những điều bí mật được nói với họ Họ ngay lập tức trở thành cái loa công cộng.”’ |
4.4. Ripening insight‘There are eight causes, Nāgasena, of the advance, the ripening of insight. And what are the eight? the advance of years, the growth of reputation, frequent questioning, association with teachers, one’s own reflection, converse with the wise, cultivation of the loveable, and dwelling in a pleasant land. Therefore is it said: |
4.4. Sự chín muồi của tuệ giácThưa tôn giả Nāgasena, có tám nguyên nhân của sự tiến bộ, sự chín muồi của tuệ giác. Và tám nguyên nhân là gì? Sự tiến bộ của tuổi tác, sự phát triển của danh tiếng, sự thường xuyên đặt câu hỏi, sự thân cận với các bậc thầy, sự quán chiếu chính mình, sự bàn luận với người trí, sự phục vụ với lòng từ, và sự sống trong xứ sở thích hợp. Do đó, có câu nói: |
By questioning, and by the master’s aid, By thoughtfulness, and converse with the wise, By intercourse with men worthy of love, By residence within a pleasant spot— By these nine is one’s insight purified. They who have these, their wisdom grows.”’ |
Bằng cách đặt câu hỏi, và bằng sự giúp đỡ của chủ nhân, Bằng sự khôn ngoan, và trò chuyện với người hiền trí, Bằng cách giao tiếp với những người hiền trí, Bằng cách cư trú trong một nơi dễ chịu— Bằng chín điều này, sự sáng suốt của một người được thanh lọc. Những ai có những điều này, trí tuệ của họ sẽ tăng trưởng.” |
Đầu trang | 1 | 2 | 03 | 04 | 05 | 06 | 07 | 08 | 09 | 10 | 11 | 12 | 13 | 14 | 15 | 16 | 17 | 18 | |
Cập nhập ngày:
Thứ Ba 29-8-2022 |