3.3.7. Thought and sight  

The king said: ‘Does thought-perception arise wherever sight arises ?’

3.3.7. Tâm thức và Nhãn thức   

Đức vua hỏi: "Thưa tôn giả, bất cứ nơi nào có cảnh sắc sinh khởi thì tâm thức cũng sinh khởi phải không?"

‘Yes, O king, where the one is there is the other.’

And which of the two arises first?’

'Thưa đại vương, đúng vậy, nơi nào nhãn thức sinh lên thì tâm thức cũng sinh lên.'

'Vậy, thưa tôn giả, cái nào khởi sinh trước cái nào khởi sinh sau?

‘First sight, then thought.’

‘Then does the sight issue, as it were, a command to thought, saying: “Do you spring up there where I have? or does thought issue command to sight, saying: Where you spring up there will I.”’

'Thưa đại vương, nhãn thức sanh lên trước tâm thức sanh lên sau'.

'Thưa đại vương, Sau đó, nhãn thức có vấn đề, như nó đã từng ra mệnh lệnh cho tâm thức: “Bạn khởi sinh ở đó có tôi không? hay tâm thức ra lệnh cho nhãn thức rằng: Nơi nào nhãn thức sinh lên, thì tâm thức sẽ sinh khởi ở nơi đó.'

 

‘It is not so, great king. There is no intercourse between the one and the other.’

'Thưa đại vương, không phải như vậy. Không có sự giao hợp giữa nhãn thức và tâm thức mà là chúng cùng sinh. '

‘Then how is it, Sir, that thought arises wherever sight does?’

'Thưa tôn giả, như thế nào mà tâm thức sinh khởi ở bất cứ nơi nào nhãn thức sinh khởi? "

‘Because of there being a sloping down, and because of there being a door, and because of there being a habit, and because of there being an association.’

' Thưa đại vương, chúng có bốn tính như sau Bởi vì có tính chất xuôi chiều xuống, và bởi vì có tính chất một cánh cửa, và bởi vì có tính chất tập quán, và bởi vì có một liên kết. "

‘How is that? Give me an illustration of mind arising where sight arises because of there being a sloping down.’

'Thưa tôn giả, như vậy là thế nào? Hãy cho trẫm một minh dụ về tâm thức phát sinh nơi nhãn thức xuất hiện bởi vì ở đó có sự dốc xuống.

‘Now what do you think, great king? When it rains, where will the water go to?’

'Thưa đại vương, đại vương nghĩ thế nào ? Khi trời mưa, nước sẽ chảy về đâu? '"

‘It will follow the slope of the ground.’

‘And if it were to rain again, where would the water go to?’

‘It would go the same way as the first water had gone.’

'Thưa tôn giả, nước sẽ theo độ dốc của mặt đất. '

"Thưa đại vương, nếu trời mưa một lần nữa, nước sẽ đi về đâu?"

"Thưa tôn giả, nước sẽ đi theo cách giống như nước của cơn mưa trước đã đi."

‘What then? Does the first water issue, as it were, command to the second, saying: “Do you go where I have?” Or does the second issue command to the first, saying: “Whithersoever you go, thither will I”?’

'Thưa đại vương, Sau đó là gì? Vấn đề nước lúc trước như nó đã xảy ra, nó ra lệnh cho nước sau rằngi: "Bạn đi nơi tôi đã đi" Hay nước sau ra lệnh cho nước trước , nói rằng: “Dù bạn đi đâu, tôi cũng sẽ đi đến đó”?

‘It is not so, Sir. There is no intercourse between the two. Each goes its way because of the slope of the ground.’

‘Thưa tôn giả, không phải vậy . Không có sự giao hợp nào giữa nước cơn mưa trước và nước cơn mưa sau. Mà chúng chảy theo cách của mình vì độ dốc của mặt đất. "

‘Just so, great king, is it by reason of the natural slope that where sight has arisen there also does thought arise. And neither does the sight-perception issue command to the mind-perception, saying: “Where I have arisen, there do thou also spring up;” nor does the mind-perception inform the sight-perception, saying: “Where thou hast arisen, there will I also spring up.” There is no conversation, as it were, between them. All that happens, happens through natural slope.’

'Thưa đại vương, đúng như vậy, nhờ vào độ dốc tự nhiên mà ở đó nhãn thức sình lên thì tâm thức cũng phát sinh. Và cũng không phải nhãn thức ra lệnh cho tâm thức, nói rằng: "Nơi nào ta sinh ra, thì ngươi cũng khởi sinh ở đó;" tâm thức cũng không thông báo cho nhãn thức, nói rằng: "Nơi nào ngươi phát sinh, nơi đó ta cũng sẽ khởi sinh theo." Không có cuộc trò chuyện nào, như nó đã từng xảy ra, giữa họ. Tất cả những gì xảy ra, đều xảy ra thông qua độ dốc tự nhiên. '

‘Now give me an illustration of there being a door.’

‘What do you think, great king? Suppose a king had a frontier city, and it was strongly defended with towers and bulwarks, and had only one gateway. If a man wanted to leave the city, how would he go out?’

'Thưa tôn giả, bây giờ cho trẫm hình ảnh của một cánh cửa mà làm cho nhãn thức sanh lên ở nơi nào thì tâm thức cũng sanh lên ở nơi ấy'

Thưa đại vương? Giả sử đại vương có một thành phố ở biên giới, và nó được bảo vệ vững chắc bằng tường thành và chòi canh, chỉ có một cửa ngõ. Nếu một người muốn rời khỏi thành phố, anh ta sẽ đi ra ngoài như thế nào? "

‘By the gate, certainly.’

‘And if another man wanted to leave it, how would he go out?’

‘The same way as the first.’

'Thưa tôn giả, chắc chắn là bằng cửa ngõ.'

'Và nếu một người khác muốn đi ra khỏi thành thì đi bằng cửa nào?

'Người thứ hai đi ra ngoài thành bằng cửa mà người trước đã đi.

‘What then? Would the first man tell the second: “Mind you go out the same way as I do”? Or would the second tell the first: “The way you go out, I shall go out too”?’

'Thưa đại vương, điều gì đã xảy ra? Phải chăng người thứ nhất có nói với người thứ hai: “Bạn có phiền hãy đi ra ngoài giống như tôi” không? Hay người thứ hai sẽ nói với người thứ nhất: "Con đường bạn đi ra, tôi cũng sẽ đi ra"? "

‘Certainly not, Sir. There would be no communication between them. They would go that way because that was the gate.’

'Thưa tôn giả, không phải vậy. Họ không có nói chuyện với nhau. Họ chỉ đi ra bởi vì đó là cửa để đi ra ngoài.'

‘Just so, great king, with thought and sight.’

‘Now give me an illustration of thought arising where sight is because of habit.’

'Thưa đại vương, cũng vậy, tính chất cửa khiến nhãn thức khởi sinh lên ở nơi nào thì tâm thức cũng khởi sinh lên ở nơi ấy. Và nhãn thức không ra lệnh cho tâm thức rằng: ‘Tôi khởi sinh ở nơi nào thì anh cũng khởi sinh ở nơi ấy’ , tâm thức cũng không ra lệnh cho nhãn thức rằng: ‘Anh khởi sinh lên ở nơi nào thì tôi cũng khởi sinh nơi ấy.’ Chúng không có sự chuyện trò với nhau. Chúng sanh lên theo tính chất cửa .”

'Thưa tôn giả, bây giờ hãy nói cho trẫm về tính chất tập quán.'

‘What do you think, great king? If one cart went ahead, which way would a second cart go?’

Thưa đại vương, Nếu một xe chở hàng hóa đi trước, thì xe chở hàng hóa thứ hai sẽ đi theo đường nào? '

‘The same as the first.’

‘But would the first tell the second to go where it went, or the second tell the first that it would go where it (the first) had gone?’

'Thưa tôn giả, chiếc xe chở hàng hóa thứ hai sẽ đi theo đường giống như cái trước.'

'Thưa đại vương, vậy cái thứ nhất có nói với cái thứ hai nơi mình đi không, hoặc cái thứ hai nói với cái thứ nhất nơi mình sẽ đi không>'

‘No, Sir. There would be no communication between the two. The second would follow the first out of habit.’

"Thưa tôn giả, họ không có nói chuyện với nhau. Cái thứ hai đi theo cái trước là do tập quán.

‘Just so, great king, with sight and thought.’

‘Now give me an illustration of how thought arises, where sight has arisen, through association.’

'Thưa đại vương, cũng vậy, tính chất cửa khiến nhãn thức khởi sinh lên ở nơi nào thì tâm thức cũng khởi sinh lên ở nơi ấy. Và nhãn thức không ra lệnh cho tâm thức rằng: ‘Tôi khởi sinh ở nơi nào thì anh cũng khởi sinh ở nơi ấy’ , tâm thức cũng không ra lệnh cho nhãn thức rằng: ‘Anh khởi sinh lên ở nơi nào thì tôi cũng khởi sinh nơi ấy.’ Chúng không có sự chuyện trò với nhau. Chúng sanh lên theo tính chất tập quán .”

'Thưa tôn giả, bây giờ hay nói cho trẫm về tính chất bởi vì có một liên kết.'

‘In the art of calculating by using the joints of the fingers as signs or marks, in the art of arithmetic pure and simple, in the art of estimating the probable yield of growing crops, and in the art of writing, O king, the beginner is clumsy. But after a certain time with attention and practice he becomes expert. just so is it that, where sight has arisen, thought too by association springs up.’

'Thưa đại vương, trong nghệ thuật tính toán bằng cách sử dụng các ngón tay làm dấu hiệu hoặc dấu hiệu, trong nghệ thuật số học thuần túy và đơn giản, trong nghệ thuật ước tính năng suất có thể xảy ra khi trồng trọt, và trong nghệ thuật viết, một người mới bắt đầu làm sẽ vụng về. Nhưng sau một thời gian nhất định với sự chú ý và thực hành, anh ta trở thành chuyên gia giỏi . Đó là do thói quen, do huân tập, mà nhãn thức đã xuất hiện, tâm thức cũng xuất hiện bởi sự thói quen, bởi sự liên kết với nhau. "

And in response to similar questions, the Elder declared that in the same way thought sprang up wherever there was hearing, or taste, or smell, or touch: that in each case it was subsequent to the other, but arose without communication from The natural causes above set out.

Và để trả lời những câu hỏi tương tự, Trưởng Lão đã giải thức theo cách tương tự, tâm thức khởi sinh ra ở bất cứ nơi nào có nhĩ thức, tỷ thức, hoặc thiệt thức, hoặc thân thức trong mỗi trường hợp, tiếp theo nhau cùng khởi sinh mà không có sự giao tiếp từ tự nhiên. nguyên nhân trên đặt ra.

3.3.8. Contact, sensation, and idea  

The king said: ‘Where thought (mental perception) is, Nāgasena, is there always sensation?’

3.3.8. Xúc, Thọ, và Tưởng  

Đức vua hỏi: "Thưa tôn giả Nāgasena, phải chăng ý thức sanh khởi ở đâu thì cảm xúc cũng sanh lên ở nơi đó?"

‘Yes, where thought arises there is contact, and there is sensation, and there is idea, and there is conceived intention, and there is reflection; and there is investigation.’

“Thưa đại vương, đúng vậy. Ý thức sanh sinh khởi ở nơi nào thì xúc cũng sanh khởi ở nơi đó, thọ cũng sanh khởi ở nơi đó, tưởng cũng sanh khởi ở nơi đó, tư cũng sanh khởi ở nơi đó, tầm cũng sanh khởi ở nơi đó, tứ cũng sanh khởi ở nơi đó, tất cả các pháp cũng sanh khởi ở nơi đó.”

‘Reverend Sir, what is the distinguishing characteristic of contact (Phassa)?’

'Thưa tôn giả, đặc tính phân biệt của xúc (Phassa = đụng chạm, xúc) là gì? '

‘Touch, O king.’

‘But give me an illustration.’

‘It is as when two rams are butting together, O king. The eye should be regarded as one of those two, the form (object) as the other, and the contact as the union of the two.’

'Thưa đại vương, là sự xúch chạm'

'Cho trẫm một minh dụ'

‘Thưa đại vương, giống như khi hai con cừu húc nhau. Mắt phải được coi như là một con cừu, và con cừu kia là cảnh sắc, và chạm vào nhau của chúng gọi là tiếp xúc. "

‘Give me a further illustration.’

‘It is as when two cymbals are clashed together. The one is as the eye, the other as the object, and the junction of the two is like contact.’

"Cho trẫm một minh dụ khác'

'Thưa đại vương, giống như khi hai chũm chọe đập vào nhau. Một cái giống như mắt, cái kia là cảnh sắc, và điểm giao nhau của chúng giống như sự tiếp xúc. "

‘Very good, Nāgasena!’

"Thật là tuyệt vời, thưa tôn giả Nāgasena!

3.3.9. Sensation  

‘Reverend Sir, what is the characteristic mark of sensation (Vedanā)?’

3.3.9. Hành tướng của Thọ  

‘Thưa tôn giả Nāgasena, hành tướng của thọ (Vedanā) là gì?’

‘The being experienced, great king, and enjoyed.’

"Thưa đại vương, hành tướng của thọ là cảm nhận (thọ khổ, thọ lạc, thọ xả) và nhận lấy"

‘Give me an illustration.’

‘It is like the case of the man on whom the king, pleased with a service he has rendered him, should bestow an office. He while living, through that appointment, in the full possession and enjoyment of all the pleasures of sense, would think: “Formerly I did the king a service. For that the king, pleased with me, gave me this office. It is on that account that I now experience such sensations."—And it is like the case of the man who having done good deeds is re-born, on the dissolution of the body after death, into some happy conditions of bliss in heaven. He, while living there in the full possession and enjoyment of all the pleasures of sense, would think: “Formerly I must have done good deeds. It is on that account that I now experience such sensations.” Thus is it, great king, that the being experienced and enjoyed is the characteristic mark of sensation.’

'Cho trẫm một minh dụ'

'Thưa đại vương, nó giống như trường hợp của một người hầu mà nhà vua hài lòng với những gì mà người đó đã làm cho đại vương, nên đại vương ban thưởng cho người đó.Người đó trong khi sống, thông qua việc được ban thưởng, với đầy đủ quyền sở hữu và tận hưởng tất cả những thú vui của giác quan, sẽ nghĩ: “Trước đây, ta đã phục vụ nhà vua. Vì vậy, nhà vua hài lòng với ta, đã giao cho tă chức vụ này. Đó là lý do mà ta bây giờ trải nghiệm những cảm giác như vậy. " - Và nó giống như trường hợp của người đã làm việc thiện sau khi chết thân thể tan rã và được tái sinh vào một đời sống an vui phúc ở cõi trời. Anh ta, trong khi sống ở đó với sự sở hữu đầy đủ và tận hưởng tất cả những thú vui của giác quan năm loại dục lạc đó là thiên sắc, thiên thanh, thiên hương, người đó nghĩ: "Trước đây ta làm những việc tốt. Chính vì lý do đó mà bây giờ ta trải qua những cảm thọ như vậy." Vì vậy, thưa đại vương, rằng việc được trải nghiệm và tận hưởng là dấu hiệu đặc trưng của cảm thọ. '

‘Very good, Nāgasena!’

'Thật là tuyệt vời, thưa tôn giả Nāgasena!

3.3.10. Idea  

‘What is the distinguishing characteristic, Nāgasena, of idea (Saññā)?’

3.3.10. Hành tướng của tưởng  

'Thưa tôn giả Nāgasena, hành tướng của tưởng (Saññā - tư tưởng, sự nhận thức) là gì?

‘Recognition, O king. And what does he recognise?—blueness and yellowness and redness and whiteness and brownness.’

‘Thưa đại vương, hành tướng của tưởng là sự ghi nhận, Và anh ta ghi nhận gì? — Là tự nhận biết màu đen và màu vàng, màu đỏ và màu trắng và màu nâu. ”

‘Give me an illustration.’

‘It is like the king’s treasurer. O king, who when he sees, on entering the treasure, objects the property of the king, of all those colours, recognises (that they have such). Thus it is, great king, that recognition is the mark of idea.’

'Cho trẫm một minh dụ'

Thưa đại vương, nó giống như người quan giữ kho báu của nhà vua. Khi bước vào kho báu, người này nhận biết tất cả các tài sản qúy giá, vàng bạc, châu báu, với đủ các màu sắc đó, nhận biết rõ ràng (rằng chúng như vậy. Vì vậy, sự nhận biết là tướng trạng của tưởng. "

‘Very good, Nāgasena!’

'Thật tuyệt vời, thưa tôn giả Nāgasena!

3.3.11. Purpose  

What is the distinguishing characteristic, Nāgasena, of the conceived purpose (cetanā)?’

3.3.11. Hành tướng của Tác Ý  

'Thưa tôn giả Nāgasena, tướng trạng của tác ý (cetanā) là gì? '

‘The being conceived, O king, and the being prepared.’

'Thưa đại vương, Cetanā là cái gì đóng vai trò quan trọng nhất trong tất cả các hành động, thiện và bất thiện, và sự chuẩn bị sẵn sàng. '

‘Give me an illustration.’

‘It is like the case of a man, O king, who should prepare poison, and both drink of it himself, and give of it to others to drink. He himself would suffer pain, and so would they. In the same way some individual, having thought out with intention some evil deed, on the dissolution of the body after death, would be reborn into some unhappy state of woe in purgatory, and so also would those who followed his advice.—And it is like the case of a man, O king, who should prepare a mixture of ghee, butter, oil, honey and molasses, and should both drink thereof himself and give of it to others to drink. He himself would have pleasure, and so would they. In the same way some individual, having thought out with intention some good deed, will be reborn, on the dissolution of the body after death, into some happy state of bliss in heaven, and so also would those who follow his advice. Thus is it, great king, that the being conceived, and the being prepared, are marks of the conceived purpose.’

'Cho trẫm một minh dụ'

'Thưa đại vương, giống như trường hợp của một người chuẩn bị thuốc độc, để tự mình uống và đưa cho người khác uống. Bản thân của người ấy sẽ phải chịu đựng nỗi đau, và những người khác cũng bị khổ sở. Theo cách tương tự như vậy, một số cá nhân, khi có ý nghĩ một hành động bất thiện nào đó, đến khi chấm dứt thọ mạng, họ sẽ tái sanh trong bốn đường khổ và những người làm ác theo ông ta cũng rơi vào bốn đường khổ giống nhau. Và nó giống như trường hợp của một người, chuẩn bị một hỗn hợp gồm bơ sữa, dầu, mật ong và mật đường, và phải tự mình uống và cho người khác uống. Bản thân anh ấy sẽ cảm thấy thích thú, và những người được cho uống cũng cảm thấy thích thú như vậy. Tương tự như vậy, một số cá nhân, với ý định nghĩ ra một hành động tốt nào đó, sau khi chấm dứt thọ mạng, họ sẽ được tái sinh, vào một trạng thái hạnh phúc trên đời hoặc hạnh phúc trên cõi thiên, và những người làm theo lời khuyên của ông ta cũng được hưởng hạnh phúc trên đời hoặc hạnh phúc trên cõi thiên. Như vậy, Cetanā là cái gì đóng vai trò quan trọng nhất trong tất cả các hành động, thiện và bất thiện, và sự chuẩn bị sẵn sàng.

‘Very good, Nāgasena!’

'Thật là tuyệt vời, thưa tôn giả Nāgasena!

3.3.12. Perception  

‘What, Nāgasena, is the distinguishing characteristic of perception (Viññāṇa)?’

‘Recognition, great king.’

3.3.12. Hành tướng của Thức  

"Thưa tôn giả Nāgasena, là đặc điểm phân biệt của Thức (Viññāṇa) là gì ?"

'Thưa đại vương, Thức (Viññāṇa) là phân tích, phân loại đối tượng để sau đó cho chúng ta nhận biết về đối tượng, đó là đặc điểm phân biệt của thức.'

‘Give me an illustration.’

‘It is like the case of the guardian of a city who, when seated at the cross roads in the middle of the city, could see a man coming from the East, or the South, or the West, or the North. In the same way, O king, he knows an object which he sees with his eye, or a sound which he hears with his ear, or an odour which he smells by his nose, or a taste which he experiences with his tongue, or a touchable thing which he touches with his body, or a quality that he recognises by his mind. Thus is it, great king, that knowing is the mark of perception.’

'Cho trẫm một minh dụ'

'Thưa đại vương, giống như trường hợp của người bảo quản của một thành phố, khi ngồi ở các ngã ba đường ở giữa thành phố, có thể nhìn thấy người ta đến từ phía Đông, hoặc Nam, hoặc Tây, hoặc Bắc. Tương tự như vậy, người ta có thể nhìn thấy cảnh vật bằng đôi mắt và nhận biết cảnh vật ấy bằng thức , hoặc nghe âm thanh bằng tai của mình và nhận biết âm thanh bằng thức, hoặc ngửi mùi bằng mũi và nhận biết mùi bằng thức, hoặc nếm vị bằng lưỡi của mình và nhận biết vị bằng thức, hoặc cảm nhận xúc chạm bằng thân của mình và nhận biết sự xúc chạm bằng thức. Như vậy Thức (Viññāṇa) là phân tích, phân loại đối tượng để sau đó cho chúng ta nhận biết về đối tượng, đó là đặc điểm phân biệt của thức.

‘Very good, Nāgasena!’

'Thật là tuyệt vời, thưa tôn giả Nāgasena!

3.3.13. Reflection  

‘What is the distinguishing characteristic, Nāgasena, of reflection (Vitakka).

‘The effecting of an aim.’

3.3.13. Tướng trạng của Tầm  

‘Thưa tôn giả Nāgasena, đặc tính của tầm (Vitakka) là gì.

'Thưa đại vương, đặc tính của tầm (Vitakka) là sự bám dính của tâm trên đối tượng.'

‘Give me an illustration.’

‘It is like the case of a carpenter, great king, who fixes in a joint a well-fashioned piece of wood. Thus is it that the effecting of an aim is the mark of reflection.’

'Cho trẫm một minh dụ'

‘Thưa đại vương, giống như trường hợp của một người thợ mộc, sửa chữa trong một ráp nối một mảnh gỗ dính vào nhau. Tương tựa tầm là sự bám dính của tâm trên đối tượng.'

‘Very good, Nāgasena!’

'Thật là tuyệt vời, thưa tôn giả Nāgasena!

3.3.14. Investigation  

‘What is the distinguishing characteristic, Nāgasena, of investigation (Vicāra)?’

3.3.14. Tướng trạng của Tứ  

'Thưa tôn giả Nāgasena, đặc điểm của Tứ (Vicāra) là gì?'

‘Threshing out again and again.’

‘Give me an illustration.’

‘It is like the case of the copper vessel, which, when it is being beaten into shape , makes a sound again and again as it gradually gathers shape. The beating into shape is to be regarded as reflection, and the sounding again and again as investigation. Thus is it, great king, that threshing out again and again is the mark of investigation.’

'Thưa đại vưng, tứ có đặc tính của sức ép liên tục lên đối tượng (thời gian trú trên đối tượng). Nhiệm vụ của tứ là giữ cho tâm áp sát vào đối tượng'.

'Cho trẫm một minh dụ.'

'Thưa đại vương, giống như trường hợp của chiếc bình đồng, khi nó được vỗ vào thành bình, nó sẽ phát ra âm thanh lặp đi lặp lại khi nó dần dần ngừng lại. Việc đập vào thành bình được coi là phản xạ, và âm thanh lặp đi lặp lại. Vì vậy, nhiệm vụ của tứ là giữ cho tâm áp sát vào đối tượng'.

‘Very good, Nāgasena!’

Here ends the Third Chapter.

'Thật là tuyệt vời, thưa tôn giả Nāgasena!'

Tới đây hết Chương Ba'

3.4.1. Unblending  

The king said: ‘When those conditions (whose marks you have just specified) have run together, is it possible, by bending them apart one to one side and one to the other, to make the distinction between them clear, so that one can say:, “This is contact, and this sensation, and this idea, and this intention, and this perception, and this reflection, and this investigation”?’

3.4.1. Không hòa trộn  

Đức vua hỏi: 'Thưa tôn giả Nāgasena, khi những tướng trạng đó (những đặc điểm mà tôn giả vừa triển khai) đã cùng nhau khởi sinh, có thể bằng cách bẻ cong chúng ra bên này sang bên kia, để phân biệt rõ ràng giữa chúng, để có thể nói :, “Đây là thọ, và tưởng, và Tác Ý, và Thức, và Tầm, và Tứ này”? '

‘No: that cannot be done.’

‘Give me an illustration.’

‘Suppose, O king, the cook in the royal household were to make a syrup or a sauce, and were to put into it curds, and salt, and ginger, and cummin seed, and pepper, and other ingredients. And suppose the king were to say to him: “Pick out for me the flavour of the curds, and of the salt, and of the ginger, and of the cummin seed, and of the pepper, and of all the things you have put into it.” Now would it be possible, great king, separating off one from another those flavours that had thus run together, to pick out each one, so that one could say: “Here is the sourness, and here the saltness, and here the pungency, and here the acidity, and here the astringency, and here the sweetness”?’

'Thưa đại vương, Không, điều đó không thể cùng xảy ra, nó tiến trình diễn ra quá nhan nên ta không phân tích được.'

'Cho trẫm một minh dụ.'

'Thưa đại vương, người đầu bếp trong gia đình hoàng gia phải làm xi rô hoặc nước sốt, rồi cho vào đó các gia vị vào món sữa đông, muối, gừng, hạt cummin, và hạt tiêu, và các thành phần khác. Và giả sử đại vương nói với ông ta: “Hãy chọn cho ta hương của sữa đông, muối và gừng, hạt cummin và tiêu, và của tất cả những thứ ngươi đã đặt. vào nó. ” Bây giờ, liệu có thể nào, thưa đại vương, tách ra những hương vị đã kết hợp với nhau, để chọn ra từng thứ, để người ta có thể nói: “Đây là vị chua, đây là muối, và đây là cay, và đây là độ chua, và đây là chất là vị chát, và đây là vị ngọt ”? '

‘No, that would not be possible . But each flavour would nevertheless be distinctly present by its characteristic sign.’

“Thưa đại vương, không, điều đó sẽ không thể thực hiện được. Tuy nhiên, đối với các gia vị được bỏ chung vào một món thức ăn, sau khi hòa trộn rồi thì không thể nào lần lượt tách rời vị chua, hoặc có vị mặn, hoặc có vị đắng, hoặc có vị cay, hoặc có vị chát, hoặc có vị ngọt được, mặc dầu mỗi hương vị sẽ thể hiện rõ ràng theo dấu hiệu đặc trưng của nó..”

‘And just so, great king, with respect to those conditions we were discussing.’

'Thưa đại vương, vì vậy đối với các pháp được gom chung thành một, không thể nào lần lượt tách rời và chỉ ra sự khác biệt của chúng: ‘cái này là xúc, cái này là thọ, cái này là tưởng, cái này là tư, cái này là thức, cái này là tầm, cái này là tứ,’ mặc dầu chúng hiện diện với đặc điểm riêng của chúng.”

‘Very good, Nāgasena!’

'Thật tuyệt vời, thưa tôn giả Nāgasena!

3.4.2. Salt  

The Elder said: ‘Is salt, O king, recognisable by the eye?’

‘Yes, Sir, it is.’

‘But be careful, O king.’

‘Well then, Sir, is it perceptible by the tongue?’

‘Yes, that is right.’

3.4.2. Muối  

Trưởng Lão nói: 'Thưa đại vương, muối có thể nhận biết bằng mắt không?'

'Thưa tôn giả, muốn có thể nhận biết bằng mắt.'

'Thưa đại vương, nhưng phải cẩn thận.'

'Thưa tôn giả, Vậy thì nó có thể cảm nhận được bằng lưỡi không?

'Thưa đại vương, đúng vậy, muối có thể cảm nhận được bằng lưỡi.'

‘But, Sir, is it only by the tongue that every kind of salt is distinguished?’

‘Yes, every kind.’

“Nhưng thưa tôn giả, có phải chỉ phân biệt được mọi loại muối bằng lưỡi không?'

'Đúng vậy thưa đại vương.'

‘If that be so, Sir, why do bullocks bring whole cart-loads of it? Is it not salt and nothing else that ought to be so brought?’

'Thưa đại vương, Nếu đúng như vậy, tại sao những con bò kéo xe mang theo cả đống hàng? Nó không phải là muối và không có gì khác nên được mang theo như vậy? "

‘It is impossible to bring salt by itself. But all these conditions have run together into one, and produced the distinctive thing called salt. (For instance): salt is heavy, too. But is it possible, O king, to weigh salt?’

Thưa đại vương, không thể tự mình mang chỉ riêng muối được. Nhưng tất cả những pháp này đã kết hợp với nhau thành một, và tạo ra một thứ đặc biệt gọi là muối. (Ví dụ): muối cũng nặng. Nhưng, có thể cân được muối không? '

‘Certainly, Sir.’

Nay, great king, it is not the salt you weigh, it is the weight.’

‘You are ready, Nāgasena, in argument.’

Here ends the questioning of Nāgasena by Milinda.

'Thưa tôn giả, chắc chắn là như vậy.'

'Thưa đại vương, không có thể cân muối bằng cân. Nó là trọng lượng.'

'Thưa tôn giả Nāgasena, ngài đã khôn khéo trong cuộc tranh luận.'

'Đến đây kết thúc của đức vua Milinda với tôn giả Nāgasena.

3.4.3. Five senses  

The king said: ‘Are the five Āyatanas, Nāgasena, (eye, ear, nose, tongue, and body,) produced by various actions, or by one action?’ (that is, the result of various Karmas, or of one Karma.)

3.4.3. Năm Giác Quan  

Đức vua nói: 'Thưa tôn giả Nāgasena, Năm giác quan ( Āyatana - Xứ - mắt, tai, mũi, lưỡi và thân,) được tạo ra bởi nhiều hành động khác nhau, hay bởi một hành động?' (Nghĩa là, kết quả của nhiều Nghiệp (Karmas), hay của một Nghiệp).

‘By various actions, not by one.’

‘Give me an illustration.’

‘Now, what do you think, O king? If I were to sow in one field five kinds of seed, would the produce of those various seeds be of different kinds?’

“Tâu đại vương, chúng được sanh lên do nhiều việc làm khác nhau, không phải do một việc làm.”

'Cho trẫm một minh dụ.'

'Thưa đại vương, bây giờ đại vương nghĩ gì? Nếu bần tăng gieo vào năm loại hạt giống vào cánh đồng, thì sản phẩm của những loại hạt khác nhau đó có phải là những loại khác nhau không? '

‘Yes, certainly.’

‘Well, just so with respect to the production of āyatanas.’

‘Very good, Nāgasena!’

'Thưa tôn giả, chắc chắn là vậy.'

'Thưa đại vương, cũng vậy năm giác quan được sanh khởi do các việc làm khác nhau, không phải do một việc làm.”

'Thật tuyệt vời, thưa tôn giả Nāgasena!'

3.4.4. Rich and poor  

The king said: ‘Why is it, Nāgasena, that all men are not alike, but some are short-lived and some long-lived, some sickly and some healthy, some ugly and some beautiful, some without influence and some of great power, some poor and some wealthy, some low born and some high born, some stupid and somewise?’

The Elder replied: ‘Why is it that all vegetables are not alike, but some sour, and some salt, and some pungent, and some acid, and some astringent, and some sweet?’

3.4.4. Giàu và Nghèo  

Đức vua hỏi: 'Thưa tôn giả Nāgasena, tại sao tất cả mọi người đều không giống nhau, như có người sống tuổi thọ ngắn và có người sống tuổi thọ dài lâu, có người bệnh hoạn và có người khỏe mạnh, có người xấu và có người đẹp, có người không có quyền lực và có người có quyền lực lớn. , có người nghèo và có người giàu có, có người sinh ra thấp và có người sinh ra cao, có người ngu ngốc và có người thông minh? ”

Trưởng lão hỏi ngược lại đức vua :“ thưa đại vương. Tại sao tất cả các loại rau đều không giống nhau, nhưng một số chua, một số có ít muối, một số hăng, và một số cay, và một số chát , và một số ngọt? '

‘I fancy, Sir, it is because they come from different kinds of seeds.’

'Thưa tôn giả, trẫm nghĩ rằng các loại rau khác nhau là do các hạt giống khác nhau.'

‘And just so, great king, are the differences you have mentioned among men to be explained. For it has been said by the Blessed One: “Beings, O brahmin, have each their own Karma, are inheritors of Karma, belong to the tribe of their Karma, are relatives by Karma, have each their Karma as their protecting overlord. It is Karma that divides them up into low and high and the like divisions.”’

Cũng như vậy, Thưa đại vương, sự khác biệt mà đại vương vừa đề cập giữa loài người được giải thích như sau. Và điều đó đã được Đức Thế Tôn nói: “Hỡi các Bà-la-môn, mỗi chúng sinh đều có Nghiệp riêng, là người thừa kế Nghiệp, thuộc bộ tộc của Nghiệp, là họ hàng của Nghiệp, nghiệp là tạo tác, là chủ tể muôn loài, nghiệp là giống dòng tông chủng, nghiệp tìm đến nhau. Chính Karma đã phân chia loài người như có người tuổi thọ ngắn và có người tuỗi thọ sống lâu, có người bệnh hoạn và có người khỏe mạnh, có người xấu và có người đẹp, có người không có quyền lực và có người có quyền lực . , có người nghèo và có người giàu có, có người sinh ra thấp và có người sinh ra cao, có người ngu ngốc và có người thông minh? ”

‘Very good, Nāgasena!’

'Thật là tuyệt vời, thưa tôn giả Nāgasena!'

3.4.5. Renunciation again  

The king said: ‘You told me, Nāgasena, that your renunciation was to the end that this sorrow might perish away, and no further sorrow might spring up.’

3.4.5. Một lần nữa nói về sự Xuất Gia  

Đức vua hỏi: "Thưa tôn giả Nāgasena, tôn giả đã nói với trẫm, rằng sự xuất gia của tôn giả là để diệt khổ, và không còn cái khổ nào có thể sinh khởi lên nữa."

‘Yes, that is so.’

‘But is that renunciation brought about by previous effort, or to be striven after now, in this present time?’

'Thưa đại vương, đúng vậy.'

'Thưa tôn giả, sự xuất gia được thực hiện bởi sự tinh tất trước đó, hay được phấn đấu bây giờ, trong thời điểm hiện tại?’

The Elder replied: ‘Effort is now concerned with what still remains to be done, former effort has accomplished what it had to do.’

Tôn giả đáp: ‘Nỗ lực bây giờ liên quan đến những gì đang phải làm, nỗ lực trước đây đã hoàn thành những gì đã được làm.

‘Give me an illustration.’

‘Now what do you think, O king? Is it when you feel thirst that you would set to work to have a well or an artificial lake dug out, with the intention of getting some water to drink?’

'Cho trẫm một minh dụ'

'Thưa đại vương, Đại vương nghĩ sao? Phải chăng khi đại vương cảm thấy khát, đại vương sẽ bắt đầu đào một cái giếng hoặc một cái hồ nhân tạo với ý định lấy một ít nước để uống?’

‘Certainly not, Sir.’

‘Just so, great king, is effort concerned now with what still remains to be done, former effort has accomplished what it had to do.’

'Thưa tôn giả, chắc chắn là không.'

‘Cũng vậy, tâu đại vương, sự tinh tấn bây giờ liên quan đến những gì còn phải làm, sự tinh tấn trong quá khứ là đã hoàn thành những gì phải làm.’

‘Give me a further illustration.’

‘Now what do you think, O king? Is it when you feel hungry that you set to work to have fields ploughed and seed planted and crops reaped with the intention of getting some food to eat?’

'Cho trẫm một minh dụ khác'

'Thưa đại vương, đại vương nghĩ như thế nào? Có phải khi đại vương cảm thấy đói, đại vương mới bắt đầu cày ruộng, gieo hạt và gặt hái mùa màng với ý định kiếm thực phẩm để ăn?’

‘Certainly not, Sir.’

‘Just so, great king, is effort concerned now with what still remains to be done, former effort has accomplished what it had to do.’

'Thưa tôn giả, chắc chắn không thể làm vậy.'

' Tâu đại vương, cũng như vậy sự tinh tấn bây giờ liên quan đến những gì còn phải làm, sự tinh tấn trước đây đã hoàn thành những gì phải làm.’

‘Give me a further illustration.’

‘Now what do you think, O king? Is it when the battle is set in array against you that you set to work to have a moat dug, and a rampart put up, and a watch tower built, and a stronghold formed, and stores of food collected? Is it then that you would have yourself taught the management of elephants, or horsemanship, or the use of the chariot and the bow, or the art of fencing?’

'Cho trẫm một minh dụ khác.'

'Thưa đại vương, đại vương nghĩ như thế nào? Phải chăng khi có một trận chiến chống lại đại vương, lúc đó đại vương mới bắt tay vào việc đào hào, dựng lũy, xây tháp canh, thành lũy và thu thập lương thực dự trữ không? Có phải lúc đó đại vương mới dạy quân lính cách quản lý voi, cưỡi ngựa, sử dụng xe ngựa và cung tên, hoặc nghệ thuật đấu kiếm?

‘Certainly not, Sir.’

‘Just so, great king, is effort concerned now with what still remains to be done, former effort has accomplished what it had to do. For it has been thus said, O king, by the Blessed One:

'Thưa tôn giả, chắc chắn là không thể như vậy.'

Tâu đại vương, cũng như vậy sự tinh tấn bây giờ liên quan đến những gì còn phải làm, sự tinh tấn trước đây đã hoàn thành những gì phải làm. Tâu đại vương, điều này cũng đã được đức Thế Tôn nói đến: ’

    “Betimes let each wise man work out
    That which he sees to be his weal!
    Not with the carter’s mode of thought, but firm
    Let him, with resolution, step right out.
    As a carter who has left the smooth high road,
    And turned to byways rough, broods ill at ease —
    (Like him who hazards all at dice, and fails)—
    So the weak mind who still neglects the good,
    And follows after evil, grieves at heart,
    When fallen into the power of death, as he,
    The ruined gamester, in his hour of need.”


‘Very good, Nāgasena.

    “Một người khôn ngoan sớm biết việc lợi ích cho mình
    Người đó coi đó là của cải của mình!
    Không phải với sự suy nghĩ của người thợ săn, nhưng vững chắc
    Hãy để anh ta, với quyết tâm, bước ra ngoài.
    Như một người lái xe đã rời xa con đường cao ráo bằng phẳng,
    Mà đi vào con đường thô bạo, với sự không thoải mái -
    (Giống như anh ta mạo hiểm với cuộc chơi đỏ đen, và thất bại)—
    Cho nên kẻ tâm yếu không làm điều thiện,
    Và chạy theo điều bất thiện, nhận lấy sự đau khổ,
    Như kẻ ngu khi rơi vào quyền lực của cái chết,
    Trò chơi bị hủy hoại, trong giờ cận tử của mình.


'Thật là tuyệt vời, thưa tôn giả Nāgasena

3.4.6. Nibbāna and karma  

The king said: ‘You (Buddhists) say thus: “The fire of purgatory is very much more fierce than an ordinary fire. A small stone cast into an ordinary fire may smoke for a day without being destroyed; but a rock as big as an upper chamber cast into the furnace of purgatory would be that moment destroyed.” That is a statement I cannot believe. Now, on the other hand you say thus: “Whatsoever beings are there reborn, though they burn for hundreds of thousands of years in purgatory, yet are they not destroyed.” That too is a statement 1 don’t believe.’

3.4.6. Niết-bàn và nghiệp lực  

Đức vua hỏi: ‘thưa tôn giả Nāgasena, đạo Phật nói rằng: “Ngọn lửa địa ngục nóng hơn ngọn lửa bình thường rất nhiều. Một hòn đá nhỏ ném vào ngọn lửa bình thường có thể bốc khói một ngày mà không bị tiêu hoại; nhưng một tảng đá lớn bằng một lâu đài mà bị bỏ vào lò lửa địa ngục cũng sẽ bị hủy diệt ngay lập tức.” Đó là lời nói mà trẫm không thể tin được. Bây giờ, nói cách khác, tôn giả nói như sau: “Hễ chúng sanh nào tái sinh ở đó, dầu bị thiêu đốt trăm ngàn năm trong lửa địa ngục, nhưng họ không bị tiêu diệt.” Trẫm không tin điều đó.

The Elder said: ‘Now what do you think, O king? Do not the females of sharks and crocodiles and tortoises and peacocks and pigeons eat hard bits of stone and gravel?’

Trưởng lão nói: ‘Thưa đại vương nghĩ thế nào? Phải chăng những cá mập, cá sấu, con rùa, con công và chim bồ câu thỉnh thoảng chúng có nuốt đá cát sỏi cứng không ?”

‘Yes, Sir. They do.’

‘What then? Are these hard things, when they have got into the stomach, into the interior of the abdomen, destroyed?’

'Thưa tôn giả, đúng như vậy.'

Sau đó thì sao? Những vật cứng này khi đã vào bụng, ở trong bụng rồi có bị tiêu hủy không?’

‘Yes, they are destroyed.’

‘And the embryo that may be inside the same animals—is that too destroyed?’

‘Certainly not.’

‘But why not.’

‘I suppose, Sir, it escapes destruction by the influence of Karma.’

'Thưa tôn giả, chúng được tiêu hoá.'

'Và phôi thai có thể ở trong bụng của những con vật đó - nó có bị tiêu hoại không?'

'Thưa tôn giả, chắc chắn là không.'

'Thưa đại vương, tại sao không bị tiêu hoại.'

“Thưa tôn giả, trẫm cho rằng nó thoát khỏi sự hủy diệt do tác động của nghiệp.”

‘Just so, great king, it is through the influence of Karma that beings, though they have been for thousands of years in purgatory, are not destroyed. If they are reborn there, there do they grow up, and there do they die. For this, O king, has been declared by the Blessed One: “He does not die until that evil Karma is exhausted.”

‘Thưa đại vương, cũng vậy, chính nhờ ảnh hưởng của Nghiệp mà chúng sinh, mặc dù họ đã ở trong lửa địa ngục hàng ngàn năm, nhưng không bị tiêu diệt. Nếu họ tái sinh ở đó, họ sẽ lớn lên và chết ở đó. Tâu đại vương, về điều này, Đức Thế Tôn đã tuyên bố: “ Nghiệp ác tạo nên sức mạnh duy trì mạng sống chúng sanh cho đến khi chúng sanh ấy trả hết nghiệp quả đã gieo.'

‘Give me a further illustration.’

‘Now what do you think, O king? Do not the females of lions and tigers and panthers and dogs eat hard bits of bone and flesh?’

'Cho trẫm một minh dụ khác

Thưa đại vương, đại vương nghĩ gì về điều này? Chẳng phải những con sư tử cái, hổ cái, báo đốm và chó ăn những mẩu xương và thịt cứng hay sao?”

‘Yes, they eat such things.’

‘What then? are such hard things, when they have got into the stomach, into the interior of the abdomen, destroyed?’

'Đúng vậy thưa tôn giả, chúng ăn những thứ đó.'

''Thưa đại vương, sau đó thì sao? những thứ cứng như vậy, khi chúng vào trong dạ dày, vào bên trong bụng, có bị tiêu hủy không?’

‘Yes, they are destroyed?’

‘And the embryo that may be inside the same animals—is that too destroyed?’

'Thưa tôn giả, chúng bị tiêu hủy.'

'Thưa đại vương, vậy những phôi thai có thể ở trong cùng một loài động vật - điều đó có bị tiêu hủy không?

‘Certainly not.’

‘But why not?’

‘I suppose, Sir, it escapes destruction by the influence of Karma.’

'Thưa tôn giả, chắc chắn là chúng không bị tiêu hủy

'Thưa đại vương, tại sao chúng không bị tiêu hủy.'

'Thưa tôn giả, trẫm cho rằng nó thoát khỏi sự hủy diệt do tác động của nghiệp

‘Just so, great king, it is by the influence of Karma that beings in purgatory, though they burn for thousands of years, are not destroyed.’

Thưa đại vương, cũng vậy, chính nhờ ảnh hưởng của Nghiệp mà chúng sinh, mặc dù họ đã ở trong lửa địa ngục hàng ngàn năm, nhưng không bị tiêu diệt.

‘Give me a further illustration.’

‘Now what do you think, O king? Do not the tender women—wives of the Yonakas, and nobles, and brahmins, and householders—eat hard cakes and meat.

'Cho trẫm một minh dụ khác.'

Thưa đại vương, đại vưong nghĩ sao về điều này? Những người phụ nữ dịu dàng — những phu nhân qúi phái của dòng tộc xứ Yonakas quý tộc, bà-la-môn và vợ của các gia chủ được ăn bánh cứng và thịt?'.

‘Yes, they eat such hard things.’

‘And when those hard things have got into the stomach, into the interior of the abdomen, are not they destroyed?’

'Đúng vậy, thưa tôn giả, họ được ăn những loại thịt cứng.'

Thưa đại vương, sau đó thì sao? những thứ cứng như vậy, khi chúng vào trong dạ dày, vào bên trong bụng, có bị tiêu hủy không?’

Yes, they are.’

‘But the children in their womb—are they destroyed?’

‘Certainly not.’

‘And why not?’

‘I suppose, Sir, they escape destruction by the influence of Karma?’

'Thưa tôn giả, chúng có tiêu hủy.'

'Thưa đại vương, vậy những thai nhi trong bụng họ có bị tiêu hủy không?'

'Thưa tôn giả, chắc chắn là không.'

'Thưa đại vương tại sao không?'

'Thưa tôn giả, trẫm cho rằng nó thoát khỏi sự hủy diệt do tác động của nghiệp

‘Just so, great king, it is through the influence of Karma that beings in purgatory, though they burn for thousands of years, yet are they not destroyed, If they are reborn there, there do they grow up, and there do they die. For this, O king, has been declared by the Blessed One: “He does not die until that evil Karma is exhausted.”’

Thưa đại vương, cũng vậy, chính nhờ ảnh hưởng của Nghiệp mà chúng sinh, mặc dù họ đã ở trong lửa địa ngục hàng ngàn năm, nhưng không bị tiêu diệt. Nếu họ tái sinh ở đó, họ sẽ lớn lên và chết ở đó. Tâu đại vương, về điều này, Đức Thế Tôn đã tuyên bố: “ Nghiệp ác tạo nên sức mạnh duy trì mạng sống chúng sanh cho đến khi chúng sanh ấy trả hết nghiệp quả đã gieo.'

‘Very good, Nāgasena!’

'Thật là tuyệt vời, thưa tôn giả Nāgasena!

3.4.7. The world rests on water  

The king said: ‘Venerable Nāgasena, your people say that the world rests on water, the water on air, the air on space. This saying also I cannot believe.’

3.4.7. Đất tồn tại do nước  

Đức vua hỏi rằng: “Thưa tôn giả Nāgasena, Phật giáo nói rằng: ‘đất được tồn tại do nước, nước được tồn tại do gió, gió được tồn tại do hư không.’ Trẫm cũng không tin lời nói này.”

Then the Elder brought water in a regulation water-pot, and convinced king Milinda, saying: ‘As this water is supported by the atmosphere, so is that water supported by air.’

Nghe đức vua nói như vậy, Trưởng lão mang một bình đựng nước đến thuyết cho đức vua Milinda hiểu, tôn giả nói rằng: 'Vì nước này được không khí nâng đỡ nên nước kia cũng được bầu không khí nâng đỡ.'***

*** Theo Phật Giáo, vật chất được cấu thành do bốn nguyên tố căn bản là: Pathavi (Đất), Apo (Nước), Tejo (Lửa) và Vayo (Gió). Đất, là nguyên tố có đặc tính duỗi ra của vật chất. Nguyên tố Đất chiếm không gian. Thể lỏng của nước do nguyên tố Nước (Apo). Nước là nguyên tố có đặc tính kết hợp lại và làm dính liền. Lửa là nguyên tố có đặc tính nóng. Lạnh cũng là một hình thức của Lửa (Tejo). không khí là nguyên tố có đặc tính di động. Có sự chuyển động là do nơi nguyên tố này.

‘Very good, Nāgasena!’

'Thật là tuyệt vời, tôn giả Nāgasena!

3.4.8. Nibbāna is cessation  

The king said: ‘Is cessation Nirvāna ?

‘Yes, your Majesty’ .

‘How is, that, Nāgasena?’

3.4.8. Niết-bàn là sự tịnh diệt  

Đức vua hỏi: ‘Thưa tôn giả Nāgasena, có phải Niết Bàn là diệt (nirodha), là tịnh diệt không?

“Tâu đại vương, đúng vậy. Niết Bàn là sự tịnh diệt, một trạng thái vắng lặng.”

'Thưa tôn giả, điều đó là như thế nào?

‘All foolish individuals, O king, take pleasure in The senses and in the objects of sense, find delight in them, continue to cleave to them. Hence are they carried down by that flood (of human passions), they are not set free from birth, old age, and death, from grief, lamentation, pain, sorrow, and despair—they are not set free, I say, from suffering. But the wise, O king, the disciple of the noble ones, neither takes pleasure in those things, nor finds delight in them, nor continues cleaving to them. And inasmuch as he does not, in him craving ceases, and by the cessation of craving grasping ceases, and by the cessation of grasping becoming ceases, and when becoming has ceased birth ceases, and with its cessation birth, old age, and death, grief, lamentation, pain, sorrow, and despair cease to exist. Thus is the cessation brought about, the end of all that aggregation of pain. Thus is it that cessation is Nirvāṇa.’

Thưa đại vương, tất cả những kẻ ngu si đều thích thú với các giác quan và các đối tượng của giác quan, tìm thấy niềm vui thích trong chúng, tiếp tục bám víu vào chúng. Do đó, họ bị dòng lũ đó (của những dục lạc của con người) cuốn đi, họ không được giải thoát khỏi sinh, lão, tử, sầu, bi, khổ, ưu, não - bần tăng nói, họ không được giải thoát khỏi đau khổ. Tâu đại vương, bậc trí giả, bậc Thánh đệ tử của Đức Phật, không ưa thích, không thích thú, không bám víu vào chúng. Và chừng nào vị ấy không còn tham ái, tham ái đã diệt tận; do sự diệt tận ái, có sự diệt tận của thủ; do sự diệt tận thủ, có sự diệt tận của hữu; do sự diệt tận hữu, có sự diệt tận của sanh; do sự diệt tận sanh, già chết sầu bi khổ ưu não bị diệt tận. Như vậy, mọi nguyên nhân của phiền não đau khổ đều ngưng nghỉ, vắng lặng; sự tịch diệt là Niết-bàn là như thế.'

‘Very good, Nāgasena!’

Thật là tuyệt vời, thưa tôn giả Nāgasena!

3.4.9. Not all receive Nibbāna  

The king said: ‘Venerable Nāgasena, do all men receive Nirvāna?’

‘Not all, O king. But he who walks righteously, who admits those conditions which ought to be admitted, perceives clearly those conditions which ought to be clearly perceived, abandons those conditions which ought to be abandoned, practises himself in those conditions which ought to be practised, realises those conditions which ought to be realised—he receives Nirvāṇa.’

3.4.9. Không phải tất cả đều đạt Niết-bàn  

Đức vua hỏi: Thưa tôn giả Nibbāna, phải chăng tất cả mọi người đều đạt đến Niết-bàn?

Thưa đại vương, không phải tất cả mọi người đều đạt Niết-bàn. Người nào tu tâp theo chánh pháp, do có trí tuệ biết rõ những pháp, thấy rõ những pháp nên nhận thức các pháp rõ ràng, diệt trừ những pháp cần phải diệt trừ, tu tập trong những pháp nên tu tập, chứng ngộ những pháp cần được chứng ngộ—người đó đạt được Niết-bàn

‘Very good, Nāgasena!’

"Thưa tôn giả Nāgasena, thật là tuyệt vời!'

3.4.10. One not receiving Nibbāna knows it is happy  

The king said: ‘Venerable Nāgasena, does he who does not receive Nirvāṇa know how happy a state Nirvāṇa is ?’

3.4.10. Người không chứng đắc Niết-bàn biết được Niết-bàn là hạnh phúc.  

Đức vua hỏi: ‘Thưa tôn giả Nāgasena, người chưa chứng đắc Niết-bàn có biết trạng thái Niết-bàn hạnh phúc như thế nào không?’

‘Yes, he knows it.’

‘But how can he know that without his receiving Nirvāṇa?’

'Thưa đại vương, người chưa chứng đắc Niết-bàn có biết trạng thái hạnh phúc của Niết-bàn

'Nhưng thưa tôn giả, người đó biết thế nào khi họ chưa chứng đắc Niết-bàn?'

‘Now what do you think, O king? Do those whose hands and feet have not been cut off know how sad a thing it is to have them cut off?’

'Thưa đại vương, đại vương nghĩ gì về điều này? Những người chưa bị chặt tay chân có biết bị khi bị chặt tay chân thì đau đớn như thế nào không?”

‘Yes, Sir, that they know.’

‘But how do they know it?’

‘Well, by hearing the sound of the lamentation of those whose hands and feet have been cut off, they know it.’

'Thưa tôn giả, người đó biết sự đau đớn khi bị chặt tay chân.'

'Nhưng ông ta biết như thế nào thưa đại vương?

'Thưa tôn giả, người đó nghe tiếng rên la của những người bị chặt tay và chân, nên người đó biết có sự đau đớn khi bị chặt tay chân.

‘Just so, great king, it is by hearing the glad words of those who have seen Nirvāṇa, that they who have not received it know how happy a state it is.’

'Thưa đại vương, cũng như vậy, chính nhờ nghe những lời vui mừng của những người đã thấy Niết-bàn, mà những người chưa nhận được Niết-bàn biết được trạng thái hạnh phúc như thế nào.’

‘Very good, Nāgasena!’

Here ends the Fourth Chapter.

'Thật là tuyệt vời, thưa tôn giả Nāgasena!

'Chương Bốn dứt tại đây

3.5.1. Seeing the Buddha  

The king said: ‘Have you, Nāgasena, seen the Buddha?’

‘No, Sire.’

‘Then have your teachers seen the Buddha?’

‘No, Sire.’

‘Then, venerable Nāgasena, there is no Buddha!’

‘But, great king, have you seen the river ūhā in the Himālaya mountains?’

‘No, Sir.’

‘Or has your father seen it?’

‘No, Sir.’

3.5.1. Nhìn thấy Đức Phật  

Đức vua hỏi: 'Thưa tôn giả Nāgasena, tôn giả có được nhìn thấy Đức Phật không?

'Thưa Đại Vương, bần tăng chưa nhìn thấy Đức Phật.'

'Thưa tôn giả, vậy thầy giáo thọ của tôn giả nhìn thấy Đức Phật không?

'Thưa đại vương, thầy giáo thọ của bần tăng chưa nhìn thấy Đức Phật.'

'Thưa tôn giả, như vậy là không có Đức Phật.'

'Thưa đại vương, ngài có nhìn thấy dòng sông Ūhā ở dãy núi Himālaya không?”

'Thưa tôn giả, trẫm không nhìn thấy dòng sông Ūhā ở dãy núi Himālaya'

'Vậy thưa đại vương, phụ vương của ngài có nhìn thấy dòng sông Ūhā ở dãy núi Himālaya không?

'Thưa tôn giả, phụ vương của trẫm không nhìn thấy dòng sông Ūhā ở dãy núi Himālaya'

‘Then, your Majesty, is there therefore no such river?’

‘It is there. Though neither I nor my father has seen it, it is nevertheless there.’

'Thưa đại vương, như vậy là không có dòng sông Ūhā ở dãy núi Himālaya.'

'Thưa tôn giả, dòng sông Ūhā có ở dãy núi Himālaya mặc dù trẫm và phụ vương của trẫm không nhìn thấy.'

‘Just so, great king, though neither I nor my teachers have seen the Blessed One, nevertheless there was such a person.’

'Thưa đại vương, tương tự như vậy, mặc dù bần tăng và những vị giáo thọ sư của bần tăng chưa nhìn thấy Đức Thế Tôn, nhưng mà có Đức Thế Tôn.'

‘Very good, Nāgasena!’

'Thật là tuyệt vời, thưa tôn giả Nāgasena!

3.5.2. The Buddha is pre-eminent  

The king said: ‘Is the Buddha, Nāgasena, pre-eminent?’

‘Yes, he is incomparable.’

‘But how do you know of one you have never seen that he is pre-eminent.’

3.5.2. Đức Phật là bậc Ưu Việt  

Đức vua nói: Thưa tôn giả Nāgasena, có phải Đức Phật là bậc Vô Thương?

'Thưa đại vương, đúng vậy Đức Phật chính là bậc Vô Thương.'

Thưa tôn giả Nāgasena, làm thế nào ngài biết được ‘Đức Phật là bậc Vô Thượng’ khi Ngài chưa từng được thấy Đức Phật trước đây?”

‘Now what do you think, O king? They who have never seen the ocean would they know concerning it: “Deep, unmeasurable, unfathomable is the mighty ocean. Into it do the five great rivers flow—the Ganges, the Jumna, the Aciravatī, the Sarabhū, and the Mahī—and yet is there in it no appearance of being more empty or more full!”?’

‘Thưa đức vua, Ngài nghĩ sao, những người chưa bao giờ nhìn thấy đại dương liệu họ có biết về nó: “Sâu thẳm, không thể đo lường, không thể dò được là đại dương bao la. Năm con sông lớn chảy vào đó — sông Hằng, sông Jumna, sông Aciravatī, sông Sarabhū và sông Mahī—vậy mà trong nó không có vẻ gì là trống rỗng hơn hay đầy đủ hơn!”?’

‘Yes, they would know that.’

‘Just so, great king, when I think of the mighty disciples who have passed away then do I know that the Buddha is incomparable.’

'Thưa tôn giả, họ có thể biết.'

Tâu đại vương, cũng vậy khi bần tăng nghĩ đến những vị Thánh đệ tử đã viên tịch, bần tăng biết rằng Đức Phật là bậc Vô Thượng’

‘Very good, Nāgasena!’

'Thật là tuyệt vời thưa tôn giả Nāgasena!

3.5.3. Knowing the Buddha’s incomparability  

The king said: ‘Is it possible, Nāgasena, for others to know how incomparable the Buddha is?’

3.5.3. Biết được sự vô thượng của Đức Phật  

Đức vua nói: “Thưa tôn giả Nāgasena, có thể cho những người khác biết Đức Phật vô song như thế nào không?”

‘Yes, they may know it.’

‘But how can they?’

‘Long, long ago, O king, there was a master of writing, by name Tissa the Elder, and many are the years gone by since he has died. How can people know of him?’

'Thưa đại vương, vâng, họ có thể biết điều đó.'

'Nhưng họ biết như thế nào?'

‘Tâu đại vương, cách đây rất lâu, có một học giả về văn chương, tên là Trưởng lão Tissa, và đã nhiều năm trôi qua kể từ khi ông qua đời. Làm sao mọi người có thể biết về anh ta?’

By his writing, Sir.’

‘Just so, great king, whosoever sees what the Truth is, he sees what the Blessed One was, for the Truth was preached by the Blessed One.’

'Thưa tôn giả, nhờ những bài viết của ông ta để lại

Tâu đại vương, cũng như vậy, ai thấy được Chân lý là thấy được Thế Tôn, vì Chân lý đã được Thế Tôn thuyết giảng.’

‘Very good, Nāgasena!’

'Thật là tuyệt vời, thưa tôn giả Nāgasena!

Đầu trang | 1 | 2 | 03 | 04 | 05 | 06 | 07 | 08 | 09 | 10 | 11 | 12 | 13 | 14 | 15 | 16 | 17 | 18 |

Cập nhập ngày: Thứ Năm 25-8-2006

webmasters: Minh Hạnh & Nguyễn Văn Hòa,

* | *| trở về đầu trang | Home page |