3.1.14. Meditation  

The king said: ‘What, Nāgasena, is the characteristic mark of meditation ?

‘Being the leader, O king. All good qualities have meditation as their chief, they incline to it, lead up towards it, are as so many slopes up the side of the mountain of meditation.’

3.1.14.Tướng trạng của Định  

Đức vua hỏi: 'Thưa tôn giả Nāgasena, tướng trạng của định là gì?

‘Thưa đại vương , định gọi là Nhất Tâm. Trạng thái chú tâm vào đối tượng, tâm này áp đảo được sự tham dục ái nhiễm và tất cả những thiện pháp đều có định làm chủ đạo, định là nơi chúng hướng về, cũng giống như rất nhiều dốc hướng đến đỉnh điểm núi thiền định. '

‘Give me an illustration.’

‘As all the rafters of the roof of a house, O king, go up to the apex, slope towards it, are joined on together at it, and the apex is acknowledged to be the top of all; so is the habit of meditation in its relation to other good qualities.’

'Cho trẫm một minh họa.'

'Thưa đại vương, ví như tất cả các kèo của mái một ngôi nhà chóp nhọn đều hướng lên đỉnh, được tụ lại tại đỉnh điểm của nó, và chóp nhọn được thừa nhận là đỉnh của tất cả các kèo; một người tu tập thiền định cũng vậy tất cả thiện pháp đều có định trong mối quan hệ của nó với những thiện pháp khác, định là điểm tụ. "

‘Give me a further illustration.’

‘It is like a king, your Majesty, when he goes down to battle with his army in its fourfold array. The whole army—elephants, cavalry, war chariots, and bowmen—would have him as their chief, their lines would incline towards him, lead up to him, they would be so many mountain slopes, one above another, with him as their summit, round him they would all be ranged. And it has been said, O king, by the Blessed One: “Cultivate in yourself, O Bhikkhus, the habit of meditation. He who is established therein knows things as they really are.”’

'Cho trẫm một minh dụ khác.'

‘Thưa đại vương, giống như một vị vua, khi ra trận chiến với đội quân của mình gồm bốn binh chủng. Toàn bộ quân đội gồm — tượng binh, kỵ binh, chiến xa và lính bắn cung — đức vua là thủ lĩnh của bốn đội binh đó, mọi binh chủng đều hướng về đức vua là đỉnh điểm, họ ví như là rất nhiều sườn núi, nằm trên đỉnh núi khác, với đức vua là điểm đỉnh của họ. , xung quanh đức vua. Đức Thế Tôn thuyết rằng: “này các Tỳ khưu, hãy trau dồi cho mình thói quen tu tập thiền định trong chính mình. Ai đạt được định người đó biết mọi thứ như chúng thực sự là (Như Lý Tác Ý). "

‘Well put, Nāgasena!’

'Thật là tuyệt vời, thưa tôn giả Nāgasena!'

3.1.15. Wisdom  

The king said: ‘What, Nāgasena, is the characteristic mark of wisdom ?’

‘I have already told you, O king, how cutting off, severance, is its mark, but enlightenment is also its mark.’

3.1.15. Tướng trạng của Tuệ  

Đức vua nói: 'Thưa tôn giả, tướng trạng của Tuệ là gì?

'Thưa đại vương, bần tăng đã nói với ngài rồi, tướng trạng của tuệ là cắt đứt phiền não, và soi sáng, nhưng sự giác ngộ cũng là tướng trạng của Tuệ.'

‘And how is enlightenment its mark?’

‘When wisdom springs up in the heart, O king, it dispels the darkness of ignorance, it causes the radiance of knowledge to arise, it makes the light of intelligence to shine forth, and it makes the Noble Truths plain. Thus does the recluse who is devoted to effort perceive with the clearest wisdom the impermanency (of all beings and things), the suffering (that is inherent in individuality), and the absence of any soul.’

'Như thế nào là tướng trạng của sự giác ngộ?'

'Thưa đại vương, khi trí tuệ phát sinh thì ánh sáng đến, mê mờ và tăm tối biến mất, ánh sáng làm hiển lộ nó làm cho tri thức phát sinh, nó làm cho ánh sáng của Tuệ hiển bày, thấu hiểu các chân lý Thánh Đế (Khổ Thánh Đế, Tập Khổ Thánh Đế, Diệt Khổ Thánh Đế, Đạo Diệt Khổ Thánh Đế) trở nên rõ ràng. Vì vậy, người hành giả, người tinh tấn với nỗ lực nhận thức bằng trí tuệ sáng suốt nhất về sự Vô Thường (của tất cả chúng sinh và vạn vật), sự Bất Toại Nguyện (vốn có trong cá nhân), và sự Vô Ngã của bất kỳ sự hiện hữu nào. "

‘Give me an illustration.’

‘It is like a lamp, O king, which a man might introduce into a house in darkness. When the lamp had been brought in it would dispel the darkness, cause radiance to arise, and light to shine forth, and make the objects there plainly visible. Just so would wisdom in a man have such effects as were just now set forth.’

'Cho trẫm một minh dụ.'

‘Thưa đại vương, ví như một người cầm cây đèn đi vào một ngôi nhà tối tăm. Khi cây đèn được mang vào nó sẽ xua tan bóng tối, làm phát ra ánh sáng chói lọi, ánh sáng chiếu ra và làm cho các vật thể ở đó có thể nhìn thấy rõ ràng. Cũng như vậy, một hành giải có tuệ sinh khởi có thể diệt trừ các phiền não, xóa tan vô minh, nhờ đó hành giả nhận thức rõ tất cả pháp hữu vi đều Vô Thường, sự Bất Toại Nguyện, và Vô Ngã. Thưa đại vương, tướng trạng của Tuệ là như vậy.'

‘Well put, Nāgasena!’

'Thật là tuyệt vời, thưa tôn giả Nāgasena!'

3.1.16. Different results  

The king said: ‘These qualities which are so different, Nāgasena, do they bring about one and the same result?’

‘They do. The putting an end to evil dispositions.’

‘How is that? Give me an illustration.’

‘They are like the various parts of an army—elephants, cavalry, war chariots, and archers—who all work to one end, to wit: the conquest in battle of the opposing army.’

‘Well put, Nāgasena!’

Here ends the First Chapter.

3.1.16. Sự khác biệt của các pháp   

Đức vua hỏi: “Thưa tôn giả Nāgasena, các pháp này rất khác nhau, chúng có đem lại một kết quả giống nhau không?”

'Thưa đại vương, các pháp này thật có sự khác biệt nhưng chúng đều diệt trừ được các phát bất thiện.'

'Điều đó như thế nào? Cho trẫm một minh dụ.'

'Thưa đại vương, giống như các quân đội bao gồm nhiều binh chủng như — tượng binh, kỵ binh, chiến xa và lính cung thủ — tất cả đều hoạt động vì một mục đích là chiến thắng quân đối địch, tương tự, các pháp này là khác biệt, nhưng chúng đều có mục đích là diệt trừ các pháp phiền não.'

'Thật là tuyệt vời thưa Ngài Nāgasena!’

'Tới đây là dứt chương thứ Nhất'

3.2.1. Continued identity and re-individualisation  

The king said: ‘He who is born, Nāgasena, does he remain the same or become another?’

‘Neither the same nor another.’

‘Give me an illustration.’

3.2.1. Sự tương quan thân trước và sau khi tái sinh  

Đức vua hỏi rằng: "Thưa tôn giả, Nāgasena, một người tái sinh vẫn là người như cũ hay trở thành một người khác?"

"Thưa đại vương, không phải người cũ cũng không phải là người khác

'Cho trẫm một minh họa.'

‘Now what do you think, O king? You were once a baby, a tender thing, and small in size, lying flat on your back. Was that the same as you who are now grown up?’

'Thưa đại vương, đại vương nghĩ gì khi đại vương đã từng là một đứa trẻ thơ, yếu đuối, và nhỏ bé, nằm ngửa. Có phải đại vương hồi đó và người bây giờ đã trưởng thành là giống nhau không? "

‘No. That child was one, I am another.’

‘If you are not that child, it will follow that you have had neither mother nor father, no! nor teacher. You cannot have been taught either learning, or behaviour, or wisdom. What, great king! is the mother of the embryo in the first stage different from the mother of the embryo in the second stage, or the third, or the fourth ? Is the mother of the baby a different person from the mother of the grown-up man? Is the person who goes to school one, and the same when he has finished his schooling another? Is it one who commits a crime, another who is punished by having his hands or feet cut off ?’

'Thưa tôn giả, không phải. Đó là một đứa bé, trẫm bây giờ là khác.'

'Thưa đại vương, nếu hiện tại đại vương không phải là đứa trẻ thơ đó, đại vương sẽ không có cha lẫn mẹ, phải không! cũng không người gọi là thầy. Đại vương không thể được dạy về cách học, cách cư xử, hoặc trí tuệ. Cái gì, đại vương! Mẹ của phôi ở giai đoạn đầu khác với mẹ của phôi ở giai đoạn thứ hai, hay thứ ba, hay thứ tư? Mẹ của đứa bé có phải là một người khác với mẹ của người đàn ông trưởng thành? Người đi học là một, và khi người đó đã hoàn thành việc học của mình có giống nhau không? Có phải là một người phạm tội, một người khác bị trừng phạt bằng cách chặt tay hoặc chân của mình? "

‘Certainly not. But what would you, Sir, say to that? ’

The Elder replied: ‘I should say that I am the same person, now I am grown up, as I was when I was a tender tiny baby, flat on my back. For all these states are included in one by means of this body.’

Thưa tôn giả, chắc chắn là không rồi. Nhưng ngài nói điều đó là gì?

'Trưởng lão trả lời: ‘Thưa đại vương, bần tăng nói rằng bần tăng đã là một đứa trẻ thơ, bé bỏng, nằm ngửa như vậy, bây giờ bần tăng đã trưởng thành. Vì tất cả các trạng thái này được bao gồm trong một trạng thái bởi thân này. '

‘Give me an illustration.’

‘Suppose a man, O king, were to light a lamp, would it burn the night through?’

‘Yes, it might do so.’

‘Now, is it the same flame that burns in the first watch of the night, Sir, and in the second?’

‘No.’

‘Or the same that burns in the second watch and in the third?’

‘No.’

‘Then is there one lamp in the first watch, and another in the second, and another in the third?’

'Cho trẫm một minh dụ.'

“Thưa đại vương, giả sử một người thắp sáng một ngọn đèn, liệu nó có thể sáng suốt đêm không?”

'Thưa tôn giả, nó có thể cháy sáng suốt đêm.'

'Thưa đại vương, vậy thì, có phải cùng một ngọn lửa cháy trong canh đầu và canh hai của đêm không?'

'Thưa tôn giả, không phải'

'Thưa đại vương, vậy có phải cùng một ngọn lửa cháy trong canh hai và canh ba không?'

'Thưa tôn giả, không phải.'

'Thưa đại vương, vậy có phải một ngọn đèn canh đầu, và ngọn đèn khác trong canh hai, và ngọn khác trong canh ba không?'

‘No. The light comes from the same lamp all the night through.’

‘Just so, O king, is the continuity of a person or thing maintained. One comes into being, another passes away; and the rebirth is, as it were, simultaneous. Thus neither as the same nor as another does a man go on to the last phase of his self-consciousness.’

'Thưa tôn giả, không. Ánh sáng đến từ cùng một ngọn đèn suốt đêm.'

‘Thưa đại vương, cũng như vậy sự diễn tiến của một người hay một sinh vật được duy trì liên tục . Một đứa trẻ được sinh ra đời, và một người già ra đi; và sự tái sinh, như nó vốn có, là xảy ra cùng một lúc. Vì vậy, không phải là người đó, mà cũng không phải là người khác, một người đi đến giai đoạn cuối cùng của sự trực giác của mình. "

‘Give me a further illustration.’

‘It is like milk, which when once taken from the cow, turns, after a lapse of time, first to curds, and then from curds to butter, and then from butter to ghee. Now would it be right to say that the milk was the same thing as the curds, or the butter, or the ghee?’

'Thưa tôn giả, cho trẫm một minh dụ khác.'

'Thưa đại vương, cũng giống như sữa, khi một lần được lấy từ con bò, để một thời gian, đầu tiên là sữa bị đông lại, rồi từ sữa đông làm thành bơ, rồi từ bơ thành bơ lỏng. Bây giờ sẽ đúng khi nói rằng sữa mới lấy từ con bò là sữa đông, hay bơ, hay bơ lỏng không?'

‘Certainly not; but they are produced out of it.’

‘Just so, O king, is the continuity of a person or thing maintained. One comes into being, another passes away; and the rebirth is, as it were, simultaneous. Thus neither as the same nor as another does a man go on to the last phase of his self-consciousness.’

'Thưa tôn giả, chắc chắn là không rồi; nhưng chúng được tạo ra từ sữa.'

Thưa đại vương, cũng như vậy sự diễn tiến của một người hay một sinh vật được duy trì liên tục . Một đứa trẻ được sinh ra đời, và một người già ra đi; và sự tái sinh, như nó vốn có, là xảy ra cùng một lúc. Vì vậy, không phải là người đó, mà cũng không phải là người khác, một người đi đến giai đoạn cuối cùng của sự trực giác của mình.

‘Well put, Nāgasena!’

'Thưa tôn giả Nāgasena, thật là tuyệt vời!'

3.2.2. Rebirth and awareness  

The king said: ‘Is a man, Nāgasena, who will not be reborn, aware of the fact?’

‘Yes, O king.’

‘And how does he know it

‘By the cessation of all that is cause, proximate or remote, of rebirth.’

3.2.2. Tái sinh và sự tỉnh thức  

Đức vua hỏi: "Thưa tôn giả Nāgasena, phải chăng một người không tái sinh tỉnh thức được điều đó không?"

Tôn giả Nāgasena trả lời: 'Thưa đại vương, đúng vậy."

Thưa tôn giả, người đó như thế nào mà biết được.'

Tôn giả Nāgasena trả lời: Thưa đại vương, do sự chấm dứt tất cả những gì tạo tác là liên quan đến gần hay xa, của sự đưa đến tái sinh, người đó biết mình sẽ không tái sinh nữa. '

‘Give me an illustration.’

‘Suppose a farmer, great king, had ploughed and sown and filled his granary; and then for a period should neither plough nor sow, but live on the stored-up grain, or dispose of it in barter, or deal with it as he had need. Would the farmer be aware, great king, that his granary was not getting filled?’

'Cho trẫm một minh dụ'

Thưa đại vương, giả sử một người nông dân đã cày ruộng và gieo hạt giống và làm đầy kho thóc của mình; rồi trong một thời gian không cày ruộng và cũng không gieo hạt giống, mà phải sống bằng số thóc dự trữ, hoặc đem đi đổi , hoặc xử lý theo nhu cầu của mình. Liệu người nông dân có biết rằng kho thóc của ông ấy bị vơi đi hông? "

‘Yes, he ought to know it.’

‘But how?’

‘He would know that the cause, proximate and remote, of the filling of the granary had ceased.’

‘Just so with the man you spoke of. By the cessation of all that leads to rebirth, he would be conscious of having escaped his liability to it.’

Đức vua trả lời: 'Ông ta chắc chắn phải biết'.

Tôn giả hỏi: "Thưa đại vương, vậy ông ta biết như thế nào?

'"Thưa tôn giả, người nông dân biết rõ nguyên nhân như thế nào mà kho thóc của mình đầy, thì bây giờ cũng do nguyên nhân ngược lại mà kho thóc của mình bị vơi đi."

“Thưa đại vương, tương tợ như với người người nông dân mà đại vương vừa nói. Một người chấm dứt việc tạo tác tất cả những nghiệp dẫn đến luân hồi, người đó ý thức được rằng mình đã thoát khỏi việc trả quả báo và không còn tái sinh nữa.'

‘Well explained, Nāgasena!’

Thưa tôn giả Nāgasena!: 'Lời giải thích của ngài thật là tuyệt vời.'

3.2.3. Wisdom and intelligence distinguished  

The king said: ‘He who has intelligence, Nāgasena, has he also wisdom ?’

‘Yes, great king.’

‘What; are they both the same?’

‘Yes.’

3.2.3. Trí (Kiến thức) và tuệ phân biệt  

Đức Vua hỏi: ‘Thưa tôn giả Nāgasena, phải chăng người có trí thông minh, người ấy cũng có trí tuệ?'

Tôn giả Nāgasena trả lời: 'Thưa đại vương, đúng vậy.'

'Vậy, trí thông minh và trí tuệ là giống nhau?'

'Đúng vậy, thưa đại vương.'

‘Then would he, with his intelligence—which, you say, is the same as wisdom—be still in bewilderment or not?’

‘In regard to some things, yes; in regard to others, no.’

Đức vua hỏi tiếp: 'Thưa ngài, với một người có trí thông minh giống như có tuệ -vậy người đó có còn sự hoang mang không?'

'Thưa đại vương, về một số điều người đó còn có sự không sáng suốt, và đối với một số điều người đó sáng suốt.'

‘What would he be in bewilderment about?’

‘He would still be in bewilderment as to those parts of learning he had not learnt, as to those countries he had not seen, and as to those names or terms he had not heard.’

Thưa tôn giả Nāgasena 'Người đó hoang mang về điều gì?'

'Thưa đại vương, trí thuộc về sự hiểu biết, có học thì có biết, do đó người đó vẫn còn hoang mang về những phần học mà người đó chưa từng học, về những quốc gia mà người đó chưa từng biết , và về những cái tên gọi hoặc thuật ngữ mà anh ta chưa từng nghe trước đây. '

‘And wherein would he not be in bewilderment?’

‘As regards that which has been accomplished by insight—(the perception, that is,) of the impermanence of all beings, of the suffering inherent in individuality, and of the non-existence of any soul.’

'Thưa tôn giả, và điều gì người đó sáng suốt?'

Thưa đại vương, sự sáng suốt là do Tuệ phát sinh liên quan đến điều đã đạt được bởi sự tỉnh thức- (tức là nhận thức) về sự vô thường của tất cả chúng sinh, về sự bất toại nguyện vốn có trong mỗi cá nhân, và về sự vô ngã của bất kỳ linh hồn nào. "

‘Then what would have become of his delusions on those points.’

‘When intelligence has once arisen, that moment delusion has died away.’

"Thưa tôn giả, vậy thì điều gì sẽ xảy ra khi anh ấy có sự hoang mang vào những điểm đó."

'Thưa đại vương, khi tuệ phân biệt sinh khởi, người đó tỉnh giác nhận thức được sự về sự vô thường của tất cả chúng sinh, về sự bất toại nguyện vốn có trong mỗi cá nhân, và về sự vô ngã của bất kỳ linh hồn nào. Thì những sự hoang mang đó biến mất. '

‘Give me an illustration.’

‘It is like the lamp, which when a man has brought into a darkened room, then the darkness would vanish away, and light would appear.’

'Cho trẫm một minh dụ.'

'Thưa đại vương, ví như ngọn đèn, khi một người mang vào phòng tối, thì bóng tối sẽ tan biến, và ánh sáng sẽ xuất hiện.'

‘And what, Nāgasena, on the other hand, has then become of his wisdom?’

‘When the reasoning wisdom has effected that which it has to do, then the reasoning ceases to go on. But that which has been acquired by means of it remains—the knowledge, to wit, of the impermanence of every being, of the suffering inherent in individuality, and of the absence of any soul.’

'Thưa tôn giả Nāgasena, nói một cách, sau khi tuệ phân biệt sinh khởi điều gì xảy ra với tuệ của ông ta? "

'Thưa đại vương, khi tuệ phân biệt đã sinh khởi biết được điều mà nó phải làm, thì tuệ sẽ biến mất. Nhưng những gì đã có được nhờ tuệ vẫn còn - nói cách khác, kiến thức về sự vô thường của mỗi chúng sinh, về sự bất toại nguyện vốn có trong mỗi cá nhân, và sự vô ngã của bất kỳ linh hồn nào, kiến thức đó thì không mất. '

‘Give me an illustration, reverend Sir, of what you have last said.’

‘It is as when a man wants, during the night, to send a letter, and after having his clerk called, has a lamp lit, and gets the letter written. Then, when that has been done, he extinguishes the lamp. But though the lamp had been put out the writing would still be there. Thus does reasoning cease, and knowledge remain.’

'Thưa tôn giả, hãy cho trẫm một hình ảnh minh họa, về những gì Ngài vừa nói. "

'Thưa đại vương, ví như khi một người muốn viết một lá thư trong đêm tối, và sau khi gọi nhân viên của mình thắp đèn sáng lên và người đó viết bức thư. Sau đó, khi việc đó đã được thực hiện xong, ngọn đèn được dập tắt. Nhưng dù ngọn đèn đã tắt thì chữ viết trong bức thư vẫn ở đó. Vì vậy, tương tự như thế, tuệ sau khi sinh khởi người đó nhận thức được sự vô thường trong mọi pháp, sự bất thoại nguyện, và sự vô ngã, kiến thức đó vẫn còn. "

‘Give me a further illustration.’

‘In Eastern districts The peasants have a custom of arranging five pots full of water behind each hut with the object of putting out at once any spark of fire that may be kindled. Suppose now the house had caught fire, and they had thrown those five potfulls of water over the hut, and the fire had gone out, would those peasants then think of still going on using the water-pots?’

'Cho trẫm một minh dụ khác.'

'Thưa đại vương, ở các huyện miền Đông, nông dân có phong tục để năm chum đầy nước phía sau mỗi túp lều với mục đích khi có bất kỳ xảy ra hỏa hoạn nào thì họ dập tắt ngay. Giả sử bây giờ một túp lều bị cháy, và họ đã đổ năm chum nước đó lên túp lều, và lửa đã tắt, những người nông dân đó sau đó có nghĩ đến việc tiếp tục sử dụng các chum nước đó không? "

‘No, Sir, the water-pots would be done with. What would be the use of them (on that occasion) any more?’

'Thưa tôn giả, không, các chum nước sẽ được dùng trong việc dập tắt đám cháy? Vậy còn việc gì để dùng với 5 chum nước đó?'

‘The five water-pots are the five organs of moral sense—faith, to wit, and perseverance in effort, and mindfulness, and meditation, and the reasoning wisdom. The peasantry are the recluse, who is devoted in effort ; the fire is sinfulness. As the fire is put out by the water in the five pots, so is sinfulness extinguished by the five organs of moral sense, and when once extinguished it does not again arise.’

'Thưa đại vương, năm chum nước ví như là năm pháp thuộc phần thù thắng (Visesabhāyiyā dhammā) của ngũ căn bao gồm- tín, tấn, niệm, định, tuệ được kiên trì trong nỗ lực, và chánh niệm, và thiền định, và tuệ phân tích. Những người nông dân ví như là những người sống ẩn dật, những người nỗ lực cống hiến; ngọn lửa là sự phiền não. Như lửa được dập tắt bởi nước trong năm cái chum, thì phiền não được dập tắt bởi năm pháp thu thắng của ngũ căn, và khi đã dập tắt thì nó sẽ không phát sinh nữa. '

‘Give me a further illustration.’

‘It is like a physician who goes to the sick man with the five kinds of drugs made from medicinal roots, and grinding them up, gives him to drink, and thereby his sickness passes away. Would the physician in that case think of making any further use of the medicine?’

'Thưa tôn giả, hãy cho trẫm một minh dụ'.

“Thưa đại vương, ví như một người thầy thuốc đến chữa bệnh cho một người bệnh bằng năm loại thuốc từ rễ của cây thuốc, rồi xay ra, cho người bệnh uống, và nhờ thuốc đó bệnh tật của người đó khỏi. Liệu người thầy thuốc trong trường hợp đó có nghĩ đến việc sử dụng thêm thuốc không? "

‘Certainly not, the medicine has done its work. What would be the use of any more?’

‘Just so, O king, when sinfulness is destroyed by the five moral powers, then reasoning ceases, but knowledge remains.’

'Thưa tôn giả, chắc chắn là không, thuốc đã chữa được bệnh cho người bệnh rồi. Thì không còn việc gì để sử dụng nữa? '

'Tâu đại vương, khi phiền não đã được diệt trừ bởi năm pháp thuộc phần thù thắng (Visesabhāyiyā dhammā) của ngũ căn, thì không cần dùng đến tuệ phân tích nữa, nhưng tri thức vẫn còn. '

‘Give me a further illustration.’

‘It is like a warrior, at home in war, who takes five javelins and goes down to ‘battle to conquer the foe. And when he has cast them the enemy is broken. There is no need for him to go on casting javelins any more.’

'Cho trẫm một minh dụ khác.'

‘Thưa đại vương, ví như một chiến sĩ ở chiến tường, người đó cầm năm mũi tên lao và đi xuống vào trận chiến để chinh phục kẻ thù. Và khi anh ta đã sử dụng chúng, kẻ thù sẽ bị phá vỡ. Anh ta không cần phải tiếp tục ném lao nữa. '

‘Well put, Nāgasena!’

'Thật là tuyệt vời, thưa tôn giả.'

3.2.4. Feelings of one who is not to be reborn  

The king said: ‘He who will not be reborn, Nāgasena, does he still feel any painful sensation?’

The Elder replied: ‘Some he feels and some not.’

‘Which are they?’

‘He may feel bodily pain, O king; but mental pain he would not.’

‘How would that be so?’

3.2.4. Những cảm thọ của Bậc Vô Sinh  

Đức vua hỏi: "Thưa tôn giả Nāgasena, một người sẽ không đi tái sinh người đó có còn thọ khổ không?"

Trưởng lão trả lời: "Thưa đại vương, một số cảm thọ người đó ấy cảm nhận được và một số thì không."

'Thưa tôn giả, người đó cảm thọ được gì và cái gì người đó không cảm nhận được?

‘Thưa đại vương, thân người đó có thể cảm thấy đau đớn; nhưng tâm người đó thì không. "

Đức vua hỏi tiếp: 'Thưa tôn giả, những điều đó sẽ xảy ra như thế nào?

‘Because the causes, proximate or remote, of bodily pain still continue, he would be liable to it. But the causes, proximate or remote, of mental agony having ceased, he could not feel it. For it has been said by the Blessed One: “One kind of pain he suffers, bodily pain: but not mental.”’

Thưa đại vương, do những nhân tạo trong quá khứ dù gần hay xa một người đạt đến quả vị Vô Sinh thì người đó vẫn phải trả quả báo chịu nỗi đau thể xác do đã tạo trong quá khứ. Tuy nhiên, tâm của vị đạt đến quả vị Vô Sinh thì không còn thọ khổ về tinh thần. Đức Thế Tôn nói: "Người đạt đến quả vị Vô Sinh người đó cảm thọ thuộc về thân và không cảm thọ thuộc về tâm."

‘Then why, Sir, does he not die?’

‘The Arahat, O king, has need neither to curry favour nor to bear malice. He shakes not down the unripe fruit, but awaits the full time of its maturity. For it has been said, O king, by the Elder, Sāriputta, the Commander of the faith :

"Thưa tôn giả, tại sao người đó không viên tịch Niết-bàn?'

Thưa đại vương, vị A-la-hán chưa viên tịch Niết-bàn vì các ngài không tham cầu sự sống hay chán ghét sự sống. Người đó không thăm đắm điều chưa chín muồi, các ngài chờ đợi thời gian chín muồi của nó. Vị Trưởng lão, Sāriputta, người có "đệ nhất trí tuệ nói rằng:

    “It is not death, it is not life I welcome;

    As the hireling his wage, so do I bide my time.

    It is not death, it is not life I want;

    Mindful and thoughtful do I bide my time.”’
‘Well put, Nāgasena!’

“Ta không chào đón cái chết, ta không chào đón cuộc sống;

Như người làm thuê mướn trông chờ tiền lương của mình, vì vậy ta đã mất thời gian của mình.

Không phải là cái chết, không phải là cuộc sống mà ta muốn;

Mà ta tỉnh giác và có chánh niệm.'

'Thưa tôn giả Nāgasena, thật là tuyệt vời!'

3.2.5. Is pleasure good?  

The king said: ‘Is a pleasant sensation, Nāgasena, good or evil or indifferent?’

‘It may be any one of the three.’

‘But surely, Sir, if good conditions are not painful, and painful ones not good, then there can arise no good condition that is at the same time painful.’

3.2.5. Cảm thọ lạc có là tốt?  

Đức vua hỏi: ‘Thưa tôn giả Nāgasena, một cảm thọ lạc là thiện hay bất thiện hay vô tư?'

'Tâu đại vương, nó có thể là bất kỳ một trong ba điều; cảm thọ lạc có thể là thiện, cũng có thể là bất thiện, và nó cũng có thể là vô tư. '

“Thưa tôn giả, Nhưng chắc chắn nếu là thiện thì không gây khổ, và nếu khổ thì đó là điều bất thiện, còn cái gì vừa là thiện và vừa là bất thiện thì điều đó không có.”

‘Now, what do you think, great king? Suppose a man were to hold in one hand a red-hot ball of iron, and in the other a lump of icy snow, would they both hurt him?’

‘Thưa đại vương, ngài nghĩ gì, ví một người cầm trong tay một viên bi sắt nóng đỏ, tay kia cầm một cục tuyết băng giá, liệu cả hai có làm anh ta bị thương không? "

‘Yes; they both would.’

‘But are they both hot?’

‘Certainly not.’

‘But are they both cold?’

‘No.’

'Thưa tôn giả, cả hai viên bi sắt nóng đỏ và cục tuyết băng giá lạnh đều làm tay người đó bị thương'

'Thưa đại vương, vậy cả hai cùng nóng?

'Thưa tôn giả, chắc chắn không phải'.

'Thưa đại vương, vậy cả hai cùng lạnh?'

'Thưa tôn giả, cũng không phải.'

‘Then acknowledge yourself put in the wrong! If the heat hurts, and they are not both hot, the pain cannot come from the heat. If the cold hurts, and they are not both cold, the pain cannot come from the cold. How then, O king, can they both hurt you, since they are not both hot, nor both cold, and (as one is hot and the other cold) the pain comes neither from the hot nor from the cold?’

Thưa đại vương, sau đó người đó thừa nhận bản thân đã làm sai! Nếu cái nóng làm bỏng tay, và cả hai đều không nóng, thì cơn đau không thể do cái nóng bỏng. Nếu cái lạnh làm đau, và cả hai đều không lạnh, thì cơn đau không thể đến từ cái lạnh. Vậy thì làm sao, thưa đại vương, cả hai đều có thể làm tổn thương người đó, vì cả hai đều không nóng, cũng không lạnh, và (chỉ một bên nóng và một bên lạnh) nỗi đau không đến từ nóng cũng không phải do lạnh. Do đó, chính những cảm giác nóng lạnh ở nơi thân mà chúng ta cũng khó phân biệt, thì những cảm thọ vi tế thuộc vui, thuộc khổ ở nơi tâm thì rất tương đối! '

‘I am not equal to argument with you. Be so good, Sir, as to explain how the matter stands.’

‘Thưa tôn giả, trẩm không giỏi như ngài để đàm luận. Ngài làm rất tốt, ngài hãy giải thích vấn đề này diễn ra như thế nào. "

Then the Elder reasoned with king Milinda, persuading him by talk on the subject drawn from the Abhidhamma, such as: ‘There are these six pleasures, O king, connected with life in the world, and these other six with renunciation. There are six griefs connected with life in the world, and six with renunciation. There are six kinds of indifference to pleasure and to grief connected with life in the world, and six with renunciation.

Altogether there are thus six series of six, that is to say, thirty-six kinds of sensations in the present, and the like number in the past, and the like in the future. And adding all these up in one total we arrive at one hundred and eight kinds of sensation.’

Sau đó, Trưởng lão dùng lý lẽ để thuyết phục vua Milinda, ngài thuyết phục vua bằng cách thuyết giảng các chủ đề liên quan đến Vi Diệu Pháp, chẳng hạn như: ‘Thưa đại vương, có 108 cảm thọ, và thế nào là 36 cảm thọ? Có sáu hỷ thọ liên hệ đến gia đình, có sáu hỷ thọ liên hệ đến ly dục; có sáu ưu thọ liên hệ đến gia đình, có sáu ưu thọ liên hệ đến ly dục; có sáu xả thọ liên hệ đến gia đình, có sáu xả thọ liên hệ đến ly dục.

Như vậy, tổng thể có sáu nhân sáu, nghĩa là, đây gọi là 36 cảm thọ. Như vậy, 36 cảm thọ trong hiện tại, và 36 cảm thọ trong quá khứ, và 36 cảm thọ trong tương lai. Và cộng tất cả lại với nhau, chúng ta đạt được 108 cảm thọ. '

‘Well put, Nāgasena!’

'Thưa tôn giả Nāgasena, thật là tuyệt vời!'

3.2.6. What is reborn?  

The king said: ‘What is it, Nāgasena, that is reborn?’

‘Name-and-form is reborn.’

‘What, is it this same name-and-form that is reborn?’

3.2.6. Cái gì tái sinh?  

Đức vua hỏi: Thưa tôn giả Nāgasena, cái gì làm chúng sinh đi tái sinh?

'Thưa đại vương, danh và sắc sẽ tái sinh.'

'Thưa tôn giả, có phải chính danh (tên) và sắc (thân) này đi tái sinh không?

‘No: but by this name-and-form deeds are done, good or evil, and by these deeds (this Karma) another name-and-form is reborn.’

‘Thưa đại vương, Không phải chính danh sắc này đi tái sinh, nhưng bởi danh và sắc này, đã tạo tác những việc làm, dù tốt hay xấu, và bởi những việc làm này (Nghiệp này), danh và sắc khác được tái sinh.”

‘If that be so, Sir, would not the new being be released from its evil Karma ?’

'Thưa tôn giả, nếu không phải chính danh sắc này đi tái sinh, thì một danh sắc mới sẽ thoát khỏi cái nghiệp đã tạo ra sao?'

The Elder replied: ‘Yes, if it were not reborn. But just because it is reborn, O king, it is therefore not released from its evil Karma.’

Trưởng lão đáp: ‘Thưa đại vương, nếu không đi tái sinh thì có thể thoát khỏi các nghiệp bất thiện. Nhưng chỉ vì nó được tái sinh, do đó nó không được giải thoát khỏi Nghiệp bất thiện của nó. "

‘Give me an illustration.’

‘Suppose, O king, some man were to steal a mango from another man, and the owner of the mango were to seize him and bring him before the king, and charge him with the crime. And the thief were to say: “Your Majesty! I have not taken away this man’s mangoes. Those that he put in the ground are different from the ones I took. I do not deserve to be punished.” How then? would he be guilty?’

'Thưa tôn giả, hãy cho trẫm một minh dụ.'

'Thưa đại vương, Giả sử một người ăn trộm xoài của một người khác, chủ trái xoài bắt người đó đem ra trước mặt vua và buộc tội người đó. Và tên trộm nói: “Tâu bệ hạ! Tôi đã không lấy đi xoài của người đàn ông này. Trái xoài của anh ta trồng hồi trước chỉ là hạt mầm ở dưới gốc ở dưới đất là hột là cây, khác với trái xoài tôi lấy ở trên cây. Tôi không đáng bị trừng phạt ”. Sau đó thế nào? người ấy có bị tội không? "

‘Certainly, Sir. He would deserve to be punished.’

‘But on what ground?’

'Thưa tôn giả, chắc chắn là người đó bị phạt.'

'Thưa đại vương, anh ta bị phạt với lý do gì?'

‘Because, in spite of whatever he may say, he would be guilty in respect of the last mango which resulted from the first one (the owner set in the ground).’

'Thưa tôn giả, dù những gì người đó có thể nói, người đó vẫn có tội là do hái trái xoài từ hột của trái xoài giống nảy mầm (của chủ sở hữu đặt dưới đất).'

‘Just so, great king, deeds good or evil are done by this name-and-form and another is reborn. But that other is not thereby released from its deeds (its Karma).’

Cũng như vậy, thưa đại vương, việc thiện hay bất thiện đều được thực hiện bởi danh và sắc này và một người khác được tái sinh. Nhưng cái người khác đó không do đó mà được giải thoát khỏi những việc làm của họ trong quá khứ (Nghiệp của họ). '

‘Give me a further illustration.’

‘It is like rice or sugar so stolen, of which the same might be said as of the mango. Or it is like the fire which a man, in the cold season, might kindle, and when he had warmed himself, leave still burning, and go away. Then if that fire were to set another man’s field on fire, and the owner of the field were to seize him, and bring him before the king, and charge him with the injury, and he were to say: “Your Majesty! It was not I who set this man’s field on fire. The fire I left burning was a different one from that which burnt his field. I am not guilty.” Now would the man, O king, be guilty?’

'Thưa tôn giả, hãy cho trẫm một minh dụ khác.'

'Thưa đại vương, cũng giống như gạo hoặc đường bị đánh cắp, người đánh cắp có thể nói điều tương tự như đối với trái xoài bị đánh cắp. Hoặc giống như ngọn lửa mà một người đốt lên trong mùa lạnh, và khi anh ta đã sưởi ấm mình xong người đó bỏ đi mà không dập tắt . Bấy giờ, nếu ngọn lửa đó đốt cánh đồng của người khác, và chủ cánh đồng bắt người ấy, đem người ấy đến trước mặt vua và buộc tội người ấy đã làm hư hại ruộng lúa của mình, thì người ấy nói rằng: “Tâu bệ hạ! Không phải tôi đã đốt cánh đồng của người đàn ông này. Ngọn lửa tôi đốt để sưởi ấm mình khác với ngọn lửa đã đốt cánh đồng của anh ấy. Tôi không có tội ”. Thưa đại vương, người đó có phải phạt không? "

‘Certainly, Sir.’

‘But why?’

‘Because, in spite of whatever he might say, he would be guilty in respect of the subsequent fire that resulted from the previous one.’

'Thưa tôn giả, người đó chắc chắn là bị phạt.'

'Thưa đại vương, tại sao người đó bị phạt?'

Thưa tôn giả, dù những gì anh ta có thể nói, anh ta vẫn bị phạt đối với vụ hỏa hoạn sau là do ngọn lửa trước anh ta dùng để sưởi ấm mình trước đó. '

‘Just so, great king, deeds good or evil are done by this name-and-form and another is reborn. But that other is not thereby released from its deeds (its Karma).’

Cũng như vậy, thưa đại vương, việc thiện hay bất thiện đều được thực hiện bởi danh và sắc này và một người khác được tái sinh. Nhưng cái người khác đó không do đó mà được giải thoát khỏi những việc làm của họ trong quá khứ (Nghiệp của họ).

‘Give me a further illustration.’

‘Suppose, O king, a man were to take a lamp and go up into the top storey of his house, and there eat his meal. And the lamp blazing up were to set the thatch on fire, and from that the house should catch fire, and that house having caught fire the whole village should be burnt. And they should seize him and ask: “What, you fellow, did you set our village on fire for?” And he should reply: “I’ve not set your village on fire! the flame of the lamp, by the light of which I was eating, was one thing; the fire which burnt your village was another thing.” Now if they, thus disputing, should go to law before you, O king, in whose favour would you decide the case?’

'Thưa tôn giả, hãy cho trẫm một minh dụ khác.'

'Thưa đại vương, ví như, một người cầm đèn đi lên tầng trên cùng của ngôi nhà mình, và ở đó dùng bữa. Ngọn đèn bốc cháy, làm cháy ngôi nhà đó, rồi cháy cả làng. Và họ bắt lấy anh ta và hỏi: "Hỡi anh bạn, có phải anh đã đốt làng chúng tôi?" Và anh ta nên trả lời: “Tôi không đốt làng của bạn! ngọn lửa của ngọn đèn mà cho ánh sáng để tôi ăn, là một ngọn lửa khác; và ngọn lửa thiêu rụi ngôi làng của bạn là một ngọn lửa khác. " Bây giờ, nếu họ tranh chấp đưa đến pháp luật, đưa trước mặt ngài, thưa đại vương, ngài sẽ quyết định vụ việc có lợi cho ai? "

‘In the villagers’ favour.’

‘But why?’

‘Because, Sir, in spite of whatever the man might say, the one fire was produced from the other.’

'Thưa tôn giả, cho những người trong làng.'

'Thưa đại vương, tại sao đại vương xử lợi thế cho dân làng?'

"Thưa tôn giả, bởi vì, bất chấp những gì người đàn ông đó có thể nói, nhưng ngọn lửa cháy ngôi làng là do từ ngọn lửa của cây đèn của người đàn ông đó."

‘Just so, great king, it is one name-and-form which has its end in death, and another name-and-form, which is reborn. But the second is the result of the first, and is therefore not set free from its evil deeds.’

‘Thưa đại vương, đúng như vậy, nó là một tên là Danh và một dạng là Sắc có sự kết thúc trong cái chết, và một cái tên (Danh) và dạng sinh vật khác (Sắc), được tái sinh. Nhưng cái thứ hai là quả của cái thứ nhất, và do đó không thoát khỏi những việc làm bất thiện của nó trong kiếp trước. "

‘Give me a further illustration.’

‘Suppose, O king, a man were to choose a young girl in marriage, and give a price for her and go away. And she in due course should grow up to full age, and then another man were to pay a price for her and marry her. And when the first one had come back he should say: “Why, you fellow, have you carried off my wife?” And the other were to reply: “It’s not your wife I have carried off! the little girl, the mere child, whom you chose in marriage and paid a price for is one; the girl grown up to full age whom I chose in marriage and paid a price for, is another.” Now if they, thus disputing, were to go to law about it before you, O king, in whose favour would you decide the case?’

'Thưa tôn giả, hãy cho trẫm một minh dụ.'

‘Thưa đại vương, hãy giả sử một người đàn ông chọn một cô gái trẻ để kết hôn, và đem đến lễ vật để đính hôn rồi ra về. Và cô ấy đến tuổi trưởng thành, và sau đó một người đàn ông khác đã đem lễ vật đến để hỏi cưới cô gái đó và kết hôn với cô gái đó. Người đàn ông đầu tiên quay lại, anh ta nên nói: "Này anh bạn, tại sao anh lại đem vợ tôi đi?" Và người kia trả lời: “Tôi mang cô gái này đi không phải là vợ anh! cô gái nhỏ ngày đó, một đứa bé đơn thuần, mà bạn đã chọn trong cuộc hôn nhân và đặt lễ hỏi là một đứa bé; Còn cô gái đã trưởng thành đến đủ tuổi thành hôn mà tôi đã chọn trong cuộc hôn nhân và đã đặt lễ cưới, lại là một người khác. ” Bây giờ họ có cuộc tranh chấp, phải đưa ra pháp luật về điều đó trước ngài, tâu đại vương, ngài sẽ quyết định vụ việc có lợi cho ai? '

‘In favour of the first.’

‘But why?’

‘Because, in spite of whatever the second might say, the grown-up girl would have been derived from the other girl.’

'Thưa tôn giả, trẫm sẽ xử lẽ phải cho người đến trước.'

'Thưa đại vương, tại sao ngài lại xử lẽ phải cho người đến trước?

'Thưa tôn giả, bởi vì, dù người thứ hai có thể nói như vậy, nhưng cô gái trưởng thành bây giờ là cô gái trẻ ngày xưa.'

‘Just so, great king, it is one name-and-form which has its end in death, and another name-and-form which is reborn. But the second is the result of the first, and is therefore not set free from its evil deeds.’

'Thưa đại vương, đúng như vậy, nó là Danh-và-Sắc cuối cùng cũng có kết cục là cái chết, và Danh-và-Sắc khác được tái sinh. Nhưng Danh và Sắc sau là nghiệp quả của Danh và Sắc trước, và do đó nó không thoát khỏi những việc làm bất thiện của nó. "'

‘Give me a further illustration.’

‘Suppose a man, O king, were to buy of a herdsman a vessel of milk, and go away leaving it in his charge, saying: “I will come for it to-morrow;” and the next day it were to become curds. And when the man should come and ask for it, then suppose the other were to offer him the curds, and he should say: “It was not curds I bought of you; give me my vessel of milk.” And the other were to reply: “Without any fault of mine your milk has turned to curds.” Now if they, thus disputing, were to go to law about it before you, O king, in whose favour would you decide the case?’

'Thưa tôn giả, hãy cho trẫm một minh dụ khác.'

‘Thưa đại vương, giả sử một người đàn ông mua một thùng sữa từ một người chăn gia súc , và gửi nó lại người chăn nuôi và nói rằng:“ Ngày mai, ta sẽ đến lấy nó; ” và ngày hôm sau nó đã trở thành sữa đông. Và khi người đàn ông đến lấy bình sữa, thì giả sử người kia đưa cho anh ta những món sữa đông, và người đàn ông đó nói: “Tôi đã mua của anh sữa tươi không phải là sữa đông; hãy đưa tôi thùng sữa tôi mua ngày hôm qua. " Và người chăn nuôi trả lời: "Không phải lỗi của tôi, chính thùng sữa này của bạn mua ngày hôm qua hôm nay đã biến thành sữa đông." Bây giờ nếu họ, do đó đang tranh chấp, phải đưa ra pháp luật về điều đó trước ngài, thưa đại vương ngài sẽ quyết định vụ việc có lợi cho ai? '

‘In favour of the herdsman.’

‘But why?’

‘Because, in spite of whatever the other might say, the curds were derived from the milk.’

'Thưa tôn giả, trẫm sẽ xử lẽ phải về người chăn nuôi.'

'Thưa đại vương, tại sao đại vương lại xử lẽ phải về người chăn nuôi?'

Thưa tôn giả, bởi vì, dù người đàn ông nói thì thì , thùng sữa đông vẫn là từ sữa tươi. "

‘Just so, great king, it is one name-and-form that finds its end in death, and another that is reborn. But that other is the result of the first, and is therefore not thereby released from its evil deeds (its bad Karma).’

'Thưa đại vương, đúng như vậy, Danh và Sắc cuối cùng là sự kết thúc của nó trong cái chết, và một Danh và Sắc khác được tái sinh. Nhưng cái khác đó là nghiệp quả của cái trước, và do đó nó không thoát khỏi những việc làm bất thiện của nó đã làm trong kiếp trước. (Nghiệp bất thiện của nó). '

‘Very good, Nāgasena!’

'Thưa tôn giả Nāgasena, thật là tuyệt vời!'

3.2.7. Will you be reborn?  

The king said: ‘Will you, Nāgasena, be reborn?’

Nay, great king, what is the use of asking that question again? Have I not already told you that if, when I die, I die with craving in my heart, I shall; but if not, not ?’

3.2.7. Ngài có đi tái sinh không?  

Đức vua hỏi: ‘Thưa tôn giả Nāgasena, Ngài có đi tái sinh không?’

'Thưa đại vương, việc đại vương hỏi lại một câu hỏi đã hỏi rồi thì có ích gì? Bần tăng đã không nói với đại vương rằng nếu, khi bần tăng chết mà còn tham sân si trong lòng, thì bần tăng sẽ đi tái sinh; nhưng nếu không có thì sẽ vô sinh sao? '

‘Give me an illustration.’

‘Suppose, O king, a man were to render service to the king: and the king, pleased with him, were to bestow an office upon him. And then that he, while living through that appointment, in the full possession and enjoyment of all the pleasures of sense, should publicly declare that the king had repaid him naught. Now would that man, O king, be acting rightly?’

'Cho trẫm một minh dụ.'

'Thưa đại vương, ví dụ, một người hầu phục vụ đại vương hết lòng; và đại vương hài lòng về người đó, ban thưởng cho ông ta một chức vụ. Và rồi ông ta, trong cuộc sống với đầy đủ quyền sở hữu và tận hưởng mọi thú vui theo ý muốn, nhưng người đó vẫn nói rằng nhà vua đã không cho ông ta một cái gì cả. Bây giờ người đàn ông đó, hỡi đức vua, có hành động đúng không? "

‘Most certainly not.’

‘Just so, great king, what is the use of asking that question again? Have I not already told you that if, when I die, I die with craving in my heart, I shall; and if not, not?’

'Thật không nên nói như thế.'

'Thưa đại vương, tương tựa như thế, việc hỏi lại câu hỏi đã hỏi rồi có ích gì? Bần tăng đã không nói với đại vương rằng nếu, khi bần tăng chết mà còn tham sân si trong lòng, thì bần tăng sẽ đi tái sinh; nhưng nếu không có thì sẽ vô sinh sao? '

‘You are ready, Nāgasena, in reply.’

'Thưa tôn giả Nāgasena, Trẫm đã hiểu ý Ngài.'

3.2.8. Name and form  

The king said: ‘You were talking just now of name-and-form. What does “name” mean in that expression, and what “form”?’

3.2.8. Danh và Sắc  

Đức vua hỏi: 'Thưa tôn giả, Ngài có nói đến Danh và Sắc. Vậy Danh là gì và Sắc là gì?'

‘Whatever is gross therein, that is “form": whatever is subtle, mental, that is “name.”’

‘Thưa đại vương, Bất cứ cái gì hiện bày mà mắt thấy được, có thể xúc chạm được đó là Sắc Pháp, và những pháp nào trừu tượng mắt không nhìn thấy, không thể xúc chạm, nó vi tế trong tâm, thì đó là Danh Pháp.'

‘Why is it, Nāgasena, that name is not reborn separately, or form separately?’

“Thưa tôn giả, Nāgasena, Tại sao Danh không có tái sinh riêng biệt , và Sắc không tái sinh riêng biệt?”

‘These conditions, great king, are connected one with the other; and spring into being together.’

'Thưa đại vương, những điều kiện này Danh và Sắc được kết nối tương liên với nhau. Danh phải nương vào sắc, và Sắc phải nương vào Danh mới cấu tạo thành một chúng sinh. Có cái này với cái kia, và chúng liên kết nhau.'

‘Give me an illustration.’

‘As a hen, great king, would not get a yolk or an egg-shell separately, but both would arise in one, they two being intimately dependent one on the other; just so, if there were no name there would be no form. What is meant by name in that expression being intimately dependent on what is meant by form, they spring up together. And this is, through time immemorial, their nature.’

'Cho trẫm một minh dụ.'

'Thưa đại vương, như con gà mái, cái trứng của nó sẽ không đẻ ra được một lòng đỏ hoặc một vỏ trứng riêng biệt, nhưng cả hai sẽ tương liên trong một, hai yếu tố này phụ thuộc mật thiết vào nhau; tương tựa như vậy, nếu không có Danh thì sẽ không có Sắc. Ý nghĩa của Danh trong cách diễn đạt đó phụ thuộc mật thiết vào ý nghĩa của Sắc, chúng xuất hiện cùng nhau. Và đây là bản chất của chúng trong mọi thời gian. '

‘You are ready, Nāgasena, in reply.’

'Thưa tôn giả Nāgasena, Trẫm đã hiểu ý Ngài.'

3.2.9. Time  

The king said: ‘You speak, Nāgasena, of time immemorial. What does this word “time” mean?’

‘Past time, O king, and present, and future.’

‘But what? is there such a thing as time?’

‘There is time which exists, and time which does not.’

‘Which then exists, and which not?’

3.2.9. Thời gian  

Đức vua hỏi: ‘Thưa tôn giả Nāgasena, Ngài nói trong mọi thời gian. Từ vựng “thời gian” này có nghĩa là gì?'

'Thưa đại vương, trong mọi thời gian ở đây có nghĩa là thời quá khứ, thời hiện tại và thời tương lai.'

'Thưa tôn giả, vậy trường hợp nào không còn có thời gian?'

'Thưa đại vương, Có thời gian hiện hữu và thời gian không hiện hữu. '

'Thưa tôn giả, vậy thời gian nào hiện hữu và thời gian nào không hiện hữu?'

‘There are conditions (constituent potentialities of being), O king, which are past in the sense of having passed away, and ceased to be, or of having been dissolved, or altogether changed. To them time is not.

But there are conditions of heart which are now producing their effect, or still have in them the inherent possibility of producing effect, or which will otherwise lead to reindividualisation. To them time is.

In the case of beings who, having died, have been reborn elsewhere, time is.

In the case of beings who, having died, have not been reborn elsewhere, time is not; and in the case of beings who are altogether set free (who, having attained Nirvāna in their present life, have come to the end of that life), there time is not—because of their having been quite set free.’

'Thưa đại vương, có những điều kiện (tiềm năng cấu tạo thành của một chúng sinh), là quá khứ theo nghĩa là đời sống của kiếp trước, đã dập tắt tất cả tạo tác, tức là các pháp hành không còn tạo tác, như vậy là chấm dứt sanh tử, họ không còn đi tái sinh - bậc vô sinh, như vậy là không còn thời gian.

Nhưng có những điều kiện (tiềm năng cấu tạo thành của một chúng sinh), tâm của chúng sinh đó hiện đang tạo tác, hoặc vẫn có trong chúng khả năng tạo tác vốn có, sẽ dẫn đến sự tái sinh. Đối với chúng sinh này là có thời gian

Trong trường hợp của những chúng sinh đã chết, được tái sinh ở nơi khác, thì có thời gian .

Trong trường hợp của những chúng sinh đã chết, chưa được tái sinh ở nơi khác, thì không có thời gian; và trong trường hợp của những chúng sinh đã giải thoát - đạt được vô sinh (những người đã đạt được Niết-bàn trong kiếp hiện tại, đã đi đến cuối kiếp đó), thì không có thời gian — bởi vì đã được hoàn toàn giải thoát'.

‘You are ready, Nāgasena, in reply.’

'Thưa tôn giả Nāgasena, Ngài đã giải thích rõ ràng.

Here ends the Second Chapter.

Chấm dứt Chương Hai

Chapter 3 - 3.3.1. The root of time  

The king said: ‘What is the root, Nāgasena, of past time, and what of present, and what of future time?’

Chapter 3 - 3.3.1. Điểm khởi đầu của một chúng sinh  

Đức vua hỏi: "Thưa tôn giả Nāgasena, cái gì là khởi nguồn, của thời quá khứ, của thời hiện tại, và của thời tương lai?"

‘Ignorance. By reason of Ignorance came the conditions, by reason of the conditions consciousness, by reason of consciousness name-and-form, by reason of name-and-form the six organs of sense, by reason of them contact, by reason of contact sensation, by reason of sensation thirst, by reason of thirst craving, by reason of craving becoming, by reason of becoming birth, by reason of birth old age and death, grief, lamentation, sorrow, pain, and despair. Thus is it that the ultimate point in the past of all this time is not apparent.’

'Thưa đại vương, do vô minh. Bởi vì vô minh, thiếu sáng suốt nên đã tạo ra các điều kiện, (tiềm năng cấu tạo thành của một chúng sinh) là nguyên nhân sinh ra ý thức,là nguyên nhân có ý thức về Danh và Sắc, là nguyên nhân Danh-và-Sắc sinh ra sáu căn( mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) của sáu trần cảnh( sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) sanh cảm thọ vui hoặc khổ hoặc không vui không khổ, phiền não (tham, sân, si, tắng ái) cũng theo đó mà sanh. là nguyên nhân liên hệ, là nguyên nhân của cảm giác tiếp xúc, là nguyên nhân của cảm giác khao khát, là nguyên nhân của sự thèm khát ham muốn, là nguyên nhân ham muốn trở thành, là nguyên nhân sinh ra, là khởi nguồn của sinh lão bệnh tử, đau buồn, than thở, phiền muộn, đau đớn và tuyệt vọng. Vì vậy, có phải nguồn gốc đầu tiên trong quá khứ của một chúng sanh là không rõ ràng. "

‘You are ready, Nāgasena, in reply!

'Thưa tôn giả Nāgasena, Ngài đã giải thích rõ ràng'.

3.3.2. The beginning of time  

The king said: ‘You say that the ultimate point of time is not apparent. Give me an illustration of that.’

3.3.2. Nguồn gốc của thời gian hình thành  

Đức vua hỏi: ‘Thưa tôn giả, Ngài nói rằng nguồn gốc đầu tiên của một chúng sanh là không rõ ràng. Hãy cho trẫm một minh dụ về điều đó'.

‘Suppose, O king, a man were to plant in the ground a tiny seed, and that it were to come up as a shoot, and in due course grow, develope, and mature until it produced a fruit. And then the man, taking a seed from that fruit, were again to plant it in the ground, and all should happen as before. Now would there be any end to this series?’

'Thưa đại vương, ví như, một người gieo hạt giống xuống đất , và nó sẽ nảy chồi, và trong quá trình sinh trưởng, phát triển và trưởng thành cho đến khi ra hoa kết quả. Và sau đó người đàn ông, lấy một hạt giống từ trái cây đó, lại để gieo nó xuống đất, và tất cả sẽ xảy ra như trước. Bây giờ có bất kỳ kết thúc nào cho việc này không?

Certainly not, Sir.’

‘Just so, O king, the ultimate point in the past of the whole of this time is not apparent.’

'Thưa tôn giả, chắc chắn là không. ”

“Thưa đại vương, tương tựa như vậy, nguồn gốc đầu tiên trong quá khứ của toàn bộ thời gian hình thành là không được rõ ràng. ”

‘Give me a further illustration.’

‘The hen lays an egg. From the egg comes a hen. From the hen an egg. Is there any end to this series?’

‘No.’

'Thưa tôn giả, hãy cho trẫm một minh họa.'

'Thưa đại vương, giống như con gà mái đẻ một quả trứng. Từ quả trứng sinh ra một con gà mái. Từ con gà mái lại sinh ra một quả trứng. Có cái kết nào cho việc này không? "

'Thưa không."

‘Just so, O king, the ultimate point in the past of the whole of this time is not apparent.’

“'Thưa đại vương, cũng vậy, nguồn gốc đầu tiên trong quá khứ của toàn bộ thời gian này không được rõ ràng.”

‘Give me a further illustration.’

Then the Elder drew a circle on the ground and asked the king: ‘Is there any end to this circle?’

"Thưa tôn giả, hãy cho trẫm một minh họa khác."

Sau đó, Trưởng lão vẽ một vòng tròn trên mặt đất và hỏi đức vua: "Thưa đại vương, vòng tròn này có điểm kết thúc không?"

‘No, it has no end.’

‘Well, that is like those circles spoken of by the Blessed One. “By reason of the eye and of forms there arises sight, when these three come together there is touch, by reason of touch sensation, by reason of sensation and longing (Taṇhā, thirst), by reason of the longing action (Karma), and from action eye is once more produced.” Now is there any end to this series?

'Thưa tôn giả, nó không có điểm kết thúc.'

‘Thưa đại vương, thật vậy, nó cũng giống như vòng xoay tròn (vòng sinh tử) được Đức Thế Tôn nói đến: “Khi mắt nhìn thấy cảnh sắc và tạo ra thị giác, khi ba điều này hợp lại tạo nên vì ,do Vô Minh duyên cho Hành, Hành duyên cho Thức , Thức duyên cho Danh Sắc , Danh Sắc duyên cho Lục Nhập , Lục Nhập duyên cho Xúc, Xúc duyên cho Thọ, Thọ duyên cho Ái, Ái duyên cho Thủ , Thủ duyên cho Hữu , Hữu duyên cho Sinh , Sinh duyên cho Lão Tử . Hành động tạo tác ra nghiệp (Karma), rồi nghiệp báo lại tái sinh trở lại để trả quả. Như vậy phải chăng là không có bất kỳ kết thúc nào, không có sự gián đoạn nào trong vòng sinh tử luân hồi?.'

‘No.’

Then setting out a precisely corresponding circle of each of the other organs of sense (of the ear, nose, tongue, body, and mind), he in each case put the same question. And the reply being always the same, he concluded:

'Thưa tôn giả, không có sự gián đoạn.'

Sau đó, tôn giả vẽ ra một vòng tròn tương ứng chính xác của từng cơ quan khác của giác quan (tai, mũi, lưỡi, thân và ý), trong mỗi trường hợp ngài đặt cùng một câu hỏi. Và câu trả lời luôn giống nhau, tôn giả kết luận:

‘Just so, O king, the ultimate point of time in the past is not apparent.’

'Thưa đại vương, tương tự như vậy, nguồn gốc đầu tiên của một hành trình thời gian trong quá khứ không rõ ràng. "

‘You are ready, Nāgasena, in reply.’

'Thưa tôn giả Nāgasena, ngài giải thích rất rõ ràng.

3.3.3. The beginning point  

The king said: ‘When you say that the ultimate point is not apparent, what do you mean by “ultimate point”?’

3.3.3. Điểm khởi đầu  

Đức vua hỏi: "Thưa tôn giả, Ngài nói rằng điểm đầu tiên không rõ ràng, vậy ngài muốn nói" điểm đầu tiên"là gì?"

‘Of whatsoever time is past. It is the ultimate point of that, O king, that I speak of.’

'Thưa đại vương, bất kể thời gian nào đã qua. Đó là điểm đầu tiên của điều đó mà bần tăng nói đến. "

‘But, if so, when you say that it is not apparent, do you mean to say that of everything? Is the ultimate point of everything unknown?’

'Thưa tôn giả Nāgasena, nếu vậy, khi tôn giả nói rằng điểm khởi đầu không rõ ràng, có phải tôn giả muốn nói điểm khởi đầu về tất cả mọi thứ không? Phải chăng điểm khởi đầu của tất cả mọi thứ có phải là không được nhận biết không? "

‘Partly so, and partly not.’

‘Then which is so, and which not?’

'Thưa đại vương, có điểm khởi đầu có thể biết, có điểm không thể biết.'

'Tôn giả hãy nói cho trẩm biết cái nào có thể biết và cái nào không thể biết.'

‘Formerly, O king, everything in every form, everything in every mode, was ignorance. It is to us as if it were not. In reference to that the ultimate beginning is unknown. But that, which has not been, becomes; as soon as it has begun to become it dissolves away again. In reference to that the ultimate beginning is known.’

'Thưa đại vương, trong quá khứ, mọi hình thức, mọi thứ trong mọi chế độ, đều do vô minh. Nó là đối với chúng ta như thể nó không được nhận biết. Khi đề cập đến rằng sự hình thành khởi đầu là không rõ. Nhưng điều đó, đã không có hiện hữu; ngay sau khi nó hiện hữu nó lại tan biến. Sự tương quan rằng sự khởi đầu đã được biết đến. "

‘But, reverend Sir, if that which was not, becomes, and as soon as it has begun to become passes again away, then surely, being thus cut off at both ends, it must be entirely destroyed ?’

Thưa tôn giả Nāgasena, nếu điều đó không hiện hữu, và ngay sau khi nó hiện hữu nó lại bắt đầu biến mất một lần nữa, thì chắc chắn, bị cắt đứt ở cả hai đầu, nó phải bị phá hủy hoàn toàn?

‘Nay, surely, O king, if it be thus cut off at both ends, can it not at both ends be made to grow again ?’

'Thưa đại vương, chắc chắn không, nếu nó bị cắt bỏ ở cả hai đầu, thì vậy cả hai đầu có thể mọc lại được không? ''

‘Yes, it might. But that is not my question. Could it grow again from the point at which it was cut off?’

'Thưa tôn giả, nó có thể. Nhưng đó không phải là câu hỏi của trẫm. Nó có thể phát triển trở lại từ điểm mà nó đã bị cắt bỏ không? "

Certainly.’

‘Give me an illustration.’

Then the Elder repeated the simile of the tree and the seed, and said that the Skandhas (the constituent elements of all life, organic and inorganic) were so many seeds, and the king confessed himself satisfied.

'Thưa đại vương, chắc chắn là không'

'Hãy cho trẫm một minh dụ.'

Và rồi, Trưởng lão lặp lại sự ẩn dụ về cái cây và hạt giống, và nói rằng Ngũ uẩn (panca-skandha) gồm sắc uẩn (rùpa-skandha), thọ uẩn (vedana-skandha), tưởng uẩn (samjna-skandha), hành uẩn (samskàra-skandha) và thức uẩn (vijnàna-skandha). Là những yếu tố cấu thành của mọi sự sống, hữu cơ và vô cơ) rất nhiều hạt giống, và đức vua hài lòng.

3.3.4. Conditions  

The king said: ‘Are there any conditions which are produced?’

‘Certainly.’

‘Which are they?’

3.3.4. Pháp Hữu Vi  

Đức vua hỏi: "Có những pháp hữu vì (Sankhàra) nào được sinh khởi chăng?"

'Thưa đại vương, chắc chắn là có.'

'Thưa tôn giả, chúng là cái gì?

‘Where there is an eye, and also forms, there is sight, where there is sight there is a contact through the eye, where there is contact through the eye there is a sensation, where there is sensation there is a longing, where there is longing there is a grasping, where there is grasping there is a becoming, where there is becoming there is birth, and at birth old age and death, grief, lamentation, pain, sorrow, and despair begin to be. Thus is the rise of the whole of this class of pain.—Where there is neither eye nor form there is no sight, where there is not sight there is no contact through the eye, where there is not contact there is no sensation, where there is not sensation there is no longing, where there is not longing there is no grasping, where there is not grasping there is no becoming, where there is not becoming there is no birth, and where there is not birth there is neither old age nor death nor grief, lamentation, pain, sorrow, and despair. Thus is the ending of all this class of pain.

'Thưa đại vương, Nơi nào có mắt, và nơi đó có cảnh sắc, do thấy cảnh sắc rồi, do vô minh duyên cho Hành, Hành duyên cho Thức , Thức duyên cho Danh Sắc , Danh Sắc duyên cho Lục Nhập , Lục Nhập duyên cho Xúc, Xúc duyên cho Thọ, Thọ duyên cho Ái, Ái duyên cho Thủ , Thủ duyên cho Hữu , Hữu duyên cho Sinh , Sinh duyên cho Lão Bệnh Tử . đau buồn, than thở, đau đớn, buồn phiền và tuyệt vọng bắt đầu có. Như vậy là sự gia tăng của toàn bộ sự phiền não này. — Nơi nào không có mắt và không có cảnh sắc thì không có thị giác, không có gì duyên cho Hành, Hành không duyên cho Thức , Thức không duyên cho Danh Sắc , Danh Sắc không duyên cho Lục Nhập , Lục Nhập không duyên cho Xúc, Xúc không duyên cho Thọ, Thọ không duyên cho Ái, Ái không duyên cho Thủ , Thủ không duyên cho Hữu , Hữu không duyên cho Sinh , Sinh không duyên cho Lão Bệnh Tử . Như vậy là kết thúc của tất cả những phiền não này.

‘Very good, Nāgasena!’

'Thưa tôn giả Nāgasena, thật là tuyệt vời!

3.3.5. Origin and development of qualities  

The king said: ‘Are there any conditions (qualities) which spring into being without a gradual becoming?’

‘No. They all have a gradual becoming.’

‘Give me an illustration.’

3.3.5. Nguồn gốc và sự hình thành của các pháp hữu vi  

Đức vua hỏi: "Thưa ngài Nāgasena, Có những pháp hữu vi nào có thể không cần hiện hữu mà được sinh ra không?"

'Thưa đại vương, không có pháp hữu vi nào không hiện hữu mà được sinh ra.'

'Cho trẫm một minh dụ.'

‘Now what do you think, great king? Did this house in which you are sitting spring suddenly into being?’

'Thưa đại vương, ngài nghĩ gì? Cung điện mà đại vương đang ở mùa xuân này chưa từng hiện hữu mà đột nhiên có ?

‘Certainly not, Sir. There is nothing here which arose in that way. Each portion of it has had its gradual becoming—these beams had their becoming in the forest, and this clay in the earth, and by the moil and toil of women and of men was this house produced.’

‘Thưa tôn giả, chắc chắn là không. Ở đây không có gì sinh ra mà chưa từng hiện hữu. Mỗi phần mỗi thứ đã hiện hữu là được sinh ra — những sườn ngang này đã hiện hữu trong rừng, và đất sét này đã hiện hữu trong đất, và bởi tinh thần và sức lực của những người làm việc phụ nữ và đàn ông đã tạo ra cung điện này. ”

‘Just so, great king, there is no Confection. which has sprung into being without a gradual becoming. It is by a process of evolution that conditions come to be!’

Thưa đại vương, tương tự như vậy, không có pháp hữu vi nào chưa hiện hữu đã sinh ra trở thành hiện hữu . Đó là do một quá trình tiến hóa mà các pháp hữu vi được sinh ra! '

‘Give me a further illustration.’

‘They are like all kinds of trees and plants which, when set in the ground, grow, develope, and mature, and then yield their fruits and flowers. The trees do not spring into being without a becoming. It is by a process of evolution that they become what they are. just so, great king, there is no Confection which has sprung into being without a gradual becoming. It is by a process of evolution that conditions come to be!’

'Thưa tôn giả, hãy cho trẫm một minh dụ khác

'Thưa đại vương, giống như tất cả các loại hạt giống cây cối và thảo mộc, khi đặt trong lòng đất, chúng sinh trưởng, phát triển và trưởng thành, và sau đó kết trái và hoa của chúng. Cây cối không mọc lên nếu không có sự hiện hữu. Đó là bởi một quá trình tiến hóa mà chúng trở thành như chúng đang có. Tương tự như vậy, không có các pháp hữu vi nào đó chưa từng hiện hữu mà được sanh ra cả, chính các pháp hữu vi từng hiện hữu mà được sanh ra.”

‘Give me a further illustration.’

‘They are like the pots of various kinds which a potter might form when he has dug up the clay out of the earth. The pots do not spring into being without a becoming. It is by a process of evolution that they become what they are. just so, great king, there is no Confection which has sprung into being without a gradual becoming. It is by a process of evolution that conditions come to be!’

Cho trẫm một minh hoạ khác

Thưa đại vương, chúng giống như những chiếc bình có nhiều loại hoa khác nhau mà người thợ gốm có thể hiện hữu sau khi anh ta đào lấy đất sét lên khỏi đất. Các chậu không thể hiện hữu mà không có đất sét. Đó là bởi một quá trình tiến hóa mà chúng hiện hữu như chúng đang có. Tương tự vậy, không có pháp hữu vi nào sinh ra mà không từng hiện hữu. Đó là do một quá trình tiến hóa mà các pháp hữu vi được sinh ra! '

‘Give me a further illustration.’

‘Suppose, O king, there were no bridge of metal on a mandolin, no leather, no hollow space, no frame, no neck, no strings, no bow, and no human effort or exertion, would there be music?’

Hãy cho trẫm một minh dụ khác.'

Thưa đại vương, ví như cây đàn mandolin nếu không có khung, không có da bọc, không có bầu đàn, không có cần đàn, không có cổ đàn, không có dây đàn, không có phím đàn, và không có sự cố gắng hay nỗ lực của con người tạo nên, liệu có âm nhạc phát ra không? '

‘Certainly not, Sir.’

‘But if all these things were there, would not there be a sound?’

‘Of course there would.’

'Chắc chắn là không.'

'‘Thưa đại vương, nhưng nếu cây đàn có khung, có da bọc, có bầu đàn, có cần đàn, có cổ đàn, có dây đàn, có phím đàn, và có sự cố gắng hay nỗ lực của con người tạo nên, liệu có âm nhạc phát ra không? '

'Dĩ nhiên là có âm nhạc.'

‘Just so, great king, there is no Confection which has sprung into being without a gradual becoming. It is by a process of evolution that conditions come to be!’

Tương tự vậy, không có pháp hữu vi nào sinh ra mà không từng hiện hữu. Đó là do một quá trình tiến hóa mà các pháp hữu vi được sinh ra! '

‘Give me a further illustration.’

‘Suppose, O king, there were no fire-stick apparatus, no twirling-stick, and no cord for the twirling-stick, and no matrix, and no burnt rag for tinder, and no human effort and exertion, could there be fire by attrition?’

'Hãy cho trẫm một minh dụ khác'

Thưa đại vương, ví như , không có thiết bị đốt lửa, không có trục xoay, và không có dây cho trục xoay, và không có thanh gỗ, và không có giẻ bùi nhùi để bắt lửa, và không có nỗ lực và cố gắng của con người, thì liệu có lửa ấy có thể sinh ra không? '

‘Certainly not.’

‘But if all these conditions were present, then might not fire appear?’

‘Yes, certainly.’

'Chắc chắn là không.'

Thưa đại vương, ví như , có thiết bị đốt lửa, có trục xoay, và có dây cho trục xoay, và có thanh gỗ, và có giẻ bùi nhùi để bắt lửa, và có nỗ lực và cố gắng của con người, thì liệu có lửa ấy có thể sinh ra không?

'Thưa tôn giả, chắc chắng là có'

‘Just so, great king, there is no Confection which has sprung into being without a gradual becoming. It is by a process of evolution that conditions come to be!’

Tương tự vậy, không có pháp hữu vi nào sinh ra mà không từng hiện hữu. Đó là do một quá trình tiến hóa mà các pháp hữu vi được sinh ra!

‘Give me one more illustration.’

‘Suppose, O king, there were no burning glass, and no heat of the sun, and no dried cow-dung for tinder, could there be fire?’

'Hãy cho trẫm thêm minh dụ.'

‘Thưa đại vương, ví như không có thủy tinh tạo sự cháy, không có sức nóng của mặt trời chiếu vào miếng thủy tinh đó, và không có phân bò khô để làm bùi nhùi, thì liệu có thể có lửa không?”

‘Certainly not.’

‘But where these things are present there fire might be struck, might it not?’

‘Yes.’

'Chắc chắn là không.'

‘Thưa đại vương, nhưng ví như có thủy tinh tạo sự cháy, có sức nóng của mặt trời chiếu vào miếng thủy tinh đó, và có phân bò khô để làm bùi nhùi, thì liệu có thể có lửa không?”

'Thưa tôn giả, đúng vậy, lửa có thể phát ra.'

‘Just so, great king, there is no Confection which has sprung into being without a gradual becoming. It is by a process of evolution that conditions come to be!’

Tương tự vậy, không có pháp hữu vi nào sinh ra mà không từng hiện hữu. Đó là do một quá trình tiến hóa mà các pháp hữu vi được sinh ra!

‘Give me another illustration.’

‘Suppose, O king, there were no looking-glass, and no light, and no face in front of it, would there appear an image?’

'Hãy cho trẫm một minh dụ khác.'

'Thưa đại vương, ví như không có gương soi, không có ánh sáng và không có khuôn mặt trước mặt, liệu có hiện ra một hình ảnh không? "

‘No.’

‘But given these things, there might be a reflection?’

‘Yes, Sir, there might.’

'Thưa tôn giả, không thể nào có hình ảnh hiện ra'

'Thưa đại vương, ví như có gương soi, có ánh sáng và có khuôn mặt trước mặt, liệu có hiện ra một hình ảnh không? "

'Thưa tôn giả, đúng vậy, có hình ảnh hiện ra.'

‘Just so, great king, there is no Confection which has sprung into being without a gradual becoming. It is by a process of evolution that conditions come to be!’

Tương tự vậy, không có pháp hữu vi nào sinh ra mà không từng hiện hữu. Đó là do một quá trình tiến hóa mà các pháp hữu vi được sinh ra!

‘Very good, Nāgasena!’

Tuyệt vời, thưa tôn già Nāgasena!

3.3.6. Is there a One who Knows?  

The king said: ‘Is there, Nāgasena, such a thing as the soul ?’

‘What is this, O king, the soul (Vedagu)?’

3.3.6. có phải con người có sự hiểu biết ?  

Đức vua hỏi: 'Thưa tôn giả Nāgasena, có một thứ gọi là linh hồn chăng?'

'Thưa đại vương, linh hồn là gì?'

‘The living principle within which sees forms through the eye, hears sounds through the ear, experiences tastes through the tongue, smells odours through the nose, feels touch through the body, and discerns things (conditions, “dhammā") through the mind—just as we, sitting here in the palace, can look out of any window out of which we wish to look, the east window or the west, or the north or the south.’

'Thưa tôn giả, một sự sống (tự ngã) bên trong nhìn thấy cảnh sắc qua mắt, nghe âm thanh qua tai, lưỡi nếm mùi vị, ngửi mùi qua mũi, cảm xúc qua cơ thể và nhận biết mọi thứ (các pháp, “dhammā”) qua tâm trí — như chúng ta, ngồi ở đây trong cung điện, có thể nhìn ra bất kỳ cửa sổ nào mà chúng ta muốn nhìn, cửa sổ phía đông hoặc phía tây, hoặc phía bắc hoặc phía nam. '

The Elder replied: ‘I will tell you about the five doors, great king. Listen, and give heed attentively. If the living principle within sees forms through the eye in the manner that you mention, choosing its window as it likes, can it not then see forms not only through the eye, but also through each of the other five organs of sense? And in like manner can it not then as well hear sounds, and experience taste, and smell odours, and feel touch, and discern conditions through each of the other five organs of sense, besides the one you have in each case specified?’

Trưởng lão đáp rằng: ‘Thưa đại vương, bần tăng sẽ nói rõ cho ngài nghe về Lộ Ngũ Môn là lộ xuyên qua 5 căn là: mắt là nhãn môn, tai là nhĩ môn, mũi là tỷ môn, lưỡi là thiệt môn, thân môn . Đại vương hãy lắng nghe và chú ý lắng nghe. Nếu nguyên lý sống bên trong (Tự Ngã) nhìn thấy các cảnh sắc qua mắt theo cách mà đại vương đề cập, chọn cửa sổ của nó theo ý muốn, thì liệu nó có thể không những nhìn thấy các cảnh sắc không chỉ qua mắt, mà còn qua từng cơ quan trong số ngũ tạng khác của giác quan như bằng tai, bằng mũi chăng? Và theo cách tương tự, nó có thể không những nghe thấy âm thanh, trải nghiệm vị giác, ngửi mùi và cảm nhận xúc giác, và phân biệt tình trạng thông qua từng cơ quan trong số năm cơ quan khác của giác quan, ngoài cơ quan đại vương có trong mỗi trường hợp được chỉ định? '

‘No, Sir.’

‘Then these powers are not united one to another indiscriminately, the latter sense to the former organ, and so on. Now we, as we are seated here in the palace, with these windows all thrown open, and in full daylight, if we only stretch forth our heads, see all kinds of objects plainly. Can the living principle do the same when the doors of the eyes are thrown open? When the doors of the ear are thrown open, can it do so? Can it then not only hear sounds, but see sights, experience tastes, smell odours, feel touch, and discern conditions? And so with each of its windows?’

'Thưa tôn giả, là không thể.'

'Thưa đại vương, đúng vậy, những giác quan này không được liên kết với nhau một cách bừa bãi, ý thức sau đối với trước đây, v.v. Bây giờ chúng ta đang ngồi ở đây trong cung điện, với những cửa sổ này đều được mở tung, và trong ánh sáng ban ngày, nếu chúng ta chỉ vươn đầu ra, có thể nhìn thấy rõ ràng tất cả các loại vật thể. Nguyên lý sống (Tự ngã) có thể làm điều tương tự khi muốn thấy sắc thì nhãn môn của đôi mắt được mở ra để thấy sắc?

- Đúng vậy, nó có thể nhìn thấy sắc bằng nhãn môn

Khi nhĩ môn của lỗ tai được mở ra, nó có thể nhìn thấy cảnh sắc không?

- Không thể nhìn thấy sắc bằng nhĩ môn

Có thể nghe âm thanh bằng mắt, mũi, lưỡi, thân và ý chăng? Sau đó nó có thể không chỉ nghe âm thanh, mà còn nhìn thấy các cảnh sắc, nếm trải mùi vị, ngửi mùi, cảm nhận xúc giác và nhận biết các tình trạng không?

‘No, Sir.’

‘Then these powers are not united one to another indiscriminately. Now again, great king, if Dinna here were to go outside and stand in the gateway, would you be aware that he had done so?’

'Thưa tôn giả không thể'

Sau đó, các giác quan này không được thống nhất với nhau một cách bừa bãi. Bây giờ một lần nữa, giống như vị Dinna ở đây, đi đâu ra ngoài và đứng ở cửa ngõ, liệu ngài có biết rằng ông ấy đã làm như vậy không? "

‘Yes, I should know it.’

‘And if the same Dinna were to come back again, and stand before you, would you be aware of his having done so?’

'Trẫm có thể biết'

"Và nếu cùng một Dinna quay lại và đứng trước mặt đại vương, ngài có biết anh ấy đã làm như vậy không?"

Yes, I should know it.’

‘Well, great king, would the living principle within discern, in like manner, if anything possessing flavour were laid upon the tongue, its sourness, or its saltness, or its acidity, or its pungency, or its astringency, or its sweetness ?’

'Trẫm có thể biết.'

'Thưa đại vương, tự ngã có thể phân biệt được, theo cách tương tự, nếu bất cứ thứ gì có hương vị nằm trên lưỡi, nó có thể nếm được vị chua , hoặc vị mặn, hoặc vị đắng, hoặc vị cay, hoặc vị chát, hoặc vị ngọt của nó chăng? '

‘Yes, it would know it.’

‘But when the flavour had passed into the stomach would it still discern these things?’

‘Certainly not.’

'Đúng vậy,lưỡi có thể niếm mùi vị.

"Nhưng khi hương vị đã đi vào dạ dày, liệu nó có còn phân biệt được những thứ này không?"

'Chắc chắn là không.'

‘Then these powers are not united one to the other indiscriminately. Now suppose, O king, a man were to have a hundred vessels of honey brought and poured into one trough, and then, having had another man’s mouth closed over and tied up, were to have him cast into the trough full of honey. Would he know whether that into which he had been thrown was sweet or whether it was not?’

Thưa đại vương, sau đó, các giác quan này không được thống nhất với nhau một cách bừa bãi. Bây giờ, hãy giả sử, một người có một trăm bình mật ong đem đổ vào một cái máng, rồi sau đó, bịt miệng một người và trói lại, phải bỏ người đó vào cái máng đầy mật. Liệu anh ta có biết liệu thứ mà anh ta bị ném vào đó là có vị ngọt hay không? "

‘No, Sir.’

‘But why not?’

‘Because the honey could not get into his mouth.’

'Không thể, thưa tôn giả.'

'Tại sao không thể.'

'Bởi vì, người đó bị bịt miệng nên vị ngọt của mật ong không thể đi vào miệng của người đó'

Then, great king, these powers are not united one to another indiscriminately.’

Thưa đại vương, vậy thì những giác quan này không được liên kết với nhau một cách bừa bãi. "

‘I am not capable of discussing with such a reasoner. Be pleased, Sir, to explain to me how the matter stands.’

Thưa tôn giả, trẫm không có khả năng thảo luận với một nhà lý luận như ngài. Xin vui lòng, giải thích cho trẫm rõ cho trẫm hiểu. "

Then the Elder convinced Milinda the king with discourse drawn from the Abhidhamma, saying: ‘It is by reason, O king, of the eye and of forms that sight arises, and those other conditions—contact, sensation, idea, thought, abstraction, sense of vitality, and attention —arise each simultaneously with its predecessor. And a similar succession of cause and effect arises when each of the other five organs of sense is brought into play. And so herein there is no such thing as soul (Vedagu).’

Sau đó, Trưởng lão thuyết giảng Vi Diệu Pháp cho đức vua Milinda , như sau: 'Thưa đại vương, là do ý thức, mắt và cảnh sắc mà nhãn thức sanh lên, và do những nhân duyên khác — xúc (Phận sự của là Tâm tiếp xúc với cảnh.), thọ (sự cảm thọ đối với cảnh ), tưởng (là Phận sự nhớ lại việc đã qua), tư (là sự suy nghĩ, trong đó gồm: tham, sân, si, vô tham, vô sân, vô si) , nhất tâm (trạng thái tâm qui tụ trên một đối tượng), mạng căn (duy trì mạng sống của một triến trình tâm), và sự tác ý (là gom thâu đối tượng làm thành cảnh cho Tâm) —là mỗi thứ đồng sanh với nó. Và một sự liên tiếp tương tự của nhân quả phát sinh khi từng ngũ tạng khác của giác quan được phát huy. Và vì vậy ở đây không có thứ gọi là linh hồn (Vedagu). '

Đầu trang | 1 | 2 | 03 | 04 | 05 | 06 | 07 | 08 | 09 | 10 | 11 | 12 | 13 | 14 | 15 | 16 | 17 | 18 |

Cập nhập ngày: Thứ Tư 24-8-2022

webmasters: Minh Hạnh & Nguyễn Văn Hòa

* | *| trở về đầu trang | Home page |