§ 2.10. "Once, monks, in this same Savatthi, there was a lady of a household named Vedehika. This good report about Lady Vedehika had circulated: 'Lady Vedehika is gentle. Lady Vedehika is even-tempered. Lady Vedehika is calm.' Now, Lady Vedehika had a slave named Kali who was diligent, deft, & neat in her work. The thought occurred to Kali the slave: 'This good report about my Lady Vedehika has circulated: "Lady Vedehika is even-tempered. Lady Vedehika is gentle. Lady Vedehika is calm." Now, is anger present in my lady without showing, or is it absent? Or is it just because I'm diligent, deft, & neat in my work that the anger present in my lady doesn't show? Why don't I test her?'

 

§ 2.10. "Chư Tỷ-kheo, thuở xưa, tại thành Savatthi này có nữ gia chủ tên là Vedehika. Chư Tỷ-kheo, tiếng đồn tốt đẹp sau đây được khởi lên về nữ gia chủ Vedehika: "Nữ gia chủ Vedehika là hiền thục, nữ gia chủ Vedehika là nhu thuận; nữ gia chủ Vedehika là ôn hòa". Chư Tỷ-kheo, nữ gia chủ Vedehik có người nữ tỳ tên là Kali, người này khéo tay, siêng năng, và làm việc cẩn thận chu toàn. Chư Tỷ-kheo, nữ tỳ Kali khởi lên ý nghĩ: "Chủ của ta được tiếng đồn tốt đẹp khởi lên như sau: "Nữ gia chủ Vedehika là hiền thục; nữ gia chủ Vedehika là nhu thuận; nữ gia chủ Vedehika là ôn hòa". Không biết nữ chủ của ta có nội sân mà không tỏ lộ hay không có nội sân, hay vì công việc ta làm cẩn thận chu toàn nên nữ chủ ta có nội sân nhưng không tỏ lộ, không phải không có. Vậy ta hãy thử nữ chủ của ta!"

"So Kali the slave got up after daybreak. Then Lady Vedehika said to her: 'Hey, Kali!'

 

Chư Tỷ-kheo, rồi nữ tỳ Kali sáng ngày sau dậy thật trễ. Chư Tỷ-kheo, nữ gia chủ Vedehika nói với nữ tỳ Kali: 'Này Kali!'

"'Yes, madam?'

"'Thưa Nữ chủ, có việc gì?'

"'Why did you get up after daybreak?'

"'Sao hôm nay Ngươi dậy trễ vậy?'

"'No reason, madam.'

"'Thưa nữ chủ, có việc gì đâu.'

"'No reason, you wicked slave, and yet you get up after daybreak?' Angered & displeased, she scowled.

"'Thật sự không có việc gì à? Ác nữ tỳ kia, hôm nay Ngươi dậy trễ!' Và nữ chủ phẫn nộ, bất mãn, thốt lên những lời bất mãn.

Then the thought occurred to Kali the slave: 'Anger is present in my lady without showing, and not absent. And it's just because I'm diligent, deft, & neat in my work that the anger present in my lady doesn't show. Why don't I test her some more?'

 

Chư Tỷ-kheo, nữ tỳ Kali suy nghĩ: "Nữ chủ của ta thật sự có nội sân nhưng không tỏ lộ, không phải không có. Vì những công việc ta-làm cẩn thận chu toàn, nên nữ chủ của ta tuy có nội sân nhưng không tỏ lộ, không phải không có. Vậy Ta hãy thử thêm nữa nữ chủ của ta!'

"So Kali the slave got up later in the day. Then Lady Vedehika said to her: 'Hey, Kali!'

 

"Chư Tỷ-kheo, rồi nữ tỳ Kali ngày sau lại dậy trễ hơn nữa. Chư Tỷ-kheo, nữ chủ Vedehika nói với nữ tỳ Kali: – 'Này Kali!'

"'Yes, madam?'

"'Thưa Nữ chủ, có việc gì?'

"'Why did you get up later in the day?'

"'Sao hôm nay Ngươi dậy trễ vậy?'

"'No reason, madam.'

"'Thưa Nữ chủ, có việc gì đâu.'

"'No reason, you wicked slave, and yet you get up later in the day?' Angered & displeased, she grumbled.

"'Thật sự không có việc gì à? Ác nữ tỳ kia, hôm nay Ngươi dậy trễ!' Và nữ chủ phẫn nộ, bất mãn, thốt lên những lời bất mãn.

Then the thought occurred to Kali the slave: 'Anger is present in my lady without showing, and not absent. And it's just because I'm diligent, deft, & neat in my work that the anger present in my lady doesn't show. Why don't I test her some more?'

Chư Tỷ-kheo, nữ tỳ Kali suy nghĩ: "Nữ chủ của ta thật sự có nội sân nhưng không tỏ lộ, không phải không có. Vì những công việc ta làm cẩn thận chu toàn nên nữ chủ của ta tuy có nội sân nhưng không tỏ lộ, không phải không có. Vậy ta hãy thử thêm nữa nữ chủ của ta!'

"So Kali the slave got up even later in the day. Then Lady Vedehika said to her: 'Hey, Kali!'

 

"Chư Tỷ-kheo, rồi nữ tỳ Kali sáng hôm sau lại dậy trễ hơn nữa. Chư Tỷ-kheo, nữ chủ Vedehika nói với nữ tỳ Kali: 'Này Kali!'

"'Yes, madam?'

"'Thưa Nữ chủ, có việc gì?'

"'Why did you get up even later in the day?'

"'Sao hôm nay Ngươi dậy trễ vậy?'

"'No reason, madam.'

"'Thưa Nữ chủ, có việc gì đâu?'

"'No reason, you wicked slave, and yet you get up even later in the day?' Angered & displeased, she grabbed hold of a rolling pin and gave her a whack over the head, cutting it open.

"'Thật sự không có việc gì à? Ác nữ tỳ kia, hôm nay Ngươi dậy trễ!' Rồi phẫn nộ, không hoan hỷ, nàng cầm cái then gài cửa, đánh một cú trên đầu nữ tỳ khiến bể đầu.

Then Kali the slave, with blood streaming from her cut-open head, went and denounced her mistress to the neighbors: 'See, ladies, the gentle one's handiwork? See the even-tempered one's handiwork? See the calm one's handiwork? How could she, angered & displeased with her only slave for getting up after daybreak, grab hold of a rolling pin and give her a whack over the head, cutting it open?'

Chư Tỷ-kheo, nữ tỳ Kali, với đầu bể máu chảy, liền đi kể lể với các nhà láng giềng: – Hãy xem việc làm của nữ chủ hiền thục! Hãy xem việc làm của nữ chủ nhu thuận! Hãy xem việc làm của nữ chủ ôn hòa! Sao nữ chủ nói với nữ tỳ độc nhất: "Hôm nay Ngươi dậy trễ", rồi phẫn nộ, bất mãn, nàng cầm then gài cửa, đánh tôi một cú trên đầu khiến bể đầu'.

 

"After that this evil report about Lady Vedehika circulated: 'Lady Vedehika is vicious. Lady Vedehika is foul-tempered. Lady Vedehika is violent.'

"Chư Tỷ-kheo, sau một thời gian, tiếng đồn xấu sau đây được khởi lên về nữ chủ Vedehika: 'Nữ chủ Vedehika là độc ác! Nữ chủ Vedehika là không nhu thuận! Nữ chủ Vedehika là không ôn hòa!'

"In the same way, monks, a monk may be ever so gentle, ever so even-tempered, ever so calm, as long as he is not touched by disagreeable aspects of speech. But it is only when disagreeable aspects of speech touch him that he can truly be known as gentle, even-tempered, & calm. I don't call a monk easy to admonish if he is easy to admonish and makes himself easy to admonish only by reason of robes, almsfood, lodging, & medicinal requisites for curing the sick. Why is that? Because if he doesn't get robes, almsfood, lodging, & medicinal requisites for curing the sick, then he isn't easy to admonish and doesn't make himself easy to admonish. But if a monk is easy to admonish and makes himself easy to admonish purely out of esteem for the Dhamma, respect for the Dhamma, reverence for the Dhamma, then I call him easy to admonish. Thus, monks, you should train yourselves: 'We will be easy to admonish and make ourselves easy to admonish purely out of esteem for the Dhamma, respect for the Dhamma, reverence for the Dhamma.' That's how you should train yourselves.

"Cũng vậy chư Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo hết sức hiền lành, hết sức nhu thuận, hết sức ôn hòa trong khi chưa bị những lời nói bất khả ý, xúc phạm. Và chư Tỷ-kheo, chỉ khi nào Tỷ-kheo bị những lời nói bất khả ý, xúc phạm, khi ấy vị ấy mới được xem là hiền lành, mới được xem là nhu thuận, mới được xem là ôn hòa. Chư Tỷ-kheo, Ta không gọi một Tỷ-kheo là dễ nói, khi vị ấy dễ nói về các vật dụng như y áo, món ăn, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh, khi vị ấy thành tựu được tánh dễ nói. Vì sao vậy? Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy khi không được các vật dụng như y áo, thức ăn, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh, không còn là dễ nói, không còn thành tựu tánh dễ nói. Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào tôn trọng Pháp, cung kính Pháp, sùng kính Pháp trở thành dễ nói, thành tựu tánh dễ nói, vị ấy Ta mới gọi là dễ nói. Do vậy, này các Tỷ-kheo, hãy suy nghĩ: "Chỉ vì tôn trọng Pháp, cung kính Pháp, sùng kính Pháp chúng ta sẽ trở thành dễ nói, thành tựu tánh dễ nói". Chư Tỷ-kheo, các Người phải học tập như vậy.

 

"Monks, there are these five aspects of speech by which others may address you: timely or untimely, true or false, affectionate or harsh, beneficial or unbeneficial, with a mind of good-will or with inner hate. Others may address you in a timely way or an untimely way. They may address you with what is true or what is false. They may address you in an affectionate way or a harsh way. They may address you in a beneficial way or an unbeneficial way. They may address you with a mind of good-will or with inner hate. In any event, you should train yourselves: 'Our minds will be unaffected and we will say no evil words. We will remain sympathetic to that person's welfare, with a mind of good will, and with no inner hate. We will keep pervading him with an awareness imbued with good will and, beginning with him, we will keep pervading the all-encompassing world with an awareness imbued with good will — abundant, expansive, immeasurable, free from hostility, free from ill will.' That's how you should train yourselves.

 

 

"Chư Tỷ-kheo, có năm loại ngôn ngữ mà các Người có thể dùng khi nói với các người khác:
-Đúng thời hay phi thời,
-Chơn thực hay không chơn thực,
-Nhu nhuyến hay thô bạo,
-Có lợi ích hay không lợi ích,
-Với từ tâm hay với sân tâm.
Chư Tỷ-kheo, khi nói với các người khác, các Người có thể nói đúng thời hay phi thời.
Chư Tỷ-kheo, khi nói với các người khác, các Người có thể nói lời chơn thực hay nói lời không chơn thực.
Chư Tỷ-kheo, khi nói với các người khác, các Người có thể nói lời nhu nhuyến hay nói lời thô bạo.
Chư Tỷ-kheo, khi nói với các người khác, các Người có thể nói lời lợi ích hay nói lời không lợi ích.
Chư Tỷ-kheo, khi nói với các người khác, các Người có thể nói với từ tâm hay với sân tâm.
Chư Tỷ-kheo, ở tại đây, các Người cần phải học tập như sau:
-Chúng ta sẽ giữ tâm của chúng ta không biến nhiễm, chúng ta sẽ không thốt ra những lời ác ngữ, chúng ta sẽ sống với lòng lân mẫn, với tâm từ bi, với nội tâm không sân hận.
-Chúng ta sẽ sống bao phủ người này với tâm câu hữu với từ. Và với người này là đối tượng, ta sống biến mãn cùng khắp thế giới với tâm câu hữu với từ, quảng địa vô biên, không hận, không sân".
Chư Tỷ-kheo, như vậy các Người cần phải học tập.

"Suppose that a man were to come along carrying a hoe & a basket, saying, 'I will make this great earth be without earth.' He would dig here & there, scatter soil here & there, spit here & there, urinate here & there, saying, 'Be without earth. Be without earth.' Now, what do you think — would he make this great earth be without earth?"

"Chư Tỷ-kheo, ví như một người đến, cầm xẻng và thúng, nói như sau: "Tôi sẽ làm cho đất lớn này không thành đất nữa", và người ấy đào chỗ này chỗ kia, rải đất chỗ này chỗ kia, nhổ nước miếng chỗ này chỗ kia, đi tiểu tiện chỗ này chỗ kia, với ý nghĩ: "Ngươi trở thành không phải đất, Ngươi trở thành không phải đất". Chư Tỷ-kheo, nghĩ thế nào? Người ấy có thể làm cho đất lớn này trở thành không phải đất chăng?"

"No, lord. Why is that? Because this great earth is deep & enormous. It can't easily be made to be without earth. The man would reap only a share of weariness & disappointment."

"Bạch Thế Tôn, không. Vì sao vậy? Vì đất lớn này thâm sâu và vô lượng, không dễ gì khiến cho đất lớn này trở thành không phải đất, trước khi người ấy bị mệt nhoài và bị thất bại."

"In the same way, monks, there are these five aspects of speech by which others may address you: timely or untimely, true or false, affectionate or harsh, beneficial or unbeneficial, with a mind of good-will or with inner hate. Others may address you in a timely way or an untimely way. They may address you with what is true or what is false. They may address you in an affectionate way or a harsh way. They may address you in a beneficial way or an unbeneficial way. They may address you with a mind of good-will or with inner hate. In any event, you should train yourselves: 'Our minds will be unaffected and we will say no evil words. We will remain sympathetic to that person's welfare, with a mind of good will, and with no inner hate. We will keep pervading him with an awareness imbued with good will and, beginning with him, we will keep pervading the all-encompassing world with an awareness imbued with good will equal to the great earth — abundant, expansive, immeasurable, free from hostility, free from ill will.' That's how you should train yourselves.

 

 

"Cũng vậy, này chư Tỷ-kheo, có năm loại ngôn ngữ này mà các Ông có thể nói với người khác:
-Đúng thời hay phi thời,
-Chơn thực hay không chơn thực,
-Nhu nhuyến hay thô bạo,
-Có lợi ích hay không lợi ích,
-Với từ tâm hay với sân tâm".
Các Tỷ-kheo, khi nói với các người khác, các Ông có thể nói:
Đúng thời hay phi thời,
-Chơn thực hay không chơn thực,
-Nhu nhuyến hay thô bạo,
-Có lợi ích hay không lợi ích,
-Với từ tâm hay với sân tâm.
Các Tỷ-kheo, ở tại đây, các Ông cần phải học tập như sau:
Chúng ta sẽ giữ tâm của chúng ta không biến nhiễm; chúng ta sẽ không thốt ra những lời ác ngữ;
Chúng ta sẽ sống với lòng lân mẫn, với tâm từ bi, với nội tâm không sân hận;
Chúng ta sẽ sống biến mãn người này với tâm câu hữu với từ. Và với người này là đối tượng, ta sống biến mãn cùng khắp thế giới, với tâm câu hữu với từ, quảng đại, vô biên, không hận, không sân.
Các Tỷ-kheo, các Ông cần phải học tập như vậy.

"Suppose that a man were to come along carrying lac, yellow orpiment, indigo, or crimson, saying, 'I will draw pictures in space, I will make pictures appear.' Now, what do you think — would he draw pictures in space & make pictures appear?"

 

"Chư Tỷ-kheo, ví như một người đến, cầm màu sơn, màu vàng, màu xanh sẫm hay màu đỏ tía; người ấy có thể nói như sau: "Ta sẽ viết các hình sắc trên hư không này. Ta sẽ làm cho các hình sắc hiển hiện". Các Tỷ-kheo, các Ông nghĩ thế nào? Người ấy có thể viết các hình sắc trên hư không và làm cho các hình sắc hiển hiện được không?"

"No, lord. Why is that? Because space is formless & featureless. It's not easy to draw pictures there and to make them appear. The man would reap only a share of weariness & disappointment."

"Bạch Thế Tôn, không thể được. Vì sao vậy? Bạch Thế Tôn, hư không là vô sắc, không thể thấy được. Ở đây, không dễ gì viết các hình sắc và làm hình sắc hiển hiện, trước khi người ấy bị mệt nhoài và bị thất bại."

"In the same way, monks, there are these five aspects of speech by which others may address you: timely or untimely, true or false, affectionate or harsh, beneficial or unbeneficial, with a mind of good-will or with inner hate. Others may address you in a timely way or an untimely way. They may address you with what is true or what is false. They may address you in an affectionate way or a harsh way. They may address you in a beneficial way or an unbeneficial way. They may address you with a mind of good-will or with inner hate. In any event, you should train yourselves: 'Our minds will be unaffected and we will say no evil words. We will remain sympathetic to that person's welfare, with a mind of good will, and with no inner hate. We will keep pervading him with an awareness imbued with good will and, beginning with him, we will keep pervading the all-encompassing world with an awareness imbued with good will equal to space — abundant, expansive, immeasurable, free from hostility, free from ill will.' That's how you should train yourselves.

 

"Cũng vậy, chư Tỷ-kheo, có năm loại ngôn ngữ mà các Ông có thể dùng khi nói với các người khác: "Đúng thời hay phi thời, chơn thực, hay không chơn thực, nhu nhuyễn hay thô bạo, có lợi ích hay không lợi ích, với từ tâm hay với sân tâm". Chư Tỷ-kheo, khi nói với các người khác, các Ông có thể nói đúng thời hay phi thời. Chư Tỷ-kheo, khi nói với các người khác, các Ông có thể nói lời chơn thực hay nói lời không chơn thực. Chư Tỷ-kheo, khi nói với các người khác, các Ông có thể nói lời nhu nhuyễn hay nói lời thô bạo. Chư Tỷ-kheo, khi nói với các người khác, các Ông có thể nói lời lợi ích hay nói lời không lợi ích. Chư Tỷ-kheo, khi nói với các người khác, các Ông có thể nói với từ tâm hay với sân tâm. Chư Tỷ-kheo, ở tại đây, các Ông cần phải học tập như sau: "Chúng ta sẽ giữ tâm của chúng ta không biến nhiễm, chúng ta sẽ không thốt ra những lời ác ngữ; chúng ta sẽ sống với lòng lân mẫn, với tâm từ bi, với nội tâm không sân hận. Chúng ta sẽ sống biến mãn người này với tâm câu hữu với từ. Và với người này là đối tượng, ta sống biến mãn cùng khắp thế giới với tâm câu hữu với từ, quảng đại, vô biên, không hận, không sân" Chư Tỷ-kheo, các Ông cần phải học tập như vậy.

"Suppose that a man were to come along carrying a burning grass torch and saying, 'With this burning grass torch I will heat up the river Ganges and make it boil.' Now, what do you think — would he, with that burning grass torch, heat up the river Ganges and make it boil?"

"Chư Tỷ-kheo, ví như một người đến, cầm một bó cỏ khô đang cháy và nói như sau: "Ta với bó cỏ khô đang cháy này sẽ hâm nóng và đun sôi sông Hằng này. Chư Tỷ-kheo, các Ông nghĩ thế nào? Người ấy, với bỏ cỏ khô đang cháy có thể hâm nóng và đun sôi sông Hằng được không?"

"No, lord. Why is that? Because the river Ganges is deep & enormous. It's not easy to heat it up and make it boil with a burning grass torch. The man would reap only a share of weariness & disappointment."

"Bạch Thế Tôn, không. Vì sao vậy? Bạch Thế Tôn, vì sông Hằng thâm sâu và vô lượng, không dễ gì với bó cỏ khô đang cháy có thể hâm nóng và đun sôi sông Hằng được, trước khi người ấy mệt nhoài và bị thất bại."

"In the same way, monks, there are these five aspects of speech by which others may address you: timely or untimely, true or false, affectionate or harsh, beneficial or unbeneficial, with a mind of good-will or with inner hate. Others may address you in a timely way or an untimely way. They may address you with what is true or what is false. They may address you in an affectionate way or a harsh way. They may address you in a beneficial way or an unbeneficial way. They may address you with a mind of good-will or with inner hate. In any event, you should train yourselves: 'Our minds will be unaffected and we will say no evil words. We will remain sympathetic to that person's welfare, with a mind of good will, and with no inner hate. We will keep pervading him with an awareness imbued with good will and, beginning with him, we will keep pervading the all-encompassing world with an awareness imbued with good will equal to the river Ganges — abundant, expansive, immeasurable, free from hostility, free from ill will.' That's how you should train yourselves.

 

"Cũng vậy, chư Tỷ-kheo, có năm loại ngôn ngữ mà các Ông có thể dùng khi nói với các người khác: "Đúng thời hay phi thời, chơn thực, hay không chơn thực, nhu nhuyễn hay thô bạo, có lợi ích hay không lợi ích, với từ tâm hay với sân tâm". Chư Tỷ-kheo, khi nói với các người khác, các Ông có thể nói đúng thời hay phi thời. Chư Tỷ-kheo, khi nói với các người khác, các Ông có thể nói lời chơn thực hay nói lời không chơn thực. Chư Tỷ-kheo, khi nói với các người khác, các Ông có thể nói lời nhu nhuyễn hay nói lời thô bạo. Chư Tỷ-kheo, khi nói với các người khác, các Ông có thể nói lời lợi ích hay nói lời không lợi ích. Chư Tỷ-kheo, khi nói với các người khác, các Ông có thể nói với từ tâm hay với sân tâm. Chư Tỷ-kheo, ở tại đây, các Ông cần phải học tập như sau: "Chúng ta sẽ giữ tâm của chúng ta không biến nhiễm, chúng ta sẽ không thốt ra những lời ác ngữ; chúng ta sẽ sống với lòng lân mẫn, với tâm từ bi, với nội tâm không sân hận. Chúng ta sẽ sống biến mãn người này với tâm câu hữu với từ. Và với người này là đối tượng, ta sống biến mãn cùng khắp thế giới với tâm câu hữu với từ, quảng đại, vô biên, không hận, không sân" Chư Tỷ-kheo, các Ông cần phải học tập như vậy.

"Suppose there were a catskin bag — beaten, well-beaten, beaten through & through, soft, silky, free of rustling & crackling — and a man were to come along carrying a stick or shard and saying, 'With this stick or shard I will take this catskin bag — beaten, well-beaten, beaten through & through, soft, silky, free of rustling & crackling — and I will make it rustle & crackle.' Now, what do you think — would he, with that stick or shard, take that catskin bag — beaten, well-beaten, beaten through & through, soft, silky, free of rustling & crackling — and make it rustle & crackle?"

 

"Chư Tỷ-kheo, ví như một cái bị bằng da mèo, đã được thuộc chín, khéo thuộc, khéo thuộc cùng khắp, nhu nhuyến, như bông, không còn tiếng xì tiếng xọp, và một người đến, cầm gậy hay cầm mẻ sành và nói như sau: "Ta sẽ lấy cái gậy hay với cái mẻ sành làm cho cái bị bằng da mèo này, đã được thuộc chín, khéo thuộc, khéo thuộc cùng khắp, nhu nhuyễn, như bông, không còn tiếng xì, tiếng xọp, phát ra tiếng xì, tiếng xọp". Chư Tỷ-kheo, các Ông nghĩ thế nào? Người ấy có thể, với cái gậy hay với cái mẻ sành làm cho cái bị bằng da mèo này đã được thuộc chín, khéo thuộc, khéo thuộc cùng khắp, nhu nhuyễn, như bông, không còn tiếng xì, tiếng xọp, phát ra tiếng xì, tiếng xọp được không?"

"No, lord. Why is that? Because the catskin bag is beaten, well-beaten, beaten through & through, soft, silky, free of rustling & crackling. It's not easy to make it rustle & crackle with a stick or shard. The man would reap only a share of weariness & disappointment."

"Bạch Thế Tôn, không. Vì sao vậy? Bạch Thế Tôn, cái bị bằng da mèo này đã được thuộc chín, khéo thuộc, khéo thuộc cùng khắp, nhu nhuyễn, như bông, không còn tiếng xì, tiếng xọp, không dễ gì làm cho cái bị ấy phát ra tiếng xì, tiếng xọp được, trước khi người ấy bị mệt nhoài và bị thất bại."

"In the same way, monks, there are these five aspects of speech by which others may address you: timely or untimely, true or false, affectionate or harsh, beneficial or unbeneficial, with a mind of good-will or with inner hate. Others may address you in a timely way or an untimely way. They may address you with what is true or what is false. They may address you in an affectionate way or a harsh way. They may address you in a beneficial way or an unbeneficial way. They may address you with a mind of good-will or with inner hate. In any event, you should train yourselves: 'Our minds will be unaffected and we will say no evil words. We will remain sympathetic to that person's welfare, with a mind of good will, and with no inner hate. We will keep pervading him with an awareness imbued with good will and, beginning with him, we will keep pervading the all-encompassing world with an awareness imbued with good will equal to a catskin bag — abundant, expansive, immeasurable, free from hostility, free from ill will.' That's how you should train yourselves.

 

"Cũng vậy, chư Tỷ-kheo, có năm loại ngôn ngữ mà các Ông có thể dùng khi nói với các người khác: "Đúng thời hay phi thời, chơn thực, hay không chơn thực, nhu nhuyễn hay thô bạo, có lợi ích hay không lợi ích, với từ tâm hay với sân tâm". Chư Tỷ-kheo, khi nói với các người khác, các Ông có thể nói đúng thời hay phi thời. Chư Tỷ-kheo, khi nói với các người khác, các Ông có thể nói lời chơn thực hay nói lời không chơn thực. Chư Tỷ-kheo, khi nói với các người khác, các Ông có thể nói lời nhu nhuyễn hay nói lời thô bạo. Chư Tỷ-kheo, khi nói với các người khác, các Ông có thể nói lời lợi ích hay nói lời không lợi ích. Chư Tỷ-kheo, khi nói với các người khác, các Ông có thể nói với từ tâm hay với sân tâm. Chư Tỷ-kheo, ở tại đây, các Ông cần phải học tập như sau: "Chúng ta sẽ giữ tâm của chúng ta không biến nhiễm, chúng ta sẽ không thốt ra những lời ác ngữ; chúng ta sẽ sống với lòng lân mẫn, với tâm từ bi, với nội tâm không sân hận. Chúng ta sẽ sống biến mãn người này với tâm câu hữu với từ. Và với người này là đối tượng, ta sống biến mãn cùng khắp thế giới với tâm câu hữu với từ, quảng đại, vô biên, không hận, không sân" Chư Tỷ-kheo, các Ông cần phải học tập như vậy.

"Monks, even if bandits were to carve you up savagely, limb by limb, with a two-handled saw, he among you who let his heart get angered even at that would not be doing my bidding. Even then you should train yourselves: 'Our minds will be unaffected and we will say no evil words. We will remain sympathetic, with a mind of good will, and with no inner hate. We will keep pervading these people with an awareness imbued with good will and, beginning with them, we will keep pervading the all-encompassing world with an awareness imbued with good will — abundant, expansive, immeasurable, free from hostility, free from ill will.' That's how you should train yourselves.

"Chư Tỷ-kheo, như những kẻ đạo tặc hạ liệt, dùng cưa hai lưỡi mà cưa tay, cưa chân; dầu vậy, nếu một ai ở đây khởi ý nhiễm loạn, người ấy do vậy không phải là người thực hành giáo pháp của Ta. Ở đây, chư Tỷ-kheo các Ông phải học tập như sau: "Chúng ta sẽ giữ tâm của chúng ta không biến nhiễm; chúng ta sẽ không thốt ra những lời ác ngữ; chúng ta sẽ sống với lòng lân mẫn, với tâm từ bi, với nội tâm không sân hận. Chúng ta sẽ sống bao phủ người này với tâm câu hữu với từ. Và với người này là đối tượng, ta sống biến mãn cùng khắp thế giới với tâm câu hữu với từ, quảng đại, vô biên, không hận, không sân". Chư Tỷ-kheo, các Ông cần phải học tập như vậy.

"Monks, if you attend constantly to this admonition on the simile of the saw, do you see any aspects of speech, slight or gross, that you could not endure?"

 

"Và này chư Tỷ-kheo, nếu các Ông luôn luôn suy tư lời dạy ví dụ cái cưa này, thì này các Tỷ-kheo, các Ông có thấy loại ngôn ngữ nào, dầu tế nhị hay thô bạo mà các Ông không kham nhẫn được chăng?"

"No, lord."

"Bạch Thế Tôn, không."

"Then attend constantly to this admonition on the simile of the saw. That will be for your long-term welfare & happiness."

"Chư Tỷ-kheo, do vậy, hãy luôn luôn suy tư lời dạy ví như cái cưa này, và các Ông sẽ được hạnh phúc an lạc lâu ngày."

That is what the Blessed One said. Gratified, the monks delighted in the Blessed One's words.

MN 21

Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ, tín thọ lời Thế Tôn dạy.

MN 21

§ 2.11. On one occasion a large number of senior monks were living near Macchikasanda in the Wild Mango Grove. Then Citta the householder 1 went to them and, on arrival, having bowed down to them, sat to one side. As he was sitting there, he said to them: "Venerable sirs, may the senior monks acquiesce to tomorrow's meal from me."

 

 

999

 

The senior monks acquiesced by silence. Then Citta the householder, sensing the senior monks' acquiescence, got up from his seat and, having bowed down to them, circumambulated them — keeping them to his right — and left.

 

 

 

999

 

 

When the night had passed, the senior monks put on their robes in the early morning and — taking their bowls & outer robes — went to Citta's residence. There they sat down on the appointed seats. Citta the householder went to them and, having bowed down to them, sat to one side. As he was sitting there, he said to the most senior monk:

 

 

999

 

"Venerable sir, concerning the various views that arise in the world — 'The cosmos is eternal' or 'The cosmos isn't eternal'; 'The cosmos is finite' or 'The cosmos is infinite'; 'The soul and the body are the same' or 'The soul is one thing, the body another'; 'A Tathagata exists after death' or 'A Tathagata doesn't exist after death' or 'A Tathagata both exists & doesn't exist after death' or 'A Tathagata neither exists nor doesn't exist after death'; these along with the sixty-two views mentioned in the Brahmajala [DN 1] — when what is present do these views come into being, and when what is absent do they not come into being?"

 

 

999

 

When this was said, the senior monk was silent. A second time... A third time Citta the householder asked, "Concerning the various views that arise in the world... when what is present do they come into being, and what is absent do they not come into being?" A third time the senior monk was silent.

 

 

999

 

Now on that occasion Ven. Isidatta was the most junior of all the monks in that Community. Then he said to the senior monk: "Allow me, venerable sir, to answer Citta the householder's question."

 

 

999

 

"Go ahead & answer it, friend Isidatta."

 

 

999

 

"Now, householder, are you asking this: 'Concerning the various views that arise in the world... when what is present do they come into being, and what is absent do they not come into being?'?"

 

 

999

 

"Yes, venerable sir."

 

 

999

 

"Concerning the various views that arise in the world, householder... when self-identity view is present, these views come into being; when self-identity view is absent, they don't come into being."

 

 

 

999

 

"But, venerable sir, how does self-identity view come into being?"

 

 

999

 

"There is the case, householder, where an uninstructed, run-of-the-mill person — who has no regard for noble ones, is not well-versed or disciplined in their Dhamma; who has no regard for men of integrity, is not well-versed or disciplined in their Dhamma — assumes form (the body) to be the self, or the self as possessing form, or form as in the self, or the self as in form. He assumes feeling to be the self, or the self as possessing feeling, or feeling as in the self, or the self as in feeling. He assumes apperception to be the self, or the self as possessing apperception, or apperception as in the self, or the self as in apperception. He assumes (mental) fabrications to be the self, or the self as possessing fabrications, or fabrications as in the self, or the self as in fabrications. He assumes consciousness to be the self, or the self as possessing consciousness, or consciousness as in the self, or the self as in consciousness. This is how self-identity view comes into being."

 

 

999

 

"And, venerable sir, how does self-identity view not come into being?"

 

 

999

 

"There is the case, householder, where a well-instructed noble disciple — who has regard for noble ones, is well-versed & disciplined in their Dhamma; who has regard for men of integrity, is well-versed & disciplined in their Dhamma — does not assume form to be the self, or the self as possessing form, or form as in the self, or the self as in form. He does not assume feeling to be the self... He does not assume apperception to be the self... He does not assume fabrications to be the self... He does not assume consciousness to be the self, or the self as possessing consciousness, or consciousness as in the self, or the self as in consciousness. This is how self-identity view does not come into being."

 

 

 

999

 

 Chủ biên và điều hành: TT Thích Giác Đẳng.

  Những đóng góp dịch thuật xin gửi về TT Thích Giác Đẳng tại giacdang@phapluan.com
Cập nhập ngày: Thứ Sáu 08-11-2006

Kỹ thuật trình bày: Minh Hạnh & Thiện Pháp

Trang trước | Trang kế| trở về đầu trang | Home page |