§ 53. Now what, monks, is five-factored noble right concentration? There is the case where a monk — quite withdrawn from sensuality, withdrawn from unskillful qualities — enters & remains in the first jhana: rapture & pleasure born from withdrawal, accompanied by directed thought & evaluation. He permeates & pervades, suffuses & fills this very body with the rapture & pleasure born from withdrawal. There is nothing of his entire body unpervaded by rapture & pleasure born from withdrawal.

 

Just as if a skilled bathman or bathman's apprentice would pour bath powder into a brass basin and knead it together, sprinkling it again & again with water, so that his ball of bath powder — saturated, moisture-laden, permeated within & without — would nevertheless not drip; even so, the monk permeates... this very body with the rapture & pleasure born of withdrawal. There is nothing of his entire body unpervaded by rapture & pleasure born from withdrawal. This is the first development of the five-factored noble right concentration.

 

 

Ví như, này các Tỷ-kheo, như một người hầu tắm hay đệ tử hầu tắm, sau khi rắc bột tắm trong thau bằng đồng, liền nhồi bột ấy với nước. Cục bột tắm ấy được thấm ướt cả trong lẫn ngoài với nước, nhưng không chảy thành giọt. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho dung mãn, tràn đầy thân này với hỷ lạc do ly dục sanh, không một chỗ nào trên toàn thân không được hỷ lạc do ly dục sanh ấy thấm nhuần. Đây là sự tu tập thứ nhất về Thánh chánh định gồm có năm chi phần.

 

Furthermore, with the stilling of directed thoughts & evaluations, he enters & remains in the second jhana: rapture & pleasure born of composure, unification of awareness free from directed thought & evaluation — internal assurance. He permeates & pervades, suffuses & fills this very body with the rapture & pleasure born of composure. There is nothing of his entire body unpervaded by rapture & pleasure born of composure.

 

Lại nữa, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo làm cho tịnh chỉ tầm và tứ, chứng đạt và an trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tĩnh nhất tâm. Vị ấy thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung mãn, tràn đầy thân này với hỷ lạc do tịnh định sanh, không một chỗ nào trên toàn thân không được hỷ lạc do định sanh ấy thấm nhuần.

Just like a lake with spring-water welling up from within, having no inflow from east, west, north, or south, and with the skies periodically supplying abundant showers, so that the cool fount of water welling up from within the lake would permeate & pervade, suffuse & fill it with cool waters, there being no part of the lake unpervaded by the cool waters; even so, the monk permeates... this very body with the rapture & pleasure born of composure. There is nothing of his entire body unpervaded by rapture & pleasure born of composure. This is the second development of the five-factored noble right concentration.

 

Ví như, này các Tỷ-kheo, một hồ nước, nước tự dâng lên, phương Đông không có lỗ nước chảy ra, phương Tây không có lỗ nước chảy ra, phương Bắc không có lỗ nước chảy ra, phương Nam không có lỗ nước chảy ra, và thỉnh thoảng trời lại mưa lớn. Suối nước mát từ hồ nuớc ấy phun ra, thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung mãn tràn đầy hồ nước ấy với nước mát lạnh, không một chỗ nào của hồ nước ấy không được nước mát lạnh thấm nhuần. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo thấm này với hỷ lạc do định sanh, không một chỗ nào trên toàn thân không được hỷ lạc do định sanh ấy thấm nhuần. Đây là sự tu tập thứ hai về Thánh chánh định gồm có năm chi phần.

 

And furthermore, with the fading of rapture, he remains in equanimity, mindful & alert, and physically sensitive to pleasure. He enters & remains in the third jhana, of which the Noble Ones declare, 'Equanimous & mindful, he has a pleasurable abiding.' He permeates & pervades, suffuses & fills this very body with the pleasure divested of rapture, so that there is nothing of his entire body unpervaded with pleasure divested of rapture.

Lại nữa, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và an trú Thiền thứ ba. Vị Tỷ-kheo ấy thấm nhuần với lạc thọ không có hỷ ấy, không một chỗ nào trên toàn thân không được lạc thọ không có hỷ ấy thấm nhuần.

Just as in a blue-, white-, or red-lotus pond, there may be some of the blue, white, or red lotuses which, born & growing in the water, stay immersed in the water and flourish without standing up out of the water, so that they are permeated & pervaded, suffused & filled with cool water from their roots to their tips, and nothing of those blue, white, or red lotuses would be unpervaded with cool water; even so, the monk permeates... this very body with the pleasure divested of rapture. There is nothing of his entire body unpervaded with pleasure divested of rapture. This is the third development of the five-factored noble right concentration.

 

Ví như, này các Tỷ-kheo, trong hồ sen xanh, hồ sen hồng ha sen trắng, những bông hoa ấy sanh trong nước, lớn lên trong nước, không vượt khỏi nước, nuôi sống dưới nước, từ đầu ngọn cho đến gốc rễ đều thấm nhuần, tẩm ướt, tràn đầy thấu suốt bởi nước mát lạnh ấy, không một chỗ nào của toàn thể sen xanh, sen hồng hay sen trắng không được nước mát lạnh ấy thấm nhuần. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung mãn tràn đầy thân này với lạc thọ không có hỷ ấy, không một chỗ nào trên toàn thân không được lạc thọ không có hỷ ấy thấm nhuần. Này các Tỷ-kheo, đây là sự tu tập thứ ba về Thánh chánh định gồm có năm chi phần.

 

And furthermore, with the abandoning of pleasure & stress — as with the earlier disappearance of elation & distress — he enters & remains in the fourth jhana: purity of equanimity & mindfulness, neither-pleasure-nor-pain. He sits, permeating the body with a pure, bright awareness, so that there is nothing of his entire body unpervaded by pure, bright awareness.

 

Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú Thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm, thanh tịnh. Tỷ-kheo ấy ngồi thấm nhuần toàn thân mình với tâm thuần tịnh trong sáng, không một chỗ nào trên toàn thân không được tâm thuần tịnh trong sáng ấy thấm nhuần.

 

Just as if a man were sitting wrapped from head to foot with a white cloth so that there would be no part of his body to which the white cloth did not extend; even so, the monk sits, permeating his body with a pure, bright awareness. There is nothing of his entire body unpervaded by pure, bright awareness. This is the fourth development of the five-factored noble right concentration.

 

Ví như, này các Tỷ-kheo, một người dùng tấm vải trắng trùm đầu, không một chỗ nào trên toàn thân không được vải trắng ấy che phủ. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ngồi thấm nhuần toàn thân này với tâm thuần tịnh trong sáng, không một chỗ nào trên toàn thân không được tâm thuần tịnh trong sáng ấy thấm nhuần.Này các Tỷ-kheo, đây là sự tu tập thứ tư về Thánh chánh định gồm có năm chi phần.

 

And furthermore, the monk has his theme of reflection well in hand, well attended to, well considered, well tuned (well penetrated) by means of discernment.

 

Lại nữa, này các Tỷ-kheo, quán sát tướng được vị Tỷ-kheo khéo nắm giữ, khéo tác ý, khéo thọ trì, khéo thể nhập với trí tuệ.

 

Just as if one person were to reflect on another, or a standing person were to reflect on a sitting person, or a sitting person were to reflect on a person lying down; even so, monks, the monk has his theme of reflection well in hand, well attended to, well pondered, well tuned by means of discernment. This is the fifth development of the five-factored noble right concentration.

 

 

Ví như, này các Tỷ-kheo, một người quán sát một người khác, người đứng quán sát người ngồi, hay người ngồi quán sát người nằm. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, quán sát tướng được Tỷ-kheo khéo nắm giữ, khéo tác ý, khéo thọ trì, khéo thế nhập với trí tuệ. Này các Tỷ-kheo, đây là sự tu tập thứ năm về Thánh chánh định gồm có năm chi phần. [go up]

999

 

When a monk has developed & pursued the five-factored noble right concentration in this way, then whichever of the six higher knowledges he turns his mind to know & realize, he can witness them for himself whenever there is an opening.

Tu tập như vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo với Thánh chánh định gồm có năm chi phần được làm cho sung mãn như vậy, tùy thuộc theo pháp gì cần phải được giác ngộ với thắng trí, tâm vị ấy hướng đến để được giác ngộ với thắng trí. Tại đấy, tại đấy vị ấy có khả năng, có năng lực đạt đến pháp ấy dầu thuộc loại xứ nào.

Imagine a water jar, set on a stand, brimful of water so that a crow could drink from it. If a strong man were to tip it in any way at all, would water spill out?

Yes, lord.

 

Ví như, này các Tỷ-kheo, một cái ghè nước đặt trên một cái giá, ghè ấy đựng đầy nước, tràn đầy đến nỗi con quạ có thể uống được. Và một người có sức mạnh đến lắc qua lắc lại cái ghè ấy, như vậy nước có đổ ra chăng?

- Thưa có, bạch Thế Tôn.

In the same way, when a monk has developed & pursued the five-factored noble right concentration in this way, then whichever of the six higher knowledges he turns his mind to know & realize, he can witness them for himself whenever there is an opening.

 

 

- Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo tu tập như vậy, Thánh chánh định gồm có năm chi phần được làm cho sung mãn như vậy, tùy thuộc theo pháp gì cần phải được giác ngộ với thắng trí, tâm vị ấy hướng đến để được giác ngộ với thắng trí. Tại đấy, tại đấy vị ấy có khả năng, có năng lực đạt đến pháp ấy, dầu thuộc loại xứ nào.


Imagine a rectangular water tank — set on level ground, bounded by dikes — brimful of water so that a crow could drink from it. If a strong man were to loosen the dikes anywhere at all, would water spill out?

Yes, lord...

 

Ví như, này các Tỷ-kheo, một hồ nước trên một khoảnh đất bằng, bốn góc có bờ đê đắp cao đầu tràn nước đến nỗi con quạ có thể uống được. Rồi một người có sức mạnh đến tháo bờ đê chỗ này chỗ kia, như vậy nước có đổ ra chăng?

-" Thưa có, bạch Thế Tôn."

Imagine a chariot on level ground at four crossroads, harnessed to thoroughbreds, waiting with whips lying ready, so that a skilled driver, a trainer of tamable horses, might mount and — taking the reins with his left hand and the whip with his right — drive out & back, to whatever place and by whichever road he liked; in the same way, when a monk has developed & pursued the five-factored noble right concentration in this way, then whichever of the six higher knowledges he turns his mind to know & realize, he can witness them for himself whenever there is an opening.

AN 5.28

 

Ví như, này các Tỷ-kheo, trên đất bằng, tại chỗ ngã tư, có một chiếc xe đang đậu, thắng với ngựa thuần chủng, có gậy thúc ngực đặt ngang sẵn sàng. Có người huấn luyện ngựa thiện xảo, người đáng xe điều ngự các con ngựa đáng được điều ngựa, leo lên xe ấy, tay trái nắm lấy dây cương tay mặt cầm lấy gậy thúc ngựa, có thể đánh xe ngựa ấy đi tới đi lui tại chỗ nào và như thế nào theo ý mình muốn. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo tu tập như vậy, Thánh chánh định gồm có năm chi phần được làm cho sung mãn như vậy, tùy thuộc theo pháp gì cần phải được giác ngộ với thắng trí, tâm vị ấy hướng đến để được giác ngộ với thắng trí. Tại đấy, tại đấy vị ấy có khả năng, có năng lực đạt đến pháp ấy, dầu thuộc loại xứ nào.

AN 5.28

§ 54. Vassakara: Once, Ven. Ananda, Ven. Gotama was living at Vesali in the Hall with the peaked roof in the Great Forest. I went to where he was staying in the Great Forest... and there he spoke in a variety of ways on jhana. Ven. Gotama was both endowed with jhana and made jhana his habit. In fact, he praised all sorts of jhana.

 

Thưa Tôn giả Ananda, một thời Tôn giả Gotama ở tại Vesali, Đại Lâm, ở Kutagarasala (Trùng Các giảng đường). Rồi thưa Tôn giả Ananda, tôi đi đến Mahavana (Đại Lâm), Kutagarasala, đến Tôn giả Gotama. Ở đấy, Tôn giả Gotama dùng nhiều phương tiện nói về Thiền định luận. Tôn giả Gotama thật là vị tu Thiền và tánh thiên về Thiền định. Và Tôn giả Gotama tán thán tất cả Thiền định.

Ananda: It wasn't the case that the Blessed One praised all sorts of jhana, nor did he criticize all sorts of jhana. And what sort of jhana didn't he praise? There is the case where a certain person dwells with his awareness overcome by sensual passion, obsessed with sensual passion. He doesn't discern the escape, as it actually is present, from sensual passion once it has arisen. Making that sensual passion the focal point, he absorbs himself with it, besorbs, resorbs, & supersorbs himself with it.

 

 

– Này Bà-la-môn, Thế Tôn ấy không tán thán tất cả Thiền định, không không tán thán tất cả Thiền định. Và này Bà-la-môn, loại Thiền định nào Thế Tôn ấy không tán thán ? Ở đây, này Bà-la-môn, một số vị sống với tâm thấm nhuần dục tham, bị dục tham chi phối, và không như thật biết sự giải thoát khỏi dục tham đã được khởi lên. Vị ấy lấy dục tham làm đối tượng tối hậu. Thiền tu, Thiền tư, Thiền định, Thiền nhập.

He dwells with his awareness overcome by ill will... sloth & drowsiness... restlessness & anxiety... uncertainty, obsessed with uncertainty. He doesn't discern the escape, as it actually is present, from uncertainty once it has arisen. Making that uncertainty the focal point, he absorbs himself with it, besorbs, resorbs, & supersorbs himself with it. This is the sort of jhana that the Blessed One did not praise.

 

Vị ấy sống với tâm thấm nhuần sân hận, bị sân hận chi phối, và không như thật biết sự giải thoát khỏi sân hận đã được khởi lên. Vị ấy lấy sân hận làm đối tượng tối hậu, Thiền tu, Thiền tư, Thiền định, Thiền nhập.

And what sort of jhana did he praise? There is the case where a monk — quite withdrawn from sensuality, withdrawn from unskillful qualities — enters & remains in the first jhana... the second jhana... the third jhana... the fourth jhana: purity of equanimity & mindfulness, neither pleasure nor pain. This is the sort of jhana that the Blessed One praised.

 

Này Bà-la-môn, Thế Tôn ấy không tán thán loại Thiền định như vậy. Và này Bà-la-môn, loại Thiền định nào Thế Tôn ấy tán thán ? Ở đây, này Bà-la-môn, Tỷ-kheo ly dục, ly bất thiện pháp, chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ. Diệt tầm và tứ, vị ấy chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm, không tứ, nội tỉnh nhất tâm, chứng và trú Thiền thứ ba, Thiền thứ tư. Này Bà-la-môn, loại Thiền như vậy, Thế Tôn ấy tán thán.

 

Vassakara: It would seem, Ven. Ananda, that the Ven. Gotama criticized the jhana that deserves criticism, and praised that which deserves praise.

MN 108

 

– Thật vậy, thưa Tôn giả Ananda, Tôn giả Gotama khiển trách Thiền đáng được khiển trách, tán thán Thiền đáng được tán thán.

MN 108

§ 55. "Suppose there was a mountain cow — foolish, inexperienced, unfamiliar with her pasture, unskilled in roaming on rugged mountains — and she were to think, 'What if I were to go in a direction I have never gone before, to eat grass I have never eaten before, to drink water I have never drunk before!' She would lift her hind hoof without having placed her front hoof firmly and [as a result] would not get to go in a direction she had never gone before, to eat grass she had never eaten before, or to drink water she had never drunk before. And as for the place where she was standing when the thought occurred to her, 'What if I were to go where I have never been before... to drink water I have never drunk before,' she would not return there safely. Why is that? Because she is a foolish, inexperienced mountain cow, unfamiliar with her pasture, unskilled in roaming on rugged mountains.

 

Ví như, này các Tỷ-kheo, một con bò cái sống ở rừng núi, ngu si, không thông minh, không biết đồng ruộng, không thiện xảo đi đến các núi non hiểm trở. Nó suy nghĩ: "Ta hãy đi đến phương hướng trước kia chưa đi, ta hãy ăn cỏ trước kia chưa được ăn, ta sẽ uống nước trước kia chưa được uống" Và con bò cái ấy đã giơ chân sau lên, trước khi nó khéo đặt một cách tốt đẹp bàn chân trước, và nó không có thể đi đến phương hướng trước kia chưa đi, không có thể ăn cỏ trước kia chưa được ăn, và không có thể uống nước trước kia chưa được uống. Tại chỗ mà trước kia nó đặt chân, nó nghĩ: "Ta hãy đi đến phương hướng trước kia chưa đi, ta hãy ăn cỏ trước kia chưa ăn ta sẽ uống nước trước kia chưa uống", nó không có thể trở lui chỗ ấy một cách an toàn. Vì sao? Ở đây, này các Tỷ-kheo, vì con bò cái ấy sống ở rừng núi, ngu si, không biết chỗ đồng ruộng, không thiện xảo đi đến các núi con hiểm trở.

 

"In the same way, there are cases where a monk — foolish, inexperienced, unfamiliar with his pasture, unskilled in... entering & remaining in the first jhana: rapture & pleasure born from withdrawal, accompanied by directed thought & evaluation — doesn't stick with that theme, doesn't develop it, pursue it, or establish himself firmly in it. The thought occurs to him, 'What if I, with the stilling of directed thoughts & evaluations, were to enter & remain in the second jhana: rapture & pleasure born of composure, unification of awareness free from directed thought & evaluation — internal assurance.' He is not able... to enter & remain in the second jhana... The thought occurs to him, 'What if I... were to enter & remain in the first jhana... He is not able... to enter & remain in the first jhana. This is called a monk who has slipped & fallen from both sides, like the mountain cow, foolish, inexperienced, unfamiliar with her pasture, unskilled in roaming on rugged mountains.

 

Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, ở đây có một số Tỷ-kheo ngu si, không thông minh, không biết chỗ đồng ruộng, không thiện xảo, ly dục, ly bất thiện pháp, chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm , có tứ. Vị ấy không thực hành, không tu tập tướng ấy không làm cho sung mãn, không trú một cách khéo trú. Vị ấy lại suy nghĩ: "Ta hãy diệt tầm và tứ, chứng và an trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tỉnh nhất tâm. Vị ấy không có thể diệt các tầm và tứ, không có thể chứng và trú Thiền thứ hai. một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tỉnh nhất tâm. Dầu cho vị ấy có suy nghĩ: "Ta hãy ly dục, ly bất thiện pháp, chứng và an trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh có tầm và tứ. Vị ấy cũng không thể ly dục, ly bất thiện pháp,chứng đạt và an trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh có tầm và tứ. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là Tỷ-kheo rơi vào cả hai phía, đọa vào cả hai phía, ví như con bò cái ấy sống ở rừng núi, ngu si , không thông minh, không biết chỗ đồng ruộng, không thiện xảo đi đến các núi non hiểm trở.

"But suppose there was a mountain cow — wise, experienced, familiar with her pasture, skilled in roaming on rugged mountains — and she were to think, 'What if I were to go in a direction I have never gone before, to eat grass I have never eaten before, to drink water I have never drunk before!' She would lift her hind hoof only after having placed her front hoof firmly and [as a result] would get to go in a direction she had never gone before... to drink water she had never drunk before. And as for the place where she was standing when the thought occurred to her, 'What if I were to go in a direction I have never gone before... to drink water I have never drunk before,' she would return there safely. Why is that? Because she is a wise, experienced mountain cow, familiar with her pasture, skilled in roaming on rugged mountains.

Ví như, này các Tỷ-kheo, một con bò cái sống ở rừng núi, hiền trí, thông minh, biết đồng ruộng, biết thiện xảo đi đến các núi non hiểm trở. Nó suy nghĩ: "Ta hãy đi đến phương hướng trước kia chưa đi, ta hãy ăn cỏ trước kia chưa được ăn, ta sẽ uống nước trước kia chưa được uống" Và con bò cái ấy, sau khi nó khéo đặt một cách tốt đẹp bàn chân trước rồi giơ chân sau lên, và nó có thể đi đến phương hướng trước kia chưa đi, ăn cỏ trước kia chưa được ăn, và uống nước trước kia chưa được uống. Tại chỗ mà trước kia nó đặt chân, nó nghĩ: "Ta hãy đi đến phương hướng trước kia chưa đi, ta hãy ăn cỏ trước kia chưa ăn ta sẽ uống nước trước kia chưa uống", nó có thể trở lui chỗ ấy một cách an toàn. Vì sao? Ở đây, này các Tỷ-kheo, vì con bò cái ấy sống ở rừng núi, hiền trí, thông minh, biết chỗ đồng ruộng, thiện xảo đi đến các núi con hiểm trở.

"In the same way, there are some cases where a monk — wise, experienced, familiar with his pasture, skilled in... entering & remaining in the first jhana... sticks with that theme, develops it, pursues it, & establishes himself firmly in it. The thought occurs to him, 'What if I... were to enter & remain in the second jhana... ' Without jumping at the second jhana, he — with the stilling of directed thoughts & evaluations — enters & remains in the second jhana. He sticks with that theme, develops it, pursues it, & establishes himself firmly in it. The thought occurs to him, 'What if I... were to enter & remain in the third jhana'... Without jumping at the third jhana, he... enters & remains in the third jhana. He sticks with that theme, develops it, pursues it, & establishes himself firmly in it. The thought occurs to him, 'What if I... were to enter & remain in the fourth jhana'... Without jumping at the fourth jhana, he... enters & remains in the fourth jhana. He sticks with that theme, develops it, pursues it, & establishes himself firmly in it.

 

Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, ở đây có một số Tỷ-kheo hiền trí, thông minh, biết chỗ đồng ruộng, biết thiện xảo, ly dục, ly ác pháp, ly bất thiện pháp, có thể chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh có tầm và tứ. Vị ấy thực hành, tu tập làm cho sung mãn tướng ấy, trú một cách khéo trú. Vị ấy lại suy nghĩ: "Ta hãy diệt tầm và tứ, chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tỉnh nhất tâm.". Vị ấy không lẫn lộn Thiền thứ hai, diệt các tầm và tứ, chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tỉnh nhất tâm. Vị ấy thực hành, tu tập, làm cho sung mãn tướng ấy, trú một cách khéo trú. Vị ấy suy nghĩ: "Ta hãy ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và an trú Thiền thứ ba ". Vị ấy không lẫn lộn Thiền thứ ba, ly hỷ, trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và an trú Thiền thứ ba.". Vị ấy thực hành, tu tập, làm cho sung mãn tướng ấy, trú một cách khéo trú. Vị ấy suy nghĩ: "Ta hãy đoạn lạc, đoạn khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ từ trước , chứng và trú Thiền thứ tư không khổ không lạc, xả niệm thanh tịnh.Vị ấy không lẫn lộn Thiền thứ tư, đoạn lạc, đoạn khổ,diệt hỷ ưu đã cảm thọ từ trước , chứng và trú Thiền thứ tư không khổ không lạc, xả niệm thanh tịnh. Vị ấy thực hành, tu tập, làm cho sung mãn tướng ấy, trú một cách khéo trú.

"The thought occurs to him, 'What if I, with the complete transcending of perceptions of [physical] form, with the disappearance of perceptions of resistance, and not heeding perceptions of diversity, thinking, "Infinite space," were to enter & remain in the dimension of the infinitude of space.' Without jumping at the dimension of the infinitude of space, he... enters & remains in dimension of the infinitude of space. He sticks with that theme, develops it, pursues it, & establishes himself firmly in it.

 

Vị ấy suy nghĩ: "Ta hãy vượt qua các sắc tưởng một cách hoàn toàn, chấm dứt các chướng ngại tưởng, không tác ý đến các tưởng sai biệt, biết rằng: "Hư không là vô biên", chứng đạt và an trú Không vô biên xứ. Vị ấy không lẫn lộn Không vô biên xứ, vượt qua các sắc tưởng một cách hoàn toàn,chấm dứt các chướng ngại tưởng,không tác ý đến các tưởng sai biệt, biết rằng: "Hư không là vô biên", chứng đạt và an trú Không vô biên xứ. Vị ấy thực hành, tu tập, làm cho sung mãn tướng ấy, trú một cách khéo trú.

 

"The thought occurs to him, 'What if I, with the complete transcending of the dimension of the infinitude of space, thinking, "Infinite consciousness," were to enter & remain in the dimension of the infinitude of consciousness.' Without jumping at the dimension of the infinitude of consciousness, he... enters & remains in dimension of the infinitude of consciousness. He sticks with that theme, develops it, pursues it, & establishes himself firmly in it.

Vị ấy suy nghĩ: "Ta hãy vượt qua Không vô biên xứ một cách hoàn toàn, biết rằng: "Thức là vô biên", chứng đạt và an trú Thức vô biên xứ". Vị ấy không lẫn lộn Thức vô biên xứ, vượt qua Không vô biên xứ một cách hoàn toàn, biết rằng: "Thức là vô biên", chứng đạt và an trú Thức vô biên xứ. Vị ấy thực hành, tu tập làm cho sung mãn tướng ấy, trú một cách khéo trú.

"The thought occurs to him, 'What if I, with the complete transcending of the dimension of the infinitude of consciousness, thinking, "There is nothing," were to enter & remain in the dimension of nothingness.' Without jumping at the dimension of nothingness, he... enters & remains in dimension of nothingness. He sticks with that theme, develops it, pursues, it & establishes himself firmly in it.

Vị ấy suy nghĩ: "Ta hãy vượt qua Thức vô biên xứ một cách hoàn toàn", biết rằng "Không có vật gì", chứng đạt và an trú Vô sở hữu xứ. Vị ấy không lẫn lộn Vô sở hữu xứ, vượt qua Thức vô biên xứ một cách hoàn toàn, biết rằng: "Không có vật gì", chứng đạt và an trú Vô sở hữu xứ. Vị ấy thực hành, tu tập làm cho sung mãn tướng ấy, trú một cách khéo trú.

"The thought occurs to him, 'What if I, with the complete transcending of the dimension of nothingness, were to enter & remain in the dimension of neither perception nor non-perception.' Without jumping at the dimension of neither perception nor non-perception, he... enters & remains in the dimension of neither perception nor non-perception. He sticks with that theme, develops it, pursues it, & establishes himself firmly in it.

 

Vị ấy suy nghĩ: "Ta hãy vượt qua Vô sở hữu xứ một cách hoàn toàn", chứng đạt và an trú Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Vị ấy không lẫn lộn Phi tưởng phi phi tưởng xứ, vượt qua Vô sở hữu xứ một cách hoàn toàn, chứng đạt và an trú Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Vị ấy thực hành, tu tập làm cho sung mãn tướng ấy, trú một cách khéo trú.

"The thought occurs to him, 'What if I, with the complete transcending of the dimension of neither perception nor non-perception, were to enter & remain in the cessation of perception & feeling.' Without jumping at the cessation of perception & feeling, he... enters & remains in the cessation of perception & feeling.

 

Vị ấy suy nghĩ: "Ta hãy vượt qua Phi tưởng phi phi tưởng xứ một cách hoàn toàn, chứng đạt và an trú Diệt thọ tưởng định". Vị ấy không lẫn lộn Diệt thọ tưởng định, vượt qua Phi tưởng phi phi tưởng xứ một cách hoàn toàn, chứng đạt và an trú Diệt thọ tưởng định.

"When a monk enters & emerges from that very attainment, his mind is pliant & malleable. With his pliant, malleable mind, limitless concentration is well developed. With his well developed, limitless concentration, then whichever of the six higher knowledges he turns his mind to know & realize, he can witness them for himself whenever there is an opening."

AN 9.35

 

Này các Tỷ-kheo, khi nào Tỷ-kheo nhập vào và xuất ra khỏi Thiền chứng ấy, tâm vị ấy trở thành nhu nhuyến, dễ xử dụng. Với tâm nhu nhuyến, dễ xử dụng , định được khéo tu tập, trở thành vô lượng. Vị ấy với định vô lượng khéo tu tập, tùy theo pháp gì, pháp gì cần được chứng ngộ với thắng trí, vị ấy hướng tâm về sự chứng ngộ với thắng trí. Tại đấy, tại đấy, vị ấy có được khả năng chứng đạt được, dầu thuộc loại xứ nào.


AN 9.35

§ 56. "Suppose that an archer or archer's apprentice were to practice on a straw man or mound of clay, so that after a while he would become able to shoot long distances, to fire accurate shots in rapid succession, and to pierce great masses. In the same way, there is the case where a monk... enters & remains in the first jhana: rapture & pleasure born of withdrawal, accompanied by directed thought & evaluation. He regards whatever phenomena there that are connected with form, feeling, perception, fabrications, & consciousness, as inconstant, stressful, a disease, a cancer, an arrow, painful, an affliction, alien, a disintegration, an emptiness, not-self. He turns his mind away from those phenomena, and having done so, inclines his mind to the property of deathlessness: 'This is peace, this is exquisite — the resolution of all fabrications; the relinquishment of all acquisitions; the ending of craving; dispassion; cessation; Unbinding.'

Ví như người bắn cung, hay đệ tử người bắn cung tập bắn trên một hình nộm bằng cỏ hay trên đống đất sét, rồi người ấy có thể trở thành một người bắn xa, bắn nhanh, bắn thủng qua vật dày lớn. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo ly dục, ly bất thiện pháp, chứng đạt và an trú sơ Thiền, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh có tầm và tứ. Vị ấy ở đây, đối với cái gì thuộc về sắc, thuộc về thọ, thuộc về tưởng, thuộc về hành, thuộc về thức, các pháp ấy, vị ấy tùy quán là vô thường, là khổ, là bệnh, là mụt nhọt, là mũi tên, là va chạm, là tật bệnh, là khác lạ, là biến hoại, là trống không, là vô ngã. Vị ấy tránh né tâm mình khỏi những pháp ấy, sau khi tránh né tâm mình khỏi những pháp ấy, sau khi tránh né tâm khỏi những pháp ấy, vị ấy hướng dẫn đến giới bất tử: "Đây là tịch tịnh, đây là thù thắng, tức là sự chỉ tức tất cả hành, sự từ bỏ tất cả sanh y, sự diệt tận khát ái, ly tham, chứng đạt Niết-bàn".

"Staying right there, he reaches the ending of the mental effluents. Or, if not, then — through this very dhamma-passion, this very dhamma-delight, and from the total wasting away of the first five of the Fetters [self-identity views, grasping at precepts & practices, uncertainty, sensual passion, and irritation] — he is due to be reborn [in the Pure Abodes], there to be totally unbound, never again to return from that world.

[Similarly with the other levels of jhana up through the dimension of nothingness.]

AN 9.36

 

Vị ấy trú ở đây, đạt đến sự diệt tận các lậu hoặc. Nếu không diệt tận các lậu hoặc, với pháp ái ấy, với pháp hỷ ấy, do đoạn tận năm hạ phần kiết sử, vị ấy là vị hóa sanh, tại đấy chứng được Niết-bàn, không còn trở lui thế giới này nữa

 

AN 9.36

VIII. Discernment[go up]

 

VIII. Tuệ [go up]

 

Three types of discernment:

§ 57.
discernment that comes from listening (sutamaya-pañña)
discernment that comes from thinking (cintamaya-pañña)
discernment that comes from developing (bhavanamaya-pañña)
— DN 33

Có ba loại tuệ

Tuệ đến từ văn sanh tuệ
Tuệ đến từ tư sanh tuệ
Tuệ đến từ tu sanh tuệ

— DN 33

 

§ 58. "This is the way leading to discernment: when visiting a priest or contemplative, to ask: 'What is skillful, venerable sir? What is unskillful? What is blameworthy? What is blameless? What should be cultivated? What should not be cultivated? What, having been done by me, will be for my long-term harm & suffering? Or what, having been done by me, will be for my long-term welfare & happiness?'"

MN 135

 

Con đường đưa đến đầy đủ trí tuệ này thanh niên, tức là sau khi đi đến Sa-môn hay Bà-la-môn, không hỏi:"Thưa Tôn giả, thế nào là thiện? Thế nào là bất thiện? Thế nào là phạm tội? Thế nào là không phạm tội? Thế nào là cần phải thực hành? Thế nào là không cần phải thực hành? Tôi đã làm gì để phải không lợi ích và đau khổ lâu dài ? Hay tôi đã làm gì để được lợi ích và an lạc lâu dài?

MN 135

§ 59. "And what is the food for the arising of unarisen analysis of qualities as a factor for awakening, or for the growth & increase of analysis of qualities... once it has arisen? There are mental qualities that are skillful & unskillful, blameworthy & blameless, gross & refined, siding with darkness & with light. To foster appropriate attention to them: This is the food for the arising of unarisen analysis of qualities as a factor for awakening, or for the growth & increase of analysis of qualities... once it has arisen."

SN 46.51

Và này các Tỷ-kheo, cái gì là món ăn khiến cho trạch pháp giác chi chưa sanh được sanh khởi, hay trạch pháp giác chi đã sanh được tu tập, được làm cho viên mãn ? Có những pháp thiện và bất thiện, này các Tỷ-kheo, có những pháp có tội và không có tội, có những pháp liệt và thắng, có những pháp dự phần đen và trắng. Ở đây, nếu như lý tác ý được làm cho sung mãn, thời chính cái này là món ăn khiến cho trạch pháp giác chi chưa sanh được sanh khởi, hay trạch pháp giác chi đã sanh được tu tập, được làm cho viên mãn.

SN 46.51

§ 60. "And what is the right view that has effluents, sides with merit, & results in acquisitions? 'There is what is given, what is offered, what is sacrificed. There are fruits & results of good & bad actions. There is this world & the next world. There is mother & father. There are spontaneously reborn beings; there are priests & contemplatives who, faring rightly & practicing rightly, proclaim this world & the next after having directly known & realized it for themselves.' This is the right view that has effluents, sides with merit, & results in acquisitions.

 

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là chánh kiến hữu lậu, thuộc phước báo, đưa đến quả sanh y ? Có bố thí, có cúng dường, có tế tự, có quả báo các nghiệp thiện ác, có đời này, có đời khác, có mẹ, có cha, có các loại hóa sanh; ở đời có các vị Sa-môn, Bà-la-môn, chánh hướng, chánh hạnh, sau khi với thượng trí tự mình chứng đạt đời này và đời khác lại tuyên bố lên. Như vậy, này các Tỷ-kheo là chánh kiến hữu lậu, thuộc phước báo, đưa đến quả sanh y.

"And what is the right view that is without effluents, transcendent, a factor of the path? The discernment, the faculty of discernment, the strength of discernment, analysis of qualities as a factor for Awakening, the path factor of right view in one developing the noble path whose mind is noble, whose mind is free from effluents, who is fully possessed of the noble path. This is the right view that is without effluents, transcendent, a factor of the path...

 

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là chánh kiến thuộc bậc Thánh, vô lậu, siêu thế, thuộc đạo chi ? Phàm cái gì, này các Tỷ-kheo, thuộc trí tuệ, tuệ căn, tuệ lực, trạch pháp, giác chi, chánh kiến, đạo chi của một vị tu tập Thánh đạo, thành thục trong Thánh đạo, có vô lậu tâm, có Thánh tâm. Chánh kiến như vậy, này các Tỷ-kheo, thuộc bậc Thánh, vô lậu, siêu thế, thuộc đạo chi.

"And what is the right resolve that has effluents, sides with merit, & results in acquisitions? Being resolved on renunciation, on freedom from ill will, on harmlessness. This is the right resolve that has effluents, sides with merit, & results in acquisitions.

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là chánh tư duy hữu lậu, thuộc phước báo, đưa đến quả sanh y ? Ly dục tư duy, vô sân tư duy, bất hại tư duy, như vậy, này các Tỷ-kheo là chánh tư duy, hữu lậu, thuộc phước báo, đưa đến quả sanh y.

 

"And what is the right resolve that is without effluents, transcendent, a factor of the path? The thinking, directed thinking, resolve, mental absorption, mental fixity, focused awareness, & verbal fabrications in one developing the noble path whose mind is noble, whose mind is without effluents, who is fully possessed of the noble path. This is the right resolve that is without effluents, transcendent, a factor of the path.

 

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là chánh tư duy, thuộc bậc Thánh, vô lậu, siêu thế, thuộc đạo chi ? Phàm cái gì này các Tỷ-kheo thuộc suy tư, tầm cầu, tư duy, một ngữ hành do sự hoàn toàn chú tâm chuyên tâm của một vị tu tập Thánh đạo, thành thục trong Thánh đạo, có vô lậu tâm, có Thánh tâm; chánh tư duy như vậy, này các Tỷ-kheo, thuộc bậc Thánh, vô lậu, siêu thế, thuộc đạo chi.

"One tries to abandon wrong resolve & to enter into right resolve: This is one's right effort. One is mindful to abandon wrong resolve & to enter & remain in right resolve: This is one's right mindfulness. Thus these three qualities — right view, right effort, & right mindfulness — run & circle around right resolve."

MN 117

 

 

Ai tinh tấn đoạn trừ tà tư duy, thành tựu chánh tư duy, như vậy là chánh tinh tấn của vị ấy. Ai chánh niệm đoạn trừ tà tư duy, chánh đạt được và an trú chánh tư duy, như vậy là chánh niệm của vị ấy. Như vậy ba pháp này chạy theo, chạy vòng theo chánh tư duy, tức là chánh kiến, chánh tinh tấn, chánh niệm.

MN 117

 

 

 

§ 61. "And what is the faculty of discernment? There is the case where a monk, a disciple of the noble ones, is discerning, endowed with discernment of arising & passing away — noble, penetrating, leading to the right ending of stress. He discerns, as it has come to be: 'This is stress... This is the origination of stress... This is the cessation of stress... This is the path of practice leading to the cessation of stress.' This is called the faculty of discernment."

SN 48.10

 

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là tuệ căn?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử có trí tuệ, đầy đủ trí tuệ về sự sanh diệt các pháp, trí tuệ thuộc bậc Thánh thể nhập (các pháp), đưa đến chơn chánh đoạn tận khổ đau. Vị ấy như thật rõ biết đây là khổ, như thật rõ biết đây là khổ tập khởi, như thật rõ biết đây là khổ đoạn diệt, như thật rõ biết đây là con đường đưa đến khổ đoạn diệt. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là tuệ căn.

SN 48.10

§ 62.

When you see with discernment,
'All fabrications are inconstant'...
'All fabrications are stressful'...
'All phenomena are not-self' —
you grow disenchanted with stress.
This is the path
to purity.
— Dhp 277-279

Tất cả hành vô thường
Với tuệ quán liễu ngộ
Nhờ vậy yểm ly khổ
Ấy con đường thanh tịnh
Tất cả hành khổ não
Với tuệ quán liễu ngộ
Nhờ vậy yểm ly khổ
Ấy con đường thanh tịnh
Tất cả pháp vô ngã
Với tuệ quán liễu ngộ
Nhờ vậy yểm ly khổ
Ấy con đường thanh tịnh

9999

§ 63. "'Stress should be known. The cause by which stress comes into play should be known. The diversity in stress should be known. The result of stress should be known. The cessation of stress should be known. The path of practice for the cessation of stress should be known.

' Thus it has been said. Why was it said?

 

Này các Tỷ-kheo, cần phải biết khổ, cần phải biết khổ duyên khởi, cần phải biết khổ sai biệt, cần phải biết khổ dị thục, cần phải biết khổ đoạn diệt, cần phải biết con đường đưa đến khổ đoạn diệt.

"Birth is stressful, aging is stressful, death is stressful; sorrow, lamentation, pain, distress, & despair are stressful; association with what is not loved is stressful, separation from what is loved is stressful, not getting what is wanted is stressful. In short, the five aggregates for sustenance are stressful.

 

Sanh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ, sầu bi khổ khổ ưu não là khổ, ghét phải gần là khổ, thương phải xa là khổ, cầu không được là khổ, tóm lại năm thủ uẩn là khổ.

"And what is the cause by which stress comes into play? Craving is the cause by which stress comes into play.

 

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là khổ sanh khởi ? Ái, này các Tỷ-kheo, là khổ sanh khởi.

"And what is the diversity in stress? There is major stress & minor, slowly fading & quickly fading. This is called the diversity in stress.

 

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là khổ sai biệt ? Này các Tỷ-kheo có khổ lớn, có khổ nhỏ, có khổ chậm biến, có khổ mau biến. Này các Tỷ-kheo, đây là khổ sai biệt.

"And what is the result of stress? There are some cases in which a person overcome with pain, his mind exhausted, grieves, mourns, laments, beats his breast, & becomes bewildered. Or one overcome with pain, his mind exhausted, comes to search outside, 'Who knows a way or two to stop this pain?' I tell you, monks, that stress results either in bewilderment or in search.

 

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là khổ dị thục ? Này các Tỷ-kheo, ở đây có hạng người bị khổ chinh phục, tâm bị trói buộc, ưu sầu, bi thảm, than van, đập ngực, khóc lóc, đi đến bất tỉnh ; do bị khổ chinh phục, tâm bị trói buộc, nên đi tìm phía bên ngoài xem có ai biết được một câu, hai câu thần chú đề đoạn diệt khổ này. Này các Tỷ-kheo, Ta tuyên bố rằng khổ đem lại kết quả mê loạn, đem lại kết quả tìm kiếm. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là khổ dị thục.

"And what is the cessation of stress? From the cessation of craving is the cessation of stress; and just this noble eightfold path is the path of practice leading to the cessation of stress: right view, right aspiration, right speech, right action, right livelihood, right effort, right mindfulness, right concentration.

AN 6.63

 

 

 

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là khổ đoạn diệt ? Ái đoạn diệt, này các Tỷ-kheo, là khổ đoạn diệt. Đây là Thánh đạo tám ngành đưa đến khổ đoạn diệt. Đó là chánh kiến,chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định.

AN 6.63

§ 64. Kaccayana: 'Lord, "Right view, right view," it is said. To what extent is there right view?'

.

"Chánh kiến, chánh kiến", bạch Thế Tôn được nói đến như vậy. Bạch Thế Tôn, cho đến như thế nào là chánh kiến?

The Buddha: 'By & large, Kaccayana, this world is supported by (takes as its object) a polarity, that of existence & non-existence. But when one sees the origination of the world as it actually is with right discernment, "non-existence" with reference to the world does not occur to one. When one sees the cessation of the world as it actually is with right discernment, "existence" with reference to the world does not occur to one.

 

Này Kaccàyana, thế giới này phần lớn y chỉ vào hai cực đoan này: có và không có. Này Kaccàyana, ai với chánh trí tuệ thấy như chơn thế giới tập khởi, vị ấy không chấp nhận thế giới là không có. Này Kaccàyana, ai với chánh trí tuệ thấy như chơn thế giới đoạn diệt, vị ấy không chấp nhận thế giới là có.

'By & large, Kaccayana, this world is in bondage to attachments, clingings (sustenances), & biases. But one such as this does not get involved with or cling to these attachments, clingings, fixations of awareness, biases, or latent tendencies; nor is he resolved on "my self." He has no uncertainty or doubt that, when there is arising, only stress is arising; and that when there is passing away, stress is passing away. In this, one's knowledge is independent of others. It is to this extent, Kaccayana, that there is right view.'

SN 12.15

 

Này Kaccàyana, chấp thủ phương tiện và bị thiên kiến trói buộc, phần lớn thế giới này là vậy. Và ai với tâm không trú trước, chấp thủ phương tiện ấy, không chấp thủ thiên chấp tùy miên ấy, không có chấp trước, không trú trước, vị ấy không có nghĩ: "Đây là tự ngã của tôi". Khi khổ sanh thời xem là sanh, khi khổ diệt thời xem là diệt; vị ấy không có nghi ngờ, không có phân vân, không duyên vào ai khác, trí ở đây là của vị ấy. Cho đến như vậy, này Kaccàyana là chánh tri kiến.

SN 12.15

 Chủ biên và điều hành: TT Thích Giác Đẳng.

Những đóng góp dịch thuật xin gửi về TT Thích Giác Đẳng tại giacdang@phapluan.com
Cập nhập ngày: Thứ Sáu 08-11-2006

Kỹ thuật trình bày: Minh Hạnh & Thiện Pháp

Trang trước | Trang kế| trở về đầu trang | Home page |