A quick glance through the pages of the Pali Text Society's publications catalog should be enough to convince anyone that there is much more to classical Pali literature than the Tipitaka alone. Intermingled with the familiar Nikayas, Vinaya texts, and Abhidhamma are scores of titles with long, scarcely-pronounceable Pali names. Although many western students of Buddhism may be unacquainted with these works (indeed, most have never been translated into English), these books have for centuries played a crucial role in the development of Buddhist thought and practice across Asia and, ultimately, the West. In fact, in some countries they are as deeply treasured as the suttas themselves. But what are these ancient books, and what relevance do they have to the western student of Buddhism in the 21st century? Although complete answers to these questions lie well beyond the range of my abilities, I hope that this short document will provide enough of a road map to help orient the interested student as he or she sets out to explore this vast corpus of important Buddhist literature.

This article is in two parts. The Introduction provides historical background to the texts and offers some thoughts on why these texts are so valuable to the Theravada tradition. The Field Guide is essentially an annotated table of contents, in which I borrow heavily from a variety of sources to describe each text.

Thoáng nhìn qua những bản mục lục của hội Pali Text Society's cũng đủ để thuyết phục những ai rằng ở đó có rất nhiều văn học cổ điển Pali hơn bộ Tam Tạng Thánh điển. Cùng với những bộ Kinh (Nikayas) Bộ Tạng Luật (Vinaya Texts), và Bộ Vi Diệu Pháp (Abhidhamma) là những nhan đề dài giòng, rất khó phát âm theo ngôn ngữ Pali. Nhiều học viên Phật giáo Tây Phương có thể không quen thuộc với những chữ này. Thật vậy, hầu hết đã không được chuyển dịch sang Anh ngữ), những sách này đã có hàng thế kỷ cùng với sự phát triển của Phật giáo xuyên qua vùng Châu Á, và cuối cùng phát triển tại Tây Phương. Thật sự thì trong một vài quốc gia những cuốn sách này trở lên qúi giá như là kinh điển. Nhưng trong thế kỷ thứ 21st thì những loại sách cổ điển này có sự thích hợp nào cho những học viên Tây Phương? Mặc dầu câu trả lời đầy đủ cho những câu hỏi này nằm trong phạm vi giới hạn trong khả năng của tôi, tôi hy vọng rằng với tài liệu ngắn này sẽ cung cấp như là một hoạ đồ hướng dẫn những học viên nào có sự quan tâm đến sự phát triển của sự quan trọng văn học Phật Giáo .

Bài viết này có hai phần. Phần giới thiệu (Introduction) cung cấp các sử liệu cho những bài giảng và những y' kiến là tại sao những bài pháp này lại có giá trị đến truyền thống Phật Giáo Nguyên Thủy. Phần hướng dẫn (Field Guide) là phần cơ bản chú giải các mục lục mà tôi đã mượn từ nơi xuất xứ (sources) để diễn tả mỗi bài viết.

The Tipitaka (Pali canon) assumed its final form at the Third Buddhist Council (ca. 250 BCE) and was first committed to writing sometime in the 1st c. BCE. Shortly thereafter Buddhist scholar-monks in Sri Lanka and southern India began to amass a body of secondary literature: commentaries on the Tipitaka itself, historical chronicles, textbooks, Pali grammars, articles by learned scholars of the past, and so on. Most of these texts were written in Sinhala, the language of Sri Lanka, but because Pali — not Sinhala — was the lingua franca of Theravada, few Buddhist scholars outside Sri Lanka could study them. It wasn't until the 5th c. CE, when the Indian monk Buddhaghosa began the laborious task of collating the ancient Sinhala commentaries and translating them into Pali, that these books first became accessible to non-Sinhala speakers around the Buddhist world. These commentaries (Atthakatha) offer meticulously detailed explanations and analyses — phrase-by-phrase and word-by-word — of the corresponding passages in the Tipitaka.

Thánh Điển Tam Tạng (Pali canon)được coi là bổn cuối cùng sau lần kết tập tại Hội Đồng Tăng Già lần thứ Ba (ca. 250 BCE) và lần đầu tiên dùng chữ viết vào khoảng năm thứ 1st c. BCE. Sau đó không lâu những học giả Tăng sĩ Tích Lan và miền nam Ấn Độ bắt đầu góp nhặt bản văn phụ lục: Chú giải kinh điển Tam Tạng, ghi chép những sử kiện đã xảy ra, sách giáo khoa,văn phạm Pali, những bài viết bởi các vị học giả uyên bác trong quá khứ v.v... Hầu hết những bài viết này bằng ngôn ngữ Sinhala, một thứ ngôn ngữ của Tích Lan, có rất ít vị học giả Phật Giáo bên ngoài xứ Tích Lan có thể học. Vì ngôn ngữ Pali đã là ngôn ngữ của kinh điển Phật Giáo Nguyên Thủy. Cho đến thế kỷ thứ 5th c. CE, khi vị Tăng sĩ Ấn Độ là Ngài Buddhaghosa bắt đầu cần cù làm công việc lđối chiếu các bản chú giải cổ ngữ Sinhala và dịch sang ngôn ngữ Pali, đó là những cuốn sách đầu tiên bắt đầu ảnh hưởng tới những người Phật tử không nói ngôn ngữ Sinhala trên thế giới. Những bản chú giải này (Atthakatha) cung cấp kỹ càng những giải thích và phân tích từng đoạn từng chữ tương hợp với đường lối của Thánh điển Tam Tạng .

After Buddhaghosa the catalog of post-canonical Pali literature continued to grow with the addition of commentaries by both Buddhadatta (5th c.) and Dhammapala (6th c.), and sub-commentaries (Tika) by Dhammapala on several of Buddhaghosa's Atthakathas. During this time, and in the centuries that followed, other writers prepared Pali translations of additional early Sinhala texts. These ranged from poetic hymns in celebration of the Buddha, to chronicles tracing the first millennium of Buddhist history, to detailed Abhidhamma textbooks. Most of the major post-canonical works, including the sub-commentaries, were completed by the 12th c.

Sau khi bản liệt kê mục lục của Ngài Buddhaghosa những bài văn Pali được liệt kê là kinh điển được tiếp tục phát triển với nhiều bài chú giải do Buddhadatta (5th c.) và Dhammapala (6th c.), và những bản phụ lục của bản chú giải ((Tika) do Dhammapala trên nhiều bản chú giải của Ngài Buddhaghosa's Atthakathas. Trong thời gian này, và trong nhiều thế kỷ sau đó, những tác giả khác chuẩn bị dịch ngôn ngữ những bản viết bằng ngôn ngữ Sinhal sang ngôn ngữ Pali. Những loại này được xếp loại từ những bài thánh ca trong các buổi lễ của Đức Phật, tới Sử ký niên đại truy tìm chi tiết mười thế kỷ đầu tiên lịch sử của Phật giáo những sách viết về Vi Diệu Pháp . Phần lớn những bài được coi là kinh điển Pali và những bản phụ lục chú giải được hoàn thành vào thế kỷ thứ 12th c.

Why these texts matter

Post-canonical Pali literature supplements the Tipitaka in several important ways. First, the chronicles and commentaries provide a vital thread of temporal continuity that links us, via the persons and historical events of the intervening centuries, to the Tipitaka's world of ancient India. A Tipitaka without this accompanying historical thread would forever be an isolated anachronism to us, its message lost in clouds of myth and fable, its pages left to gather dust in museum display cases alongside ancient Egyptian mummies. These texts remind us that the Dhamma is not an artifact but a practice, and that we belong to a long line of seekers who have endeavored, through patient practice, to keep these teachings alive.

Tại sao những văn bản này là vấn đề

Hậu văn học kinh điển Pali (Post-canonical Pali literature) được bổ sung cho Tam Tạng Thánh Điển trong một số cách quan trọng. Thứ nhất, các biên niên sử và các chú giải đưa ra một chuỗi quan trọng của sự liên tục theo thời gian điều đó kết hợp chúng ta, qua con người và các sự kiện xảy ra giữa các thế kỷ, vào thế giới Tam Tạng Thánh Điển của thời cổ đại Ấn Độ. Tam Tạng Thánh Điển không có kèm theo những chứng tích lịch sử sẽ luôn luôn là một sự thiếu xót duy nhất đối với chúng ta, ý nghĩa của nó bị mất trong huyền thoại và truyền thuyết,kỷ nguyên của nó đã để cho bụi thời gian phủ lên trong các viện bảo tàng trưng bày bên cạnh xác ướp Ai Cập Cổ Đại.Những bản kinh này nhắc nhở chúng ta rằng Phật Pháp không phải là một hiện vật mà là một sự tu tập, và chúng ta là những người cố gắng tìm kiếm lâu dài, thông qua sự tu tập kiên nhẫn, để giữ những lời dạy đó tồn tại.

Second, almost everything we know today about the early years of Buddhism comes to us from these post-canonical books. Though the archaeological evidence from that era is scant and the Tipitaka itself contains only a handful of passages describing events that followed the Buddha's death,[1] the commentaries and chronicles contain a wealth of historical information with which we are able to partially reconstruct the early history of Buddhism. The texts illuminate a host of important historical events and trends: how the Tipitaka came to be preserved orally; when it was first written down, and why; how the Tipitaka came close to extinction; how the Buddha's teachings spread across south Asia; how and when the various schools and factions within Buddhism arose; and so on. But these are not just idle concerns for the amusement of academicians. Any practitioner, of any century, stands to benefit from understanding how the early Buddhists lived, how they put the Buddha's teachings into practice, what challenges they faced; we stand to learn from those who have gone before. And there are other lessons to be learned from history. For example, knowing that it was the actions of just a few individuals that averted the extinction of the Tipitaka[2] reminds us that it is ultimately up to individuals like ourselves to safeguard the teachings today. Without the post-canonical texts important lessons like these — if not the Tipitaka itself — might have been lost forever to the mists of time.

Điều thứ hai, hầu như mọi thứ chúng ta biết ngày hôm nay về những năm đầu của Đạo Phật đến với chúng ta từ những quyển sách hậu kinh điển này.Mặc dù các di tích khảo cổ học từ kỷ nguyên đó là rất hiếm và ngay cả Tam Tạng Thánh Điển cũng chỉ ghi một số đoạn chi tiết miêu tả các sự kiện sau khi Đức Phật nhập Niết-Bàn, [1] những bài chú giảinhững bản biên niên sử chứa đựng rất nhiều thông tin lịch sử mà chúng ta có thể ghi lại một phần vào thời kỷ đầu lịch sử Phật giáo. Các văn bản minh họa một loạt các sự kiện lịch sử quan trọng và các khuynh hướng: làm thế nào Tam Tạng Thánh Điển đã được duy trì bằng miệng; khi nào được viết ra đầu tiên, và tại sao; làm thế nào Tam Tạng Thánh Điển gần bị tiêu hủy; như thế nào những lời dạy của Đức Phật lan truyền khắp Nam Á; làm thế nào và khi nào các trường phái và phe phái khác nhau trong Phật giáo phát sanh; v.v...Nhưng điều đó không chỉ là những lo lắng vô ích để tiêu khiển của những nhà học giả. Mà bất kỳ người tu theo Phật của bất cứ thế kỷ nào cũng có thể hưởng lợi từ sự hiểu biết của các Phật tử thời kỳ tiên khởi, họ đã đưa những lời dạy của Đức Phật vào sự tu hành, những thách thức họ phải đối mặt; chúng ta phải học hỏi từ những người đã đi trước. Và có những bài học khác được rút ra từ lịch sử.Thí dụ, biết rằng đó là hành động của một vài cá nhân đã đẩy lui sự hủy diệt của Tam Tạng Thánh Điển [2] nhắc nhở chúng ta rằng cuối cùng là với những cá nhân như chúng ta bảo vệ giáo lý ngày hôm nay. Nếu không có những văn bản hậu kinh điển, những bài học quan trọng như thế này - nếu không phải chính Tam Tạng Thánh Điển - có thể đã bị biến mất mãi mãi trong chốc lát của thời đại.

Third, these texts — particularly the commentaries — help us make sense of the suttas and give us clues about their context that we might otherwise miss. For example, the famous Satipatthana Sutta (MN 10) is popularly cited today as evidence that all one needs to achieve Awakening is a week or two of unrelenting mindfulness practice. But the commentary (Papañcasudani) suggests another viewpoint. It explains that the Buddha's audience for this particular discourse (the villagers of Kammasadammam) were already well established in their practice of mindfulness and virtue. They were not coming to meditation practice "cold" but were, in fact, unusually well prepared to receive this deep teaching — a point not apparent from the text of the sutta itself. The commentary thus reminds us that there are some important fundamentals to be developed before one undertakes intensive meditation practice.

Thứ ba, những văn bản này - đặc biệt là các bài sớ giải - giúp chúng ta có ý thức về kinh điển và cho chúng ta những manh mối về bối cảnh mà chúng ta có thể bỏ sót. Ví dụ, Kinh Niệm Xứ - Sutta Satipatthana nổi tiếng (MN 10) được phổ biến ngày nay như là bằng chứng cho thấy tất cả mọi người đạt được giác ngộ trong một hoặc hai tuần tu tập chánh niệm liên tục. Nhưng tập sớ giải (Papañcasudani) đưa ra một quan điểm khác. Tập sớ giải cho rằng những người nghe bài thuyết pháp đặc biệt này của Đức Phật (dân làng Kammasadammam) đã được tu tập chánh niệm và giới hạnh thuần thục .Họ đã không đến tu thiền “với thái độ thờ ơ, thiếu chuẩn bị” nhưng thật ra, khác với bình thường họ đã chuẩn bị thật kỹ càng để tiếp nhận môn học cao thâm này – một điểm không ghi rõ ràng trong văn bản của bộ kinh. Do đó lời bình luận nhắc nhở chúng ta rằng có những nguyên tắc căn bản quan trọng cần được thực thi trước khi một người dấn thân vào việc tu thiền một cách nghiêm chỉnh.

Finally, the commentaries often contain magnificent stories to illustrate and amplify upon points of Dhamma that are made in the suttas. For example, Dhp 114 takes on a much richer meaning in light of the commentary's background story — the famous parable of Kisagotami and the mustard seed.[3] Commentarial stories like this one (and there are many more) offer valuable Dhamma teachings in their own right.

Cuối cùng, những bài sớ giải thường bao gồm những câu chuyện đẹp để minh họa và mở rộng các điểm đặc biệt của Pháp được thể hiện trong các kinh điển. Chẳng hạn, kệ ngôn 114 kinh Pháp Cú có ý nghĩa phong phú hơnChẳng hạn, kệ ngôn 114 kinh Pháp Cú có ý nghĩa phong phú hơn trong sự hiểu biết về câu đằng sau của sớ giải - câu chuyện ngụ ngôn nổi tiếng của bà tín nữ Kisagotami và hạt cải mù tạc. [3] Những bài sớ giải như thế (và có nhiều hơn nữa) đã đưa ra những giáo lý có giá trị về giáo pháp theo ý riêng của họ.

The authority of the texts

One might reasonably wonder: how can a collection of texts written a thousand years after the Buddha's death possibly represent his teachings reliably? How can we be sure they aren't simply derivative works, colored by a host of irrelevant cultural accretions? First of all, although many of these texts were indeed first written in Pali a thousand years after the Buddha, most Sinhala versions upon which they were based were written much earlier, having themselves been passed down via an ancient and reliable oral tradition. But (one might object) mustn't those early texts themselves be suspect, since they are based only on hearsay? Perhaps, but by this argument we should reject the entire oral tradition — and hence the entire Tipitaka itself, which similarly emerged from an oral tradition long after the Buddha's death. Surely that is taking things too far.

Sự đáng tin của các tập sớ giải

Người ta có thể tự hỏi một cách hợp lý: làm sao có thể các bản kinh thu nhặt được viết ra một ngàn năm sau khi Đức Phật viên tịch có thể đại diện cho lời dạy của Ngài một cách đáng tin cậy?Làm thế nào chúng ta có thể chắc chắn rằng chúng chỉ đơn giản là các công trình sao chép, được tô màu bởi một loạt các sự bổ sung văn hóa không thích đáng? Trước hết, mặc dù nhiều bản kinh này thực sự được viết bằng tiếng Pali một ngàn năm sau Đức Phật, trong lúc hầu hết các phiên bản tiếng Sinhala được viết sớm hơn, được truyền lại qua truyền thống lâu đời và bằng cách truyền khẩu đáng tinh cậy.Nhưng (người ta có thể phản đối) không phải những bản kinh đầu tiên đó bị nghi ngờ, vì chúng chỉ dựa trên sự nghe lại? Có lẽ, bằng cách lập luận này, chúng ta nên từ chối truyền thống truyền khẩu - và do đó toàn bộ Tam Tạng Thánh Điển, cái mà tương tự như xuất phát từ truyền thống truyền khẩu sau cái chết của Đức Phật rất lâu. Chắc chắn đó là điều đi quá xa.

But what of the credentials of the commentators themselves: can their words be trusted? In addition to living a monastic life immersed in Dhamma, the compilers of the commentaries possessed unimpeachable literary credentials: intimate acquaintance with the Tipitaka, mastery of the Pali and Sinhala languages, and expert skill in the art of careful scholarship. We have no reason to doubt either their abilities or the sincerity of their intentions.

Nhưng những học vị của chính các nhà chú giải là gì: liệu những lời của họ có đáng tin không? Ngoài việc sống một đời sống trong tu viện miệt mài trong Giáo Pháp, những người biên soạn các sớ giải có những chứng chỉ văn chương không thể bác bỏ: sự hiểu biết sâu sắc về Tam Tạng Thánh Điển, sự tinh thông ngôn ngữ Pali và Sinhala, và kỹ năng chuyên môn trong lãnh vực tinh xảo của sự uyên bác cẩn trọng. Chúng ta không có lý do gì để nghi ngờ khả năng của họ hoặc mục đích chân thành của họ.

And what of their first-hand understanding of Dhamma: if the commentators were scholars first and foremost, would they have had sufficient meditative experience to write with authority on the subject of meditation? This is more problematic. Perhaps commentators like Buddhaghosa had enough time (and accumulated merit) both for mastering meditation and for their impressive scholarly pursuits; we will never know. But it is noteworthy that the most significant discrepancies between the Canon and its commentaries concern meditation — in particular, the relationship between concentration meditation and insight.[4] The question of the authority of the post-canonical texts thus remains a point of controversy within Theravada Buddhism.

Và sự hiểu biết đầu tiên của họ về Phật Pháp là gì: nếu như các nhà chú giải trước hết là những học giả cơ bản và lỗi lạc, liệu họ có đủ kinh nghiệm tu tập thiền để viết các tài liệu đáng tin về các chủ đề tu tập thiền không? Đây là vấn đề cần bàn lại nhiều. Có lẽ các nhà học giả như Ngài Buddhaghosa đã có đủ kinh nghiệm (và tích lũy công trạng) cả cho thiền định và cho những công việc theo đuổi uyên thâm gây ấn tượng sâu sắc của họ; chúng ta sẽ không bao giờ biết. Nhưng đáng lưu ý rằng sự khác biệt đáng kể nhất giữa Kinh Điển và các bài chú giải liên quan đến thiền định - Điểm đặc biệt, sự liên hệ giữa thiền định và tuệ giác [4]. Câu hỏi về sự đáng tin của những tác phẩm hậu tác kinh điển Pali vẫn là một điểm tranh cãi trong Phật giáo Theravada.

It is important to remember that the ultimate function of the post-canonical texts is — like that of the Tipitaka itself — to assist the student in the quest for nibbana, the highest goal of Buddhist practice. Concerns about authorship and authority recede when the texts are subjected to the same healthy skeptical attitude and empirical approach that should be familiar to every student of the suttas. If a commentary sheds light on a murky corner of a sutta or helps us understand a subtle point of Vinaya or of Abhidhamma, or if the chronicles remind us that we hold the future history of Dhamma in our hands, then to that extent they help us clear the path ahead. And if they can do even that much, then — no matter who wrote them and from whence they came — these texts will have demonstrated an authority beyond reproach.[5]

Điều quan trọng cần nhớ là nhiệm vụ cơ bản của những tác phẩm hậu tác Pali là - thật đúng như chính Tam Tạng Thánh Điển Pali - để hỗ trợ các hành giả trong việc chứng đạt Niết-bàn, mục tiêu tối hậu của việc tu tập Phật giáo. Sự quan tâm về nguồn tác giả và quyền tác giả sẽ giảm dần khi các bài viết chủ thể cùng quan điểm nghi vấn lành mạnh và cách tiếp cận thực nghiệm kinh điển quen thuộc với mọi hành giả.Nếu một bài sớ giải chỉ điểm rõ ràng những điểm khó hiểu của một bài kinh hoặc giúp chúng ta hiểu được một điểm tinh vi của tạng Luật hay của tạng A Tỳ Đàm, hoặc nếu các niên đại nhắc nhở chúng ta rằng chúng ta giữ gìn lịch sử Giáo Pháp trong tay chúng ta, thì đến mức đó chúng sẽ giúp chúng ta thấy rõ đường đi phía trước. Và nếu những sớ giải có thể làm được những điều đó, thì bất kể ai đã viết và từ nguồn gốc từ đâu - những sớ giải này sẽ chứng minh được là một tài liệu có thể làm căn cứ đáng tin không còn nghi ngại. [5]

A Field Guide

In the following guide, I have arranged the most popular post-canonical titles thematically and by date (Common Era). Authors' names are followed by the date of authorship (if known). The authors of these texts were all monks, but for the sake of concision, I have dropped the honorific "Ven." from their names. Each non-commentarial title is followed by a brief description. Many of these descriptions were lifted verbatim from other sources (see Sources, below). Page numbers from these sources are given in the braces {}. Most of these titles have been published in romanized Pali by the Pali Text Society (PTS); the few for which English translations are available are noted with a dagger (†), followed by the translator, date of translation, and publisher.

Phần Hướng Dẫn

Trong phần hướng dẫn sau đây, tôi đã sắp xếp hầu hết những tác phẩm hậu tác Pali theo chủ đề tiêu đề phổ biến nhất và theo ngày (Kỷ nguyên Chung). Tên tác giả được sắp theo sau ngày của nguồn (nếu biết). Các tác giả của các bài sớ giải này đều là các nhà sư, nhưng với mục đích tôn trọng, tôi đã dùng từ tôn kính "Ven." trong tên của các Ngài. Mỗi tiêu đề không thuộc sớ giải thì được diễn tả ngắn gọn. Nhiều trong số những mô tả này đã được gỡ bỏ hoàn toàn từ các nguồn khác (xem Sources ở dưới). Các số trang từ các nguồn này được đưa để trong ngoặc {}. Hầu hết các tiêu đề này đã được xuất bản bằng Pali bởi Pali Text Society (PTS); một số bản dịch tiếng Anh có sẵn được ghi chú với dấu (†), tiếp đến là dịch giả, ngày dịch và nhà xuất bản.

For the purposes of this guide, the post-canonical texts may be grouped into the following categories:

Do mục đích của hướng dẫn này, các tác phẩm hậu tác có thể được nhóm lại thành các loại sau:

Commentaries and Sub-commentaries

Source Text Commentary (Atthakatha) Subcommentary (Tika)
VINAYA PITAKA Samantapasadika (Buddhaghosa; 5th c.) Vajirabuddhi-tika (Vajirabuddhi; 11-12th c.)
Saratthadipani (Sariputta; 12th c.)
Vimativinodani (Mahakassapa of Cola; 12th c.)

Sớ Giải và Hậu Sớ Giải

Nguồn_Gốc_Kinh Sớ_Giải (Atthakatha) Hậu_Sớ_Giải (Tika)
TẠNG_LUẬT Sớ giải về luật Tỳ Khưu (Buddhaghosa; 5th c.) Vajirabuddhi-tika (Vajirabuddhi; 11-12th c.)
Saratthadipani (Sariputta; 12th c.)
Vimativinodani (Mahakassapa of Cola; 12th c.)

Patimokkha Kankhavitarani (Buddhaghosa; 5th c.) Vinayatthamañjusa (Buddhanaga; 12th c.)

Giới_Bổn_Tỳ_Kheo Sớ giải về Giới Pháp (Buddhaghosa; 5th c.) Vinayatthamañjusa (Buddhanaga; 12th c.)

SUTTA PITAKA
  Digha Nikaya Sumangalavilasini (Buddhaghosa; 5th c.) Dighanikaya-tika (Dhammapala; 6th c.)

TẠNG KINH
  Kinh_Trường_Bộ Kinh Trường Bộ Sớ Giải (Buddhaghosa; 5th c.) Dighanikaya-tika (Dhammapala; 6th c.)

  Majjhima Nikaya Papañcasudani (Buddhaghosa; 5th c.) Majjhimanikaya-tika (Dhammapala; 6th c.)

  Kinh_Trung_Bộ Sớ Giải Majjhimànikàya (Buddhaghosa; 5th c.) Majjhimanikaya-tika (Dhammapala; 6th c.)

  Samyutta Nikaya Saratthappakasini (Buddhaghosa; 5th c.) Samyuttanikaya-tika (Dhammapala; 6th c.)

  Kinh_Tương_Ưng Sớ Giải Samyutta (Buddhaghosa; 5th c.) Samyuttanikaya-tika (Dhammapala; 6th c.)

  Anguttara Nikaya Manorathapurani (Buddhaghosa; 5th c.) Saratthamañjusa-tika (Sariputta; 12th c.)

  Tăng_Chi_Bô Sớ Giải Anguttara (Buddhaghosa; 5th c.) Saratthamañjusa-tika (Sariputta; 12th c.)

  Khuddaka Nikaya
  Khuddakapatha Paramatthajotika (I) (Buddhaghosa; 5th c.) -

  Kinh Tiểu Bộ
  Tiểu Tụng Paramatthajotika (I) (Buddhaghosa; 5th c.) -

  Dhammapada Dhammapada-atthakatha (Buddhaghosa; 5th c.) †(E.W. Burlingame, 1921, PTS) -

  Pháp_Cú Dhammapada-atthakatha (Buddhaghosa; 5th c.) †(E.W. Burlingame, 1921, PTS) -

  Udana Paramatthadipani (I)/Udana-atthakatha
(Dhammapala; 6th c.)
-

  Kinh_Phật_Tự_Thuyết Paramatthadipani (I)/Udana-atthakatha
(Dhammapala; 6th c.)
-

  Itivuttaka Paramatthadipani (II)/Itivuttaka-atthakatha (Dhammapala; 6th c.) -

  Phật_Thuyết_Như_Vậy Paramatthadipani (II)/Itivuttaka-atthakatha (Dhammapala; 6th c.) -

  Suttanipata Paramatthajotika (II)/Suttanipata-atthakatha (Buddhaghosa; 5th c.) -

  Kinh_Tập Paramatthajotika (II)/Suttanipata-atthakatha (Buddhaghosa; 5th c.) -

  Vimanavatthu Paramatthadipani (III)/Vimanavatthu-atthakatha (Dhammapala; 6th c.) -

  Thiên_Cung_Sự Paramatthadipani (III)/Vimanavatthu-atthakatha (Dhammapala; 6th c.) -

  Petavatthu Paramatthadipani (IV)/Petavatthu-atthakatha (Dhammapala; 6th c.) -

  Ngã_Qủi_Sự Paramatthadipani (IV)/Petavatthu-atthakatha (Dhammapala; 6th c.) -

  Theragatha Paramatthadipani (V)/Theragatha-atthakatha (Dhammapala; 6th c.) -

  Trưởng_Lão_Tăng_Kệ Paramatthadipani (V)/Theragatha-atthakatha (Dhammapala; 6th c.) -

  Therigatha Paramatthadipani (VI)/Therigatha-atthakatha (Dhammapala; 6th c.) -

  Trưởng_Lão_Ni_Kệ Paramatthadipani (VI)/Therigatha-atthakatha (Dhammapala; 6th c.) -

  Jataka Jatakatthavannana/Jataka-atthakatha (Buddhaghosa; 5th c.) †(various, 1895, PTS) -

  Truyện Tiền Thân Jatakatthavannana/Jataka-atthakatha (Buddhaghosa; 5th c.) †(various, 1895, PTS) -

  Niddesa Sadhammapajotika (Upasena; 5th c.) -

  Nghĩa Tích Sadhammapajotika (Upasena; 5th c.) -

  Patisambhidamagga Sadhammappakasini (Mahanama; 6th c.) -

  Vô Ngại Giải Sadhammappakasini (Mahanama; 6th c.) -

  Apadana Visuddhajanavilasini (unknown) -

  Sự Nghiệp Anh Hùng Visuddhajanavilasini (unknown) -

  Buddhavamsa Madhuratthavilasini (Buddhadatta; 5th c.) †(I.B. Horner, 1978, PTS) -

  Phật_Sử Madhuratthavilasini (Buddhadatta; 5th c.) †(I.B. Horner, 1978, PTS) -

  Cariyapitaka Paramatthadipani (VII)/Cariyapitaka-atthakatha (Dhammapala; 6th c.) -

  Sở_Hạnh_Tạng Paramatthadipani (VII)/Cariyapitaka-atthakatha (Dhammapala; 6th c.) -

  Nettipakarana
Petakopadesa
Milindapañha
No commentaries exist for these books, which appear only in the Burmese edition of the Tipitaka. See Nettipakarana, Petakopadesa, and Milindapañha, below.

  Nettipakarana
Petakopadesa
Mi Tiên Vấn Đáp
Không có Sớ Giải cho những cuốn sách này, chỉ có ấn bản của Miến Điện của Tam Tạng Thánh Điện . XemNettipakarana, Petakopadesa, và Milindapañha, bên dưới.


ABHIDHAMMA PITAKA
  Dhammasangani Atthasalini (Buddhaghosa; 5th c.) †(Pe Maung Tin, 1920, PTS) Linatthapada-vannana (Ananda Vanaratanatissa; 7-8th c.)


TẠNG VI DIỆU PHÁP
  Bộ_Pháp_Tụ Atthasalini (Buddhaghosa; 5th c.) †(Pe Maung Tin, 1920, PTS) Linatthapada-vannana (Ananda Vanaratanatissa; 7-8th c.)


  Vibhanga Sammohavinodani (Buddhaghosa; 5th c.) †(U Narada, 1962, PTS) -


  Bộ_Phân_Tích Sammohavinodani (Buddhaghosa; 5th c.) †(U Narada, 1962, PTS) -


  Katthavatthu
Puggalapaññatti
Dhatukatha
Yamaka
Patthana
Pañcappakaranatthakatha (Buddhaghosa; 5th c.). This commentary covers all five books. English translations exist for the portions concerning the Katthavatthu †(B.C. Law, 1940, PTS), Dhatukatha †(U Narada, 1962, PTS), and Patthana †(U Narada, 1969, PTS) -
-
-
-
-


  Bộ_Ngữ_Tông
Bộ_Nhân_Chế_Định
Bộ-_Chất_Ngữ
Bộ_Song_Đối
Bộ_Vị_Chí
Pañcappakaranatthakatha (Buddhaghosa; 5th c.). This commentary covers all five books. English translations exist for the portions concerning the Katthavatthu †(B.C. Law, 1940, PTS), Dhatukatha †(U Narada, 1962, PTS), and Patthana †(U Narada, 1969, PTS) -
-
-
-
-

Quasi-canonical Texts

  • Nettipakarana and Petakopadesa (Mahakaccayana?; circa 1st c.?). "The Book of Guidance" and "Instruction on the Pitaka," respectively. These books are introductions to the teachings of Buddhism. The source material derives directly from the Sutta Pitaka. {HPL pp. 100,117-18} These two books appear in the Khuddaka Nikaya of the Burmese Tipitaka (but not in the Thai or Sri Lankan). †(Ñanamoli, 1962 & 1964, PTS)
  • Milindapañha (author unknown; beginning of the Common Era). "Questions of Milinda." A record of the dialogues between King Milinda (the Bactrian Greek king Menander, r. 2nd c. BCE, who ruled over much of what is now Afghanistan) and the elder monk Nagasena concerning key points of Buddhist doctrine. {QKM p. 4} The text was probably based on a Sanskrit work composed around the beginning of the Common Era, and was translated into Pali in Sri Lanka before the 4th c. CE; some additions were probably made later. {PLL p. 26 ¶20; HPL p. 94} This book appears in the Khuddaka Nikaya of the Burmese Tipitaka (but not in the Thai or Sinhala). First translated into Sinhala in 1777. †(I.B. Horner, 1963, PTS)
  • Paritta (editor and date unknown). This ancient collection consists of material excerpted directly from the Tipitaka: twenty-four short suttas and several brief excerpts, including the three refuges, the precepts, ten questions for the novice monk, and a review of the thirty-two parts of the body. In Buddhist countries monks often recite passages from the Paritta during important ceremonial gatherings (special full-moon days, cremation ceremonies, blessings, dedications of new temples, etc.) The Paritta texts have long been regarded as conferring special powers of protection upon those who hear or recite them. †(many; see, for example, The Book of Protection, by Piyadassi Thera, 1999, BPS)

Kinh Điển Hậu Tác

  • Nettipakarana and Petakopadesa (Mahakaccayana?; circa 1st c.?). Sự tương ưng "Sách hướng dẫn" và "Chỉ dẫn về Tạng Kinh," . Những quyển sách này là những bài giới thiệu về những lời dạy của Phật giáo. Tài liệu lấy trực tiếp từ Tạng Kinh. {HPL pp. 100,117-18} Hai quyển sách này có trong Kinh Tiểu Tụng Của Tạng Kinh Miến Điện (nhưng không có trong Thái Lan hoặc Tích Lan). †(Ñanamoli, 1962 & 1964, PTS)
  • Milindapañha (tác giả vô danh; bắt đầu của Công Nguyên). "Mi Tiên Vấn Đáp." Ghi nhận những câu hỏi của vua Milinda (vua Milinda vị vua của Ấn-Hy-Lạp , r. 2nd c. BCE, đã cai trị phần đất ngày nay là Afghanistan) và trưởng lão Nagasena về những điểm chính của học thuyết Phật giáo. {QKM p. 4} Bài kinh có thể là dựa trên văn bản tiếng Sanskrit vào khoản bắt đầu Công Nguyên và được chuyển dịch sang tiếng Pali tại Sri Lanka trước 4th c. CE; một vài điều có thể được bổ túc sau đó. {PLL p. 26 ¶20; HPL p. 94} Quyển này tìm thấy trong kinh Tiểu Tụng của Tam Tạng kinh điển Miến Điện (Nhưng không có trong kinh điển Thai hoặc Sinhala). Lần đầu tiên được chuyển dịch sang Sinhala vào năm 1777. †(I.B. Horner, 1963, PTS)
  • Paritta (người xuất bản và ngày xuất bản không được biết). Những bài kinh Paritta này bao gồm các tài liệu được trích từ Tam Tạng Thánh Thánh Điển: 24 lời kinh ngắn và vài trích đoạn ngắn, bao gồm cả Tam Quy, giới luật, Nam Tử Hỏi Ðạo, và quán tưởng 32 thể tạng. Trong các quốc gia Phật giáo, trong các buổi lễ quan trọng các vị tỳ kheo thường đọc tụng các đoạn kinh từ Paritta (đặc biệt là những ngày rằm, những buổi lễ, để ban phước lành, lễ khánh thành ngôi chùa mới, etc.) Các kinh Paritta từ lâu đã được coi là những bài kinh có uy lực tâm linh. cho những người nghe hoặc tụng . † (nhiều, xem, ví dụ,(many; see, for example, The Book of Protection, by Piyadassi Thera, 1999, BPS)

Chronicles and Historical Accounts

  • Dipavamsa (author unknown; after 4th c.). The "Island Chronicle." This book, the first known book written in (and about) Sri Lanka, details the early Buddhist history of the island, from the Buddha's legendary first visits through the conversion of the island by Ven. Mahinda (3rd c. BCE). {HPL p. 53}
  • Mahavamsa (Mahanama; 6th c.). "The Great Chronicle." A history of Sri Lanka from the first visits by the Buddha up until the turn of the 4th c. The text is based on the Dipavamsa, but contains new material drawn from the Atthakatha (commentaries). {PLL p. 36 ¶28} This text has long served as a key reference for Buddhist historians and scholars. †(W. Geiger & Mabel H. Bode, 1912, PTS)
  • Culavamsa (various authors). "The Lesser Chronicle." A continuation of the Mahavamsa, extending from the turn of the 4th c. until the fall of the last Sinhalese king of Kandy (1815). {PLL p. 44 ¶38} Its contributors were: Dhammakitti (12th c.), an anonymous author prior to the 18th c., Tibbotuvave Buddharakkhita (18th c.), and Hiddakuve Sumangala (1877). Many historians now consider the Culavamsa to be an integral part of the Mahavamsa, the artificial distinction between the two Chronicles having been introduced in the late 19th c. by the great Pali scholar Wilhelm Geiger. {HPL p. 81} †(Mrs. C. Mabel Rickmers, 1929, PTS)
  • Vamsatthappakasini (author unknown; 6th c.). Commentary of the Mahavamsa. Since the Mahavamsa itself is an expansion of the shorter Dipavamsa, the Vamsatthappakasini is usually considered a sub-commentary (tika). {PLL p. 42 ¶35}
  • Mahabodhivamsa (Upatissa; 11th c.). This account of the sacred bodhi tree of Anuradhapura, Sri Lanka, is mostly a compilation of material from older texts, including the Mahavamsa. {PLL p. 36-37 ¶29} This book is venerated in Sri Lanka and "has given rise to well over fifty subsidiary titles in both Pali and Sinhala." {HPL p. 78} (Note: the bodhi tree at Anuradhapura continues to be an important destination for millions of Buddhist pilgrims. This gigantic tree is said to be a direct descendant of a cutting that was taken from the original bodhi tree under which the Buddha gained enlightenment, and was brought (ca. 240 BCE) by Ven. Sister Sanghamitta on a missionary expedition to Anuradhapura.)
  • Thupavamsa (Vacissara; 12th c.). A chronicle of the Mahathupa (Great Stupa) in Anuradhapura, Sri Lanka. {HPL p. 163} This work is "merely a compilation of pieces from Nidanakatha [the introduction to the Jatakatthavannana], Samantapasadika, and Mahavamsa with its tika [Vamsatthappakasini]." {PLL p. 41 ¶34}
  • Dathavamsa (Dhammakitti; 13th c.). A poem recounting the early history of the sacred Tooth Relic of the Buddha, from the time of its removal from the Buddha's funeral pyre until the building of the first temple in Anuradhapura, Sri Lanka (4th c.). {HPL pp. 40-41} This work is based on material found in the Mahavamsa along with additions that were "probably culled from local tradition of Ceylon." {PLL p. 41 ¶34} (Note: The Tooth Relic — now enshrined in the Sacred Temple of the Tooth in Kandy, Sri Lanka — is still a favorite destination for pilgrims.)
  • Samantakutavannana (Vedehathera; 13th c.). "Description of the Adam's Peak." A poem in 796 stanzas that deals with the story of the Buddha's life and the legends of his three visits to Sri Lanka, including his third visit, during which it is said he left the print of his left foot on the summit of what is today known as Adam's Peak. {PLL p. 43 ¶36} (Note: Adam's Peak, in the central forests of the island, continues to be a celebrated pilgrimage spot for Sri Lankan Buddhists.) †(A. Hazelwood, 1986, PTS)
  • Hatthavanagalla-viharavamsa (author unknown; 13th c.). The life story, in prose and verse, of the Buddhist king Sirisanghabodhi (r. 247-249) of Anuradhapura, Sri Lanka. {HPL p. 55} First translated into Sinhala in 14th c.
  • Saddhamma-sangaha (Dhammakitti Mahasami; Thai; 14th c.). An outline of the literary and ecclesiastical history of Buddhism, including the first four councils, the first writing of Tipitaka, and the writing of the Tikas (sub-commentaries). The source material for this book comes from the Tipitaka and the Atthakathas. {HPL p. 129-30}
  • Cha-kesadhatuvamsa (unknown Burmese author). A short history of the construction of six stupas that enshrine the hair relics that the Buddha personally gave to six arahants. {HPL pp. 36-37}
  • Gandhavamsa (unknown Burmese author; 19th c.?). A catalog of ancient Buddhist commentators and their works. {PLL p. 48 ¶44.5}
  • Sasanavamsa (Paññasamin; Burmese; 19th c.). A history of Buddhism in India until the third Council, and then in Sri Lanka and other countries to which Buddhist missions had been sent. The source texts for this work include the Samantapasadika, Dipavamsa, Mahavamsa, and the Burmese chronicles. {PLL p. 49 ¶44} †(B.C. Law, 1952, PTS)

Biên Niên Sử và Những Mốc Lịch Sử Quan Trọng

  • Dipavamsa (không biết tác giả; sau thế kỷ thứ 4th c.). The "Island Chronicle." Cuốn sách sách được biết đến đầu tiên được viết tại (và về) Sri Lanka, đã mô tả lịch sử thời kỳ đầu Phật giáo của hòn đảo này, từ những truyền thuyết đầu tiên trong những chuyến viếng thăm đức Phật qua sự thay đổi tôn giáo của đảo do Ngài Mahinda (3rd c. BCE). {HPL p. 53}
  • Mahavamsa (Mahanama; 6th c.). "The Great Chronicle." Lịch sủ của Sri Lanka từ những chuyến viếng thăm của Đức Phật cho đến thế kỷ thứ 4th c. Bài viết dựa trên Dipavamsa,nhưng chứa đựng nhiều tài liệu mới viết bởi Atthakatha (sớ giải). {PLL p. 36 ¶28} Bài viết này đã được xử dụng lâu dài như sự tham khảo căn bản Phật giáo cho các sử gia và các học giả . †(W. Geiger & Mabel H. Bode, 1912, PTS)
  • Culavamsa (nhiều tác giả). "The Lesser Chronicle." là tiếp theo của Mahavamsa, kéo dài cho đến thế kỳ thứ 4th c. cho đến khi vua Sinhalese cuối cùng của Kandy sụp đổ(1815). {PLL p. 44 ¶38} Nó gồm: Dhammakitti (12th c.), một tác giả vô danh của thời kỳ thế kỷ thứ 18th c., Tibbotuvave Buddharakkhita (18th c.), and Hiddakuve Sumangala (1877). Bây giờ nhiều sử gia công nhận Culavamsa phần toàn bộ của Mahavamsa, điều khác nhau không tự nhiên giữa hai biên niên sử đã được mở đầu vào cuối thế kỷ thứ 19th c. bởi học giả Pali Wilhelm Geiger. {HPL p. 81} †(Mrs. C. Mabel Rickmers, 1929, PTS)
  • Vamsatthappakasini (Tác giả vô danh; 6th c.). Sớ giải của Mahavamsa. Vì rằng tự Mahavamsa là một sự mở rộng Dipavamsangắn hơn , Vamsatthappakasini thì luôn luôn được coi như phụ sớ giải (tika). {PLL p. 42 ¶35}
  • Mahabodhivamsa (Upatissa; 11th c.).Tài liệu về cây bồ đề thiêng của Anuradhapura, Sri Lanka, phần lớn là một sự tổng hợp các tài liệu từ các văn bản cũ, including the Mahavamsa. {PLL p. 36-37 ¶29} Cuốn sách này được tôn kính ở Sri Lanka và "đã đưa ra hơn năm mươi nhan đề phụ trong cả Pali và Sinhala." {HPL p. 78} (Lưu Ý: Cây Bồ Đề ở Anuradhapura tiếp tục là điểm hành hương quan trọng của những người hành hương Phật Giáo. Cây Bồ Đề vĩ đại này được cho là nhánh Bồ Đề từ cây gốc nơi Đức Phật đã đạt được giác ngộ, và đã được mang đến (ca. 240 BCE) bởi Ni Sư Sanghamitta trong chuyến hoằng pháp tới Anuradhapura)
  • Thupavamsa (Vacissara; 12th c.). Là biên niên sử của tháp Mahathupa (Great Stupa) ở Anuradhapura, Sri Lanka. {HPL p. 163} Công trình xây dựng này là "đơn thuần là một sự tổng hợp từ Nidanakatha [sự khai tâm tới Jatakatthavannana], Samantapasadika, và Mahavamsa with its tika [Vamsatthappakasini]." {PLL p. 41 ¶34}
  • Dathavamsa (Dhammakitti; 13th c.).Một bài thơ về lịch sử Xá Lợi Răng Phật, kể từ lúc Xá Lợi được phân chia ngay sau khi hỏa táng kim thân Đức Phật cho tới khi xây tháp thở đầu tiên ở Anuradhapura, Sri Lanka (4th c.). {HPL pp. 40-41} This work is based on material found in the Mahavamsa Tác phẩm này dựa trên tài liệu được tìm thấy trong Mahavamsa cùng với những bổ sung "có lẽ đã được chọn lọc từ truyền thống địa phương của Tích Lan (Ceylon)". {PLL p. 41 ¶34} (Lưu ý: Xá Lợi Răng - hiện được thờ tại Đền Thờ Xá Lợi răng ở Kandy, Sri Lanka - vẫn là điểm đến ưa thích của những người hành hương).
  • Samantakutavannana (Vedehathera; 13th c.). "" Mô tả Đỉnh Adam". Một bài thơ trong 796 bài viết liên quan đến câu chuyện về cuộc đời Đức Phật và ba huyền thoại của ba chuyến viếng thăm Sri Lanka, kể cả chuyến thăm thứ ba của Ngài, trong đó có nói Ngài đã để lại dấu chân trái của mình lên đỉnh cao mà ngày hôm nay được gọi là Đỉnh của Adam. {PLL p. 43 ¶36} (Ghi chú: Đỉnh của Adam, ở khu rừng trung tâm đảo, vẫn tiếp tục là một địa điểm hành hương nổi tiếng dành cho các Phật tử Sri Lanka) † (A Hazelwood, 1986, PTS)
  • Hatthavanagalla-viharavamsa (Không biết tác giả; 13th c.). Câu chuyện đời sống, bằng văn xuôi, của vị vua Sirisanghabodhi Phật Giáo (247-249) của Anuradhapura, Sri Lanka. {HPL tr. 55} Lần đầu tiên dịch sang Sinhala vào thế kỷ 14th c.
  • Saddhamma-sangaha (Dhammakitti Mahasami; Thai; 14th c.). Diệu pháp yếu lược Diệu pháp yếu lược lịch sử giáo hội Phật giáo, bao gồm bốn lần kết tập Tam Tạng, Tam Tạng Kinh Điển đầu tiên, và bài viết của sớ giải đầu tiên. Tài liệu nguồn cho cuốn sách này xuất phát từ Tam Tạng Kinh Điển và Atthakathas. {HPL p. 129-30}
  • Cha-kesadhatuvamsa (tác giả là người Burmese không biết tên). Lịch sử giản lượt về việc xây dựng sáu tháp thờ xá lợi của Đức Phật đã ban cho sáu vị A La Hán. {HPL pp. 36-37}
  • Gandhavamsa (unknown Burmese author; 19th c.?). Một danh mục các nhà bình luận Phật giáo cổ đại và các tác phẩm của họ. {PLL p. 48 ¶44.5}
  • Sasanavamsa (Paññasamin; Burmese; 19th c.). Lịch sử Phật giáo ở Ấn Độ cho đến Đại Hội Kết Tập Tam Tạng lần thứ ba, và sau đó ở Sri Lanka và các nước khác mà các phái đoàn Phật giáo đã được phái đến. Các văn bản nguồn gốc cho tác phẩm này bao gồm Samantapasadika, Dipavamsa, Mahavamsa, và biên niên sử Miến Điện. {PLL p. 49 ¶44} †(B.C. Law, 1952, PTS)

The Life of the Buddha

  • Jinalankara (Buddharakkhita; 12th c.). This poem of 278 verses gives an account of the Buddha's life up until his enlightenment. {PLL p. 41 ¶34.3}
  • Anagata-vamsa (Mahakassapa of Cola; 12th c.?). The life story of Metteyya, the next Buddha, told in verse. {HPL p. 9}
  • Jinacarita (Medhankara; 13th c.). An account of the life of the Buddha, told in a poem of 472 verses. {HPL p. 64}
  • Pajjamadhu (Buddhapiya Dipankara; 13th c.). A poem of 104 stanzas in praise of the Buddha's physical beauty and wisdom. {PLL p. 44}
  • Jinakalamali (Ratanapañña; Thai; 16th c.). This account of the life of the Buddha begins with his birth in a previous life as the Indian King Sattutapa, and continues through successive lives until his final birth as Siddhattha Gotama. It also includes descriptions of the Buddha's visits to Sri Lanka, the establishment of Buddhism there, and the early rise of Buddhism in Thailand. {HPL p. 65} †(N.A. Jayawickrama, 1962, PTS)

Cuộc Đời Đức Phật

  • Jinalankara (Buddharakkhita; 12th c.). Gồm 278 câu thơ nói về cuộc đời Đức Phật cho đến khi Ngài chứng ngộ.. {PLL p. 41 ¶34.3}
  • Anagata-vamsa (Mahakassapa of Cola; 12th c.?). Cuộc đời của Đức Phật Metteyya, vị Phật tương lai, diễn tả trong vần kệ. {HPL p. 9}
  • Jinacarita (Medhankara; 13th c.). Cuộc đời Đức Phật diễn tả trong 472 câu kệ. {HPL p. 64}
  • Pajjamadhu (Buddhapiya Dipankara; 13th c.). Tập thơ gồm 104 bài tán thán vẻ đẹp và trí tuệ Đức Phật . {PLL p. 44}
  • Jinakalamali (Ratanapañña; Thai; 16th c.). Câu chuyện kể về cuộc đời của Đức Phật bắt đầu từ việc sinh ra trong kiếp trước như Vua Ấn Độ Sattutapa, và tiếp tục cuộc sống kế tiếp cho tới khi sinh cuối cùng là Thái Tử Siddhattha Gotama. Nó cũng bao gồm các mô tả về các chuyến viếng thăm của đức Phật tới Sri Lanka, việc thành lập Phật giáo ở đó, và sự phát triển của Phật giáo Thailand. {HPL p. 65} †(N.A. Jayawickrama, 1962, PTS)

Abhidhamma Manuals

Vi Diệu Pháp Toát Yếu

Miscellaneous

  • Vimuttimagga (Upatissa; 1st c.). "The Path of Freedom." A short manual summarizing the path of Buddhist practice. The original Pali text was long believed to have been lost; for centuries, discussions about the text therefore relied on a 5th c. Chinese edition. A Pali edition was published in 1963. {HPL p. 175-6} †(Ehara, Soma Thera, and Kheminda Thera, 1967, BPS)
  • (Buddhaghosa; 5th c.). "The Path of Purification." An important manual of Buddhist meditation, based on both the Pali Tipitaka and the ancient Sinhala commentaries. This was Buddhaghosa's first opus, written at the behest of the elders of the Mahavihara community "in order to test his abilities prior to entrusting him with the weighty and responsible task of translating the Sinhal[a] commentaries into Pali." {EHBC p. 4} The Visuddhimagga's emphasis on meditation practices that are scarcely mentioned in the suttas (the kasina meditations) fueled a controversy concerning the relationship between jhana and vipassana that persists to this day. {BR p.145} †(Pe Maung Tin, 1923-31, PTS; Ñanamoli Thera, 1956, BPS)
  • Vinayavinicchaya (Buddhadatta; 5th c.). A summary, in verse form, of the first four books of the Vinaya. {HPL p. 177}
  • Uttaravinicchaya (Buddhadatta; 5th c.). A summary, in verse form, of the Parivara, the fifth and final book of the Vinaya. {HPL p. 167; PLL p. 33 ¶25}
  • Paramatthamañjusa (Dhammapala; 6th c.). Commentary on the Visuddhimagga. This, the earliest of all the tikas, "explains in detail the brief references found in the Visuddhimagga...[,] provides a storehouse of traditional interpretations" of Dhamma, and provides discussions on Pali grammar. {HPL p. 111-13}
  • Khuddasikkha (Dhammasiri; after 11th c.) and Mulasikkha (Mahasamin; after 11th c.). These are short summaries on monastic discipline, meant to be learned by heart. {PLL p. 35 ¶27}
  • Upasaka-janalankara (Sihala Acariya Ananda Mahathera; 13th c.). "A Pali manual dealing with the Buddha's teachings for laymen." {HPL p. 168}
  • Sarasangaha (Siddhattha; 13th c.). A "manual of Dhamma" in prose and verse. {HPL p. 141}
  • Sandesakatha and Sima-vivada-vinichaya-katha (both by an unknown Burmese author; 19th c.). These two works "throw interesting sidelight on the relation between Ceylon and Burma." {PLL p. 48 ¶44}
  • Pañcagatidipana (author and date unknown). A poem of 114 stanzas that describes the five forms of rebirth: in hell, as an animal, as a hungry shade (peta), as a human, or as a celestial being (deva).{PLL p. 45 ¶40}
  • Saddhammopayana (author and date unknown). A collection of 629 short verses in praise of the Dhamma. {PLL p. 46 ¶41}
  • Tela-katha-gatha (author and date unknown). "The Oil-Cauldron Verses." A poem whose 98 stanzas "are ascribed to a Thera [senior monk] who was condemned to be thrown into a vessel full of boiling oil. He had been falsely accused of indirectly rendering help in an intrigue of the wife of King Tissa... The boiling oil cannot injure the Thera and he pronounces" stanzas that "deal with death and thought of death, of transience, of suffering, and of the unreality of the soul, etc." {PLL p. 46 ¶41}

Những thể bài khác

  • Vimuttimagga (Upatissa; 1st c.). "Con Đuờng Giải Thoát." Một cuốn sách ngắn tóm lược con đường thực hành Phật giáo. Văn bản gốc Pali đã bị mất; trong nhiều thế kỷ, các cuộc thảo luận về văn bản dựa vào Ấn bản Trung Quốc. Một ấn bản tiếng Pali được xuất bản năm 1963. {HPL p. 175-6} †(Ehara, Soma Thera, and Kheminda Thera, 1967, BPS)
  • (Buddhaghosa; 5th c.). "Con đường thanh lọc "Một cuốn cẩm nang quan trọng về thiền của Phật giáo, dựa trên cả Tam Tạng Pali và các sớ giải Sinhala cổ đại. Đây là tác phẩm đầu tiên của Ngài Buddhaghosa, viết theo lệnh của các bậc trưởng lão của cộng đồng Mahavihara" để thử nghiệm khả năng của Ngài trước khi ủy thác một nhiệm vụ nặng nề và có trách nhiệm trong việc dịch các bình luận Sinhal sang tiếng Pali.." {EHBC p. 4} Sự nhấn mạnh của Visuddhimagga đối với những thực hành thiền định mà hầu như không đề cập đến trong các bài kinh (các bài thiền tập của Kasina) đã gây ra một tranh cãi liên quan đến mối quan hệ giữa jhana và vipassana tồn tại cho đến ngày nay.{BR p.145} †(Pe Maung Tin, 1923-31, PTS; Ñanamoli Thera, 1956, BPS)
  • Vinayavinicchaya (Buddhadatta; 5th c.). Một bản tóm tắt, trong thể loại thơ, của bốn cuốn sách đầu tiên củaVinaya. {HPL p. 177}
  • Uttaravinicchaya (Buddhadatta; 5th c.). Một bản tóm tắt, trong thể loại thơ, của Parivara, cuốn sách thứ năm và cuối cùng của Vinaya. {HPL p. 167; PLL p. 33 ¶25}
  • Paramatthamañjusa (Dhammapala; 6th c.). Sớ giải Visuddhimagga. Cuốn sách này là cuốn đầu tiên của tất cả các hậu sớ giải, "giải thích chi tiết các tài liệu tham khảo ngắn gọn được tìm thấy trong Visuddhimagga...[,]cung cấp và các giải thích truyền thống "của Giáo Pháp, và các cuộc thảo luận về văn phạm tiếng Pali. {HPL p. 111-13}
  • Khuddasikkha (Dhammasiri; after 11th c.) and Mulasikkha (Mahasamin; after 11th c.). Đây là những tóm tắt ngắn gọn về kỷ luật tu viện, có nghĩa là phải học hỏi bằng sự tận tâm. {PLL p. 35 ¶27}
  • Upasaka-janalankara (Sihala Acariya Ananda Mahathera; 13th c.). "Sách toát yếu Pali hướng dẫn các giáo lý của đức Phật cho Phật tử. " {HPL p. 168}
  • Sarasangaha (Siddhattha; 13th c.). A "manual of Dhamma" in prose and verse. {HPL p. 141}
  • Sandesakatha and Sima-vivada-vinichaya-katha (both by an unknown Burmese author; 19th c.). These two works "throw interesting sidelight on the relation between Ceylon and Burma." {PLL p. 48 ¶44}
  • Pañcagatidipana (author and date unknown). A poem of 114 stanzas that describes the five forms of rebirth: in hell, as an animal, as a hungry shade (peta), as a human, or as a celestial being (deva).{PLL p. 45 ¶40}
  • Saddhammopayana (author and date unknown). A collection of 629 short verses in praise of the Dhamma. {PLL p. 46 ¶41}
  • Tela-katha-gatha (tác giả và ngày tháng không được biết). "The Oil-Cauldron Verses." Một tập gồm 98 bài thơ" mô tả một nhà sư Thera, người bị lên án là bị ném vào một chiếc tàu đầy dầu sôi. AÔng ta đã bị cáo buộc sai về việc gián tiếp giúp đỡ trong một mưu đồ của vợ vua Tissa ... Dầu đun sôi không làm tổn thương Thera và ông nói lên "câu chuyện" rằng đối phó với cái chết và nghĩ về cái chết, sự tạm thời, đau khổ, và của sự không thực tế của linh hồn,, etc." {PLL p. 46 ¶41}

Notes

1.
For example, DN 16, MN 108, and Vinaya Cullavagga XI and XII.
2.
In the early decades of the 1st c. BCE in Sri Lanka — then the hub of Theravada Buddhist scholarship and monastic training — several forces combined that would threaten the continuity of the ancient oral tradition by which the Pali Tipitaka had been passed down from one generation of monks to the next. A rebellion against the king and invasions from south India forced many monks to flee the island. At the same time a famine of unprecedented proportions descended on the island for a dozen years. The commentaries recount heroic stories of monks who, fearing that the treasure of the Tipitaka might forever be lost, retreated to the relative safety of the south coast, where they survived only on roots and leaves, reciting the texts amongst themselves day and night. The continuity of the Tipitaka hung by a thread: at one point only one monk was able to recite the Niddesa. {PLL p. 76}
3.
The commentary tells how Kisagotami, distraught by the death of her son, carried his corpse from door to door, in search of a cure for his ailment. Finally she met the Buddha, who promised a cure if she would simply fetch a few mustard seeds from a household that had never been touched by death. Unable to find any such household, she eventually came to her senses, understood the inevitability of death, and was at last able to let go of both the corpse and her grief. (The full story of Kisagotami's life is retold in Great Disciples of the Buddha, Bhikkhu Bodhi, ed. (Boston: Wisdom Publications, 1997).)
4.
See BR p.145.
5.
See "'When you know for yourselves...': The Authenticity of the Pali Suttas," by Thanissaro Bhikkhu.

Chú Chích

1.
For example, DN 16, MN 108, and Vinaya Cullavagga XI and XII.
2.
Trong những thập niên đầu của thế kỷ thứ 1st c. BCE tại Sri Lanka — khi đó các trung tâm Phật giáo Nguyên Thủy và tu viện tu tập — một số lực lượng phối hợp có thể đe dọa sự tồn tại của truyền thống truyền khẩu cổ xưa mà qua đó Tam Tạng Pali đã được truyền lại từ các nhà sự thế hệ này tới thế hệ kế tiếp. Một cuộc nổi dậy chống lại nhà vua và những cuộc xâm lăng từ phía Nam Ấn Độ buộc nhiều nhà sư phải chạy trốn khỏi hòn đảo. Đồng thời, nạn đói với tỷ lệ chưa từng có đã đổ xuống hòn đảo này trong 12 năm. Những bài sớ giải kể lại những câu chuyện anh hùng của các nhà sư, sợ rằng kho tàng kinh điển Tam Tạng có thể bị mất mãi mãi, họ rút về nơi tương đối an toàn của bờ biển phía Nam, nơi họ sống sót chỉ nhờ vào rau củ và lá cây, học thuộc lòng các bài văn với nhau cả ngày và đêm. Sự tiếp nối của Tam Tạng tựa treo bởi một sợi chỉ: tại một thời điểm chỉ có một tu sĩ đã có thể thuộc lòng Niddesa. {PLL p. 76}
3.
Sớ giải nói lên câu chuyện của bà Kisagotami, quẩn trí vì cái chết của con trai, bà mang xác chết của con mình đến gõ cửa từng nhà, tìm kiếm một phương thuốc chữa bệnh cho con của mình. Cuối cùng bà gặp đức Phật, Ngài đã hứa chữa bệnh nếu bà có thể lấy một vài hạt mù tạt từ một gia đình chưa bao giờ có người chết. Không thể tìm thấy bất cứ hộ gia đình như vậy, cuối cùng bà đã có những tỉnh thức, hiểu được sự không thể tránh khỏi của cái chết, và cuối cùng bà buông xả cả xác chết và nỗi đau của bà. (Câu chuyện đầy đủ về cuộc đời của Kisagotami được kể lại trong Great Disciples of the Buddha, Bhikkhu Bodhi, ed. (Boston: Wisdom Publications, 1997).)
4.
See BR p.145.
5.
See "'When you know for yourselves...': The Authenticity of the Pali Suttas," by Thanissaro Bhikkhu.

Sources

The Buddhist Religion (fourth edition),
("BR") by Richard H. Robinson and Willard L. Johnson (Belmont, California: Wadsworth, 1997)
Early History of Buddhism in Ceylon,
("EHBC") by E.W. Adikaram (Dehiwala, Sri Lanka: The Buddhist Cultural Centre, 1994)
Guide to Tipitaka,
by U Ko Lay (New Delhi: Sri Satguru Publications, 1990)
Handbook of Pali Literature,
("HPL") by Somapala Jayawardhana (Colombo, Sri Lanka: Karunaratne & Sons, 1994)
Pali Literature and Language,
("PLL") by Wilhelm Geiger (New Delhi: Oriental Books, 1978)
Pali Text Society's List of Issues (1994-95)
by the Pali Text Society (Oxford: Pali Text Society, 1994)
The Questions of King Milinda: An Abridgement of the Milindapañha,
("QKM") by N.K.G. Mendis, ed. (Kandy: Buddhist Publication Society, 1993).

Nguồn Gốc

The Buddhist Religion (fourth edition),
("BR") by Richard H. Robinson and Willard L. Johnson (Belmont, California: Wadsworth, 1997)
Early History of Buddhism in Ceylon,
("EHBC") by E.W. Adikaram (Dehiwala, Sri Lanka: The Buddhist Cultural Centre, 1994)
Guide to Tipitaka,
by U Ko Lay (New Delhi: Sri Satguru Publications, 1990)
Handbook of Pali Literature,
("HPL") by Somapala Jayawardhana (Colombo, Sri Lanka: Karunaratne & Sons, 1994)
Pali Literature and Language,
("PLL") by Wilhelm Geiger (New Delhi: Oriental Books, 1978)
Pali Text Society's List of Issues (1994-95)
by the Pali Text Society (Oxford: Pali Text Society, 1994)
The Questions of King Milinda: An Abridgement of the Milindapañha,
("QKM") by N.K.G. Mendis, ed. (Kandy: Buddhist Publication Society, 1993).

 Chủ biên và điều hành: TT Thích Giác Đẳng.

Những đóng góp dịch thuật xin gửi về TT Thích Giác Đẳng tại phamdang0308@gmail.com
Cập nhập ngày: Thứ Sáu 08-10-2017

Kỹ thuật trình bày: Minh Hạnh & Thiện Pháp

 | | trở về đầu trang | Home page |