MN 118

The Second & Third Noble Truths [go up]

§ 17. "Now what is the noble truth of the origination of stress? The craving that makes for further becoming — accompanied by passion & delight, relishing now here & now there — i.e., craving for sensuality, craving for becoming, craving for non-becoming... And what is the noble truth of the cessation of stress? The remainderless fading & cessation, renunciation, relinquishment, release, & letting go of that very craving."

DN 22


The Second & Third Noble Truths [go up]

§ 17. "Này các Tỷ kheo, thế nào là Khổ tập Thánh đế? Sự tham ái đứa đến tái sanh, câu hữu với hỷ và tham, t́m cầu hỷ lạc chỗ này chỗ kia. Như dục ái, hữu ái, vô hữu ái... Và này các Tỷ kheo, thế nào là Khổ diệt Thánh đế? Sự diệt tận không c̣n luyến tiếc tham ái ấy, sự xả ly, sự khí xả, sự giải thoát, sự vô nhiễm (tham ái ấy). "

DN 22

§ 18. "And what is the noble method that is rightly seen & rightly ferreted out by discernment? There is the case where a disciple of the noble ones notices:

When this is, that is.
From the arising of this comes the arising of that.
When this isn't, that isn't.
From the cessation of this comes the cessation of that.
"In other words:

§ 18. "Thế nào Thánh chánh lư được khéo thấy, khéo thể nhập với trí tuệ? Ở đây, vị Thánh đệ tử quán sát như sau:

Do cái này có, cái kia có. 
Do cái này sanh, cái kia sanh. 
Do cái này không có, cái kia không có. 
Do cái này diệt, cái kia diệt. 
"Tức là:

"With ignorance as a condition there are fabrications.
With fabrications as a condition there is consciousness.
With consciousness as a condition there is name & form.
With name & form as a condition there are the six sense spheres.
With the six sense spheres as a condition there is contact.
With contact as a condition there is feeling.
With feeling as a condition there is craving.
With craving as a condition there is clinging/sustenance.
With clinging/sustenance as a condition there is becoming.
With becoming as a condition there is birth.
With birth as a condition, then old age & death, sorrow, lamentation, pain, distress, & despair come into play. Such is the origination of this entire mass of stress & suffering.

"Do duyên vô minh, có các hành.
Do duyên các hành có thức.
Do duyên thức có danh sắc.
Do duyên danh sắc có sáu nhập.
Do duyên sáu nhập có xúc.
Do duyên xúc có thọ.
Do duyên thọ có ái.
Do duyên ái có thủ.
Do duyên thủ có hữu.
Do duyên hữu có sanh.
Do duyên sanh có già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, năo.
Như vậy, là sự tập khởi của toàn bộ khổ uẩn này.

"Now from the remainderless fading & cessation of that very ignorance there is the cessation of fabrications. From the cessation of fabrications there is the cessation of consciousness. From the cessation of consciousness there is the cessation of name & form. From the cessation of name & form there is the cessation of the six sense spheres. From the cessation of the six sense spheres there is the cessation of contact. From the cessation of contact there is the cessation of feeling. From the cessation of feeling there is the cessation of craving. From the cessation of craving there is the cessation of clinging/sustenance. From the cessation of clinging/sustenance there is the cessation of becoming. From the cessation of becoming there is the cessation of birth. From the cessation of birth, then old age & death, sorrow, lamentation, pain, distress, & despair all cease. Such is the cessation of this entire mass of stress & suffering.

"This is the noble method that is rightly seen & rightly ferreted out by discernment."

AN 10.92

"V́ thế: Do vô minh diệt, nên các hành diệt. Do các hành diệt nên thức diệt. Do thức diệt nên danh sắc diệt. Do danh sắc diệt nên sáu nhập diệt. Do sáu nhập diệt nên xúc diệt. Do xúc diệt nên thọ diệt. Do thọ diệt nên ái diệt. Do ái diệt nên thủ diệt Do thủ diệt nên hữu diệt Do hữu diệt nên sanh diệt. Do sanh diệt nên già, chết,sầu, bi,khổ,ưu,năo,diệt. Như vậy là toàn bộ khổ uẩn này diệt.

"Đây là Thánh lư được khéo thấy và khéo thể nhập với trí tuệ."

AN 10.92

§ 19. Sariputta: "Now, the Blessed One has said, 'Whoever sees dependent co-arising sees the Dhamma; whoever sees the Dhamma sees dependent co-arising.'"

MN 28

§ 19. Sariputta: "Thế Tôn đă nói như sau: 'Ai thấy được lư duyên khởi, người ấy thấy được pháp; ai thấy được pháp, người ấy thấy được lư duyên khởi.'"

MN 28

§ 20. "First there is the knowledge of the steadfastness of the Dhamma (dependent co-arising), after which there is the knowledge of Unbinding."

SN 12.70

§ 20. "Trước hết là trí về pháp trú, sau là trí về Niết-bàn."

SN 12.70

§ 21. "Now what is becoming? These three are becomings: sensual becoming, form becoming, & formless becoming. This is called becoming.

§ 21. "Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hữu? Này các Tỷ-kheo, có ba hữu này: Dục hữu, Sắc hữu, Vô sắc hữu. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là hữu.

"And what is clinging/sustenance? These four are clingings: sensuality clinging, view clinging, precept & practice clinging, and doctrine of self clinging. This is called clinging.

"Và này các Tỷ-kheo, thế nào là thủ? Này các Tỷ-kheo, có bốn thủ này: dục thủ, kiến thủ, giới cấm thủ, ngă luận thủ. Này các Tỷ- kheo, đây gọi là thủ.

"And what is craving? These six are classes of craving: craving for forms, craving for sounds, craving for smells, craving for tastes, craving for tactile sensations, craving for ideas. This is called craving.

"Và này các Tỷ-kheo, thế nào là ái? Này các Tỷ-kheo, có sáu ái thân này: sắc ái, thanh ái, hương ái, vị ái, xúc ái, pháp ái. Này các Tỷ- kheo, đây gọi là ái.

"And what is feeling? These six are classes of feeling: feeling born from eye-contact, feeling born from ear-contact, feeling born from nose-contact, feeling born from tongue-contact, feeling born from body-contact, feeling born from intellect-contact. This is called feeling.

"Và này các Tỷ-kheo, thế nào là thọ? Này các Tỷ-kheo, có sáu thọ thân này: thọ do nhăn xúc sanh; thọ do nhĩ xúc sanh; thọ do tỷ xúc sanh; thọ do thiệt xúc sanh; thọ do thân xúc sanh; thọ do ư xúc sanh. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là thọ.

"And what is contact? These six are classes of contact: eye-contact, ear-contact, nose-contact, tongue-contact, body-contact, intellect-contact. This is called contact.

"Và này các Tỷ-kheo, thế nào là xúc? Này các Tỷ-kheo, có sáu xúc thân này: nhăn xúc, nhĩ xúc, tỷ xúc, thiệt xúc, thân xúc, ư xúc. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là xúc.

"And what are the six sense spheres? These six are sense spheres: the eye-sphere, the ear-sphere, the nose-sphere, the tongue-sphere, the body-sphere, the intellect-sphere. These are called the six sense spheres.

"Và này các Tỷ-kheo, thế nào là sáu xứ? Nhăn xứ, nhĩ xứ, tỷ xứ, thiệt xứ, thân xứ, ư xứ. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là sáu xứ.

"And what is name & form? Feeling, perception, intention, contact, & attention: This is called name. The four great elements, and the form dependent on the four great elements: This is called form. This name & this form are called name & form.

"Và này các Tỷ-kheo, thế nào là danh sắc? Thọ, tưởng, tư, xúc, tác ư; đây gọi là danh. Bốn đại chủng và sắc do bốn đại chủng tạo ra; đây gọi là sắc. Như vậy đây là danh, đây là sắc. Đây gọi là danh sắc.

"And what is consciousness? These six are classes of consciousness: eye-consciousness, ear-consciousness, nose-consciousness, tongue-consciousness, body-consciousness, intellect-consciousness. This is called consciousness.

"Và này các Tỷ-kheo, thế nào là thức? Này các Tỷ-kheo, có sáu thức thân này: nhăn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, ư thức. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là thức.

"And what are fabrications? These three are fabrications: bodily fabrications, verbal fabrications, mental fabrications. These are called fabrications.

"Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hành? Này các Tỷ-kheo, có ba hành này: thân hành, khẩu hành, ư hành. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là hành

"And what is ignorance? Not knowing stress, not knowing the origination of stress, not knowing the cessation of stress, not knowing the way of practice leading to the cessation of stress: This is called ignorance."

SN 12.2

"Này các Tỷ-kheo, thế nào là vô minh? Này các Tỷ-kheo, không rơ biết Khổ, không rơ biết Khổ tập, không rơ biết Khổ diệt, không rơ biết Con đường đưa đến Khổ diệt. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là vô minh."

SN 12.2

§ 22. "The ending of the fermentations is for one who knows & sees, I tell you, not for one who does not know & see. For one who knows what & sees what? 'Such is form, such its origination, such its disappearance. Such is feeling... Such is perception... Such are fabrications... Such is consciousness, such its origination, such its disappearance.' The ending of the fermentations is for one who knows in this way & sees in this way.

§ 22. "Này các Tỷ-kheo, đối với người biết, này các Tỷ-kheo, đối với người thấy, Ta nói các lậu hoặc được đoạn diệt, không phải đối với người không biết, không phải đối với người không thấy. Và này các Tỷ-kheo, như thế nào đối với người biết, đối với người thấy, các lậu hoặc được đoạn diệt? Đây là sắc, đây là sắc tập khởi, đây là sắc đoạn diệt. Đây là thọ... Đây là tưởng... Đây là hành... Đây là thức, đây là thức tập khởi, đây là thức đoạn diệt. Như vậy, này các Tỷ-kheo, đối với người biết, như vậy đối với người thấy, các lậu hoặc được đoạn diệt.

"The knowledge of ending in the presence of ending has its prerequisite, I tell you. It is not without a prerequisite. And what is its prerequisite? Release... Release has its prerequisite, I tell you. It is not without a prerequisite. And what is its prerequisite? Dispassion... Disenchantment... Knowledge & vision of things as they actually are present... Concentration... Pleasure... Serenity... Rapture... Joy... Conviction... Stress & suffering... Birth... Becoming... Clinging... Craving... Feeling... Contact... The six sense media... Name & form... Consciousness... Fabrications... Fabrications have their prerequisite, I tell you. They are not without a prerequisite. And what is their prerequisite? Ignorance...

"Này các Tỷ-kheo, trong đoạn diệt ấy, trí về đoạn diệt, Ta nói rằng trí ấy có duyên, không phải không có duyên. Và này các Tỷ-kheo, duyên của trí về đoạn diệt là ǵ? Giải thoát là câu trả lời. Này các Tỷ-kheo, Ta nói rằng giải thoát có duyên, không phải không có duyên. Và này các Tỷ-kheo, duyên của giải thoát là ǵ? Ly tham là câu trả lời. Này các Tỷ-kheo, Ta nói rằng ly tham có duyên, không phải không có duyên. Và này các Tỷ-kheo, duyên của ly tham là ǵ? Yếm ly là câu trả lời. Này các Tỷ-kheo, Ta nói rằng yếm ly có duyên, không phải không có duyên. Và này các Tỷ-kheo, duyên của yếm ly là ǵ? Tri kiến như chân là câu trả lời. Này các Tỷ-kheo, Ta nói rằng tri kiến như chân có duyên, không phải không có duyên. Và này các Tỷ-kheo, duyên của tri kiến như chân là ǵ? Định là câu trả lời. Này các Tỷ-kheo, Ta nói rằng định có duyên, không phải không có duyên. Và này các Tỷ-kheo, duyên của định là ǵ? Lạc là câu trả lời. Này các Tỷ-kheo, Ta nói rằng lạc có duyên, không phải không có duyên. Này các Tỷ-kheo, duyên của lạc là ǵ? Khinh an là câu trả lời. Này các Tỷ-kheo, Ta nói rằng khinh an có duyên, không phải không có duyên. Và này các Tỷ-kheo, duyên của khinh an là ǵ? Hỷ là câu trả lời. Này các Tỷ-kheo, Ta nói rằng hỷ có duyên, không phải không có duyên. Và này các Tỷ-kheo, duyên của hỷ là ǵ? Hân hoan là câu trả lời. Này các Tỷ-kheo, Ta nói rằng hân hoan có duyên, không phải không có duyên. Và này các Tỷ-kheo, duyên của hân hoan là ǵ? Ḷng tin là câu trả lời. Này các Tỷ-kheo, Ta nói rằng ḷng tin có duyên, không phải không có duyên. Và này các Tỷ-kheo, duyên của ḷng tin là ǵ? Khổ là câu trả lời. Này các Tỷ-kheo, Ta nói rằng khổ có duyên, không phải không có duyên. Và này các Tỷ-kheo, duyên của sanh là ǵ? Hữu là câu trả lời. Này các Tỷ-kheo, Ta nói rằng hữu có duyên, không phải không có duyên. Và này các Tỷ-kheo, duyên của hữu là ǵ? Thủ là câu trả lời. Này các Tỷ-kheo, Ta nói rằng thủ có duyên, không phải không có duyên. Và này các Tỷ-kheo, duyên của thủ là ǵ? Ái là câu trả lời. Này các Tỷ-kheo, Ta nói rằng ái có duyên, không phải không có duyên. Và này các Tỷ-kheo, duyên của ái là ǵ? Thọ là câu trả lờiNày các Tỷ-kheo, Ta nói rằng ái có duyên, không phải không có duyên. Và này các Tỷ-kheo, duyên của Ái là ǵ? Xúc là câu trả lời. Này các Tỷ-kheo, Ta nói rằng ái có duyên, không phải không có duyên. Và này các Tỷ-kheo, duyên của Sáu xứ là ǵ? Sáu xứ là câu trả lời. Này các Tỷ-kheo, Ta nói rằng Sáu xứ có duyên, không phải không có duyên. Và này các Tỷ-kheo, duyên của Danh sắc là ǵ? Danh sắc là câu trả lời. Này các Tỷ-kheo, Ta nói rằng Danh sắc có duyên, không phải không có duyên. Và này các Tỷ-kheo, Thức của thủ là ǵ? Thức là câu trả lời. Này các Tỷ-kheo, Ta nói rằng Thức có duyên, không phải không có duyên. Và này các Tỷ-kheo, duyên của hành là ǵ? Hành là câu trả lời. Này các Tỷ-kheo, Ta nói rằng hành có duyên, không phải không có duyên. Và này các Tỷ-kheo, duyên của hành là ǵ? Vô minh là câu trả lời.

"Just as when the gods pour rain in heavy drops & crash thunder on the upper mountains: The water, flowing down along the slopes, fills the mountain clefts & rifts & gullies. When the mountain clefts & rifts & gullies are full, they fill the little ponds. When the little ponds are full, they fill the big lakes... the little rivers... the big rivers. When the big rivers are full, they fill the great ocean.

"In the same way:

"Ví như, này các Tỷ-kheo, trên đỉnh núi trời mưa nặng hột và nước chảy theo triền thấp, tràn đầy hang núi, khe núi, thung lũng. Khi các hang núi, khe núi, thung lũng được tràn đầy, thời ao nhỏ được tràn đầy; ao nhỏ được tràn đầy thời ao lớn được tràn đầy; ao lớn tràn đầy thời sông nhỏ được tràn đầy; sông nhỏ được tràn đầy thời sông lớn được tràn đầy; sông lớn được tràn đầy thời biển lớn, đại dương được tràn đầy.

"Tương tự như vậy:

fabrications have ignorance as their prerequisite,
consciousness has fabrications as its prerequisite,
name & form have consciousness as their prerequisite,
the six sense media have name & form as their prerequisite,
contact has the six sense media as its prerequisite,
feeling has contact as its prerequisite,
craving has feeling as its prerequisite,
clinging has craving as its prerequisite,
becoming has clinging as its prerequisite,
birth has becoming as its prerequisite,
stress & suffering have birth as their prerequisite,
conviction has stress & suffering as its prerequisite,
joy has conviction as its prerequisite,
rapture has joy as its prerequisite,
serenity has rapture as its prerequisite,
pleasure has serenity as its prerequisite,
concentration has pleasure as its prerequisite,
knowledge & vision of things as they actually are present has concentration as its prerequisite,
disenchantment has knowledge & vision of things as they actually are present as its prerequisite,
dispassion has disenchantment as its prerequisite,
release has dispassion as its prerequisite,
knowledge of ending has release as its prerequisite."

SN 12.23

Như vậy, này các Tỷ-kheo, vô minh duyên hành,
hành duyên thức,
thức duyên danh sắc,
danh sắc duyên sáu xứ,
sáu xứ duyên xúc,
xúc duyên thọ,
thọ duyên ái,
ái duyên thủ,
thủ duyên hữu,
hữu duyên sanh,
sanh duyên khổ,
khổ duyên tín,
tín duyên hân hoan,
hân hoan duyên hỷ,
hỷ duyên khinh an,
khinh an duyên lạc,
lạc duyên định,
định duyên tri kiến như chân,
tri kiến như chân duyên yếm ly,
yếm ly duyên ly tham,
ly tham duyên giải thoát,
giải thoát duyên trí về đoạn diệt."

SN 12.23

§ 23. "One attached is unreleased; one unattached is released. Should consciousness, when standing (still), stand attached to (a physical) form, supported by form (as its object), established on form, watered with delight, it would exhibit growth, increase, & development. Should consciousness, when standing (still), stand attached to feeling... to perception... to fabrications... it would exhibit growth, increase, & development. Were someone to say, 'I will describe a coming, a going, a passing away, an arising, a growth, an increase or a development of consciousness apart from form, from feeling, from perception, from fabrications,' that would be impossible.

^^^^^

"If a monk abandons passion for the property of form... feeling... perception... fabrications... consciousness, then owing to the abandoning of passion, the support is cut off, and consciousness is unestablished. Consciousness, thus unestablished, undeveloped, not performing any function, is released. Owing to its release, it stays firm. Owing to its staying firm, it is contented. Owing to its contentment, it is not agitated. Not agitated, he (the monk) is totally unbound right within himself. He discerns that, 'Birth is ended, the holy life fulfilled, the task done. There is nothing further for this world.'"

SN 12.53

^^^^^

§ 24. "There are these four nutriments for the establishing of beings or for the support of those in search of a place to be born. What four? Physical food, gross or refined; contact as the second, consciousness the third, and intellectual intention the fourth. These are the four nutriments for the establishing of beings or for the support of those in search of a place to be born.

§ 24. "Này các Tỷ-kheo, có bốn loại đồ ăn đưa đến sự tồn tại hay sự chấp thủ tái sanh của các loài hữu t́nh hay các loài chúng sanh. Thế nào là bốn? -Đoàn thực hoặc thô, hoặc tế; -Thứ hai là xúc; -Thứ ba là tư niệm; -Thứ tư là thức. Này các Tỷ-kheo, bốn loại đồ ăn này đưa đến sự tồn tại hay sự chấp thủ tái sanh cho các loài hữu t́nh hay các loài chúng sanh.

"Where there is passion, delight, & craving for the nutriment of physical food, consciousness lands there and grows. Where consciousness lands and grows, name & form alight. Where name & form alight, there is the growth of fabrications. Where there is the growth of fabrications, there is the production of renewed becoming in the future. Where there is the production of renewed becoming in the future, there is future birth, aging, & death, together, I tell you, with sorrow, affliction, & despair.

"Này các Tỷ-kheo, nếu đối với đoàn thực, có tham, có hỷ, có ái, thời có thức được an trú, tăng trưởng. Chỗ nào thức được an trú, tăng trưởng, chỗ ấy có danh sắc sanh. Chỗ nào có danh sắc sanh, chỗ ấy có các hành tăng trưởng. Chỗ nào có các hành tăng trưởng, chỗ ấy hữu được tái sanh trong tương lai. Chỗ nào hữu được tái sanh trong tương lai, chỗ ấy có sanh, già chết trong tương lai. Chỗ nào có sanh, già chết trong tương lai, Ta nói chỗ ấy có sầu, có khổ, có năo.

"Just as — when there is dye, lac, yellow orpiment, indigo, or crimson — a dyer or painter would paint the picture of a woman or a man, complete in all its parts, on a well-polished panel or wall or on a piece of cloth; in the same way, where there is passion, delight, & craving for the nutriment of physical food, consciousness lands there & grows... together, I tell you, with sorrow, affliction, & despair.

"Ví như, này các Tỷ-kheo, một người thợ nhuộm hay một người thợ vẽ. Nếu có thuốc nhuộm hay sơn màu nghệ, màu xanh, hay màu đỏ, có một tấm bảng khéo đánh bóng, một bức tường hay tấm vải, có thể phác họa h́nh người đàn bà hay người đàn ông có đầy đủ chân tay.

(Similarly with the other three kinds of nutriment.)

"Này các Tỷ-kheo, nếu đối với xúc thực... "Này các Tỷ-kheo, nếu đối với tư niệm thực... Này các Tỷ-kheo, nếu đối với thức thực, có tham, có hỷ, có ái, thời có thức được an trú, tăng trưởng. Chỗ nào có thức được an trú, tăng trưởng, chỗ ấy có danh sắc sanh. Chỗ nào có danh sắc sanh, chỗ ấy có các hành tăng trưởng. Chỗ nào có các hành tăng trưởng, chỗ ấy hữu được tái sanh trong tương lai. Chỗ nào hữu được tái sanh trong tương lai, chỗ ấy có sanh, già chết trong tương lai. Chỗ nào có sanh, già chết trong tương lai, Ta nói chỗ ấy có sầu, có khổ, có năo.

"Where there is no passion for physical nutriment, where there is no delight, no craving, consciousness does not land there or grow... Name & form do not alight... There is no growth of fabrications... There is no production of renewed becoming in the future. Where there is no production of renewed becoming in the future, there is no future birth, aging, & death. That, I tell you, has no sorrow, affliction, or despair.

"Này các Tỷ-kheo, nếu đối với đoàn thực không có tham, không có hỷ, không có ái, thời không có thức an trú, tăng trưởng. Chỗ nào không có thức an trú, tăng trưởng, chỗ ấy không có danh sắc sanh. Chỗ nào không có danh sắc sanh, chỗ ấy không có các hành tăng trưởng. Chỗ nào không có các hành tăng trưởng, chỗ ấy không có hữu tái sanh trong tương lai. Chỗ nào không có hữu tái sanh trong tương lai, chỗ ấy không có sanh, già, chết trong tương lai. Chỗ nào không có sanh, già, chết trong tương lai, Ta nói rằng chỗ ấy không có sầu, không có khổ, không có năo.

"Just as if there were a roofed house or a roofed hall having windows on the north, the south, or the east. When the sun rises, and a ray has entered by way of the window, where does it land?"

"On the western wall, lord."

"And if there is no western wall...?"

"On the ground, lord."

"And if there is no ground...?"

"On the water, lord."

"And if there is no water...?"

"It does not land, lord."

"In the same way, where there is no passion for physical nutriment... consciousness does not land or grow... That, I tell you, has no sorrow, affliction, or despair."

(Similarly with the other three kinds of nutriment.)

SN 12.64

"Ví như, này các Tỷ-kheo, một ngôi nhà có mái hay một dăy hành lang có mái, có cửa sổ phía Bắc, phía Nam, hay phía Đông. Khi mặt trời mọc lên, ánh sáng ngang qua cửa sổ chiếu vào, thời chiếu vào chỗ nào?

"Bạch Thế Tôn, chiếu vào tường phía Tây."

"Này các Tỷ-kheo, nếu không có tường phía Tây, thời chiếu vào chỗ nào?"

"Bạch Thế Tôn, chiếu trên đất."

"Này các Tỷ-kheo, nếu không có đất, thời chiếu vào chỗ nào?"

"Bạch Thế Tôn, chiếu trên nước."

"Này các Tỷ-kheo, nếu không có nước, thời chiếu vào chỗ nào?"

"Bạch Thế Tôn, không có chiếu ở đâu cả."

"Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, nếu đối với đoàn thực không có tham, không có hỷ, không có ái. .. -Này các Tỷ-kheo, nếu đối với xúc thực... -Này các Tỷ-kheo, nếu đối với tư niệm thực... -Này các Tỷ-kheo, nếu đối với thức thực, không có tham, không có hỷ, không có ái, thời không có thức an trú. Chỗ nào không có thức an trú, chỗ ấy không có danh sắc sanh. Chỗ nào không có danh sắc sanh, chỗ ấy không có các hành tăng trưởng. Chỗ nào không có các hành tăng trưởng, chỗ ấy không có hữu tái sanh trong tương lai. Chỗ nào không có hữu tái sanh trong tương lai, chỗ ấy không có sanh, già chết trong tương lai. Chỗ nào không có sanh, già chết trong tương lai, Ta nói rằng chỗ ấy không có sầu, không có khổ, không có năo.

SN 12.64

§ 25. "Consciousness without feature, without end luminous all around: Here water, earth, fire, & wind have no footing. Here long & short coarse & fine fair & foul name & form, without remnant, are brought to an end. With the cessation of [the activity of] consciousness, each is here brought to an end."

DN 11

§ 25. "Thức là không thể thấy, vô biên, biến thông hết thảy xứ. Ở đây địa đại, thủy đại, hỏa đại, phong đại không có chân đứng. Ở đây, cũng vậy dài, ngắn, tế, thô, tịnh và bất tịnh. Ở đây danh và sắc tiêu diệt hoàn toàn. Khi thức diệt, ở đây mọi thứ đều diệt tận."

DN 11

§ 26. "There is that dimension where there is neither earth, nor water, nor fire, nor wind; neither dimension of the infinitude of space, nor dimension of the infinitude of consciousness, nor dimension of nothingness, nor dimension of neither perception nor non-perception; neither this world, nor the next world, nor sun, nor moon. And there, I say, there is neither coming, nor going, nor staying; neither passing away nor arising: unestablished, unevolving, without support (mental object). This, just this, is the end of stress."

Ud 8.1

§ 26. "Này các Tỷ-kheo, có xứ này, tại đây không có đất, không có nước, không có lửa, không có gió; không có Hư không vô biên, không có Thức vô biên xứ, không có Vô sở hữu xứ, không có Phi tưởng phi phi tưởng xứ; không có đời này, không có đời sau, không có cả hai mặt trăng mặt trời. Do vậy, này các Tỷ-kheo, Ta tuyên bố không có đến, không có đi, không có trú, không có diệt, không có sanh; không có an trú, không có chuyển vận, không có sở duyên, đây là sự đoạn tận khổ đau."

Ud 8.1

§ 27. "There is, monks, an unborn — unbecome — unmade — unfabricated. If there were not that unborn — unbecome — unmade — unfabricated, there would not be the case that emancipation from the born — become — made — fabricated would be discerned. But precisely because there is an unborn — unbecome — unmade — unfabricated, emancipation from the born — become — made — fabricated is discerned."

Ud 8.3

§ 27. "Này các Tỷ-kheo, có sự không sanh, không hiện hữu, không bị làm, không hữu vi, này các Tỷ-kheo, nếu không có cái không sanh, không hiện hữu, không bị làm, không hữu vi, th́ ở đây không thể tŕnh bày sự xuất ly khỏi sanh, hiện hữu, bị làm, hữu vi. V́ rằng, này các Tỷ-kheo, có cái không sanh, không hiện hữu, không bị làm, không hữu vi, nên có tŕnh bày sự xuất ly khỏi sanh, hiện hữu, bị làm, hữu vi."

Ud 8.3

§ 28. "One who is dependent has wavering. One who is independent has no wavering. There being no wavering, there is calm. There being calm, there is no desire. There being no desire, there is no coming or going. There being no coming or going, there is no passing away or arising. There being no passing away or arising, there is neither a here nor a there nor a between-the-two. This, just this, is the end of stress."

Ud 8.4

§ 28. "Cái ǵ có nương tựa, cái ấy có dao động. Cái ǵ không nương tựa, cái ấy không dao động. Không có dao động th́ có khinh an. Có khinh an th́ không có thiên về. Không có thiên về th́ không có đến và đi; không có đến và đi th́ không có diệt và sanh; không có diệt và sanh th́ không có đời này, không có đời sau, không có đời ở giữa. Đây là sự đoạn tận khổ đau."

Ud 8.4

The Fourth Noble Truth [go up]

§ 29. "There are these two extremes that are not to be indulged in by one who has gone forth. Which two? That which is devoted to sensual pleasure in connection with sensuality: base, domestic, common, ignoble, unprofitable; and that which is devoted to self-affliction: painful, ignoble, unprofitable. Avoiding both of these extremes, the middle way realized by the Tathagata — producing vision, producing knowledge — leads to calm, to direct knowledge, to self-awakening, to Unbinding.

The Fourth Noble Truth [go up]

§ 29. "Có hai cực đoan này, này các Tỷ-kheo, một người xuất gia không nên thực hành theo. Thế nào là hai? Một là đắm say trong các dục (kàmesu), hạ liệt, đê tiện, phàm phu, không xứng bậc Thánh, không liên hệ đến mục đích. Hai là tự hành khổ ḿnh, khổ đau, không xứng bậc Thánh, không liên hệ đến mục đích. Tránh xa hai cực đoan này, này các Tỷ-kheo, là con đường Trung đạo, do Như Lai chánh giác, tác thành mắt, tác thành trí, đưa đến an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn.

"And what is the middle way realized by the Tathagata that — producing vision, producing knowledge — leads to calm, to direct knowledge, to self-awakening, to Unbinding? Precisely this Noble Eightfold Path: right view, right resolve, right speech, right action, right livelihood, right effort, right mindfulness, right concentration. This is the middle way realized by the Tathagata that — producing vision, producing knowledge — leads to calm, to direct knowledge, to self-awakening, to Unbinding."

SN 56.11

"Và thế nào là con đường Trung đạo, này các Tỷ-kheo, do Như Lai chánh giác, tác thành mắt, tác thành trí, đưa đến an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn? Chính là con đường Thánh đạo Tám ngành, tức là: chánh tri kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định. Đây là con đường trung đạo, này các Tỷ-kheo, do Như Lai chánh giác, tác thành mắt, tác thành trí, đưa đến an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn."

SN 56.11

§ 30. Analysis of the Path.

"Monks, what is the noble eightfold path? Right view, right resolve, right speech, right action, right livelihood, right effort, right mindfulness, right concentration.

§ 30. Analysis of the Path.

"Này các Tỷ-kheo, thế nào là con đường Thánh đạo Tám ngành ? Tức là: Chánh Tri kiến, Chánh Tư duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh tấn, Chánh Niệm, Chánh Định.

"And what is right view? Knowledge with regard to stress, knowledge with regard to the origination of stress, knowledge with regard to the cessation of stress, knowledge with regard to the way of practice leading to the cessation of stress: This is called right view.

"Và thế nào là chánh tri kiến ? Này các Tỷ-kheo, chính là trí về khổ, trí về khổ tập, trí về khổ diệt, trí về con đường đưa đến khổ diệt. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là chánh tri kiến.

"And what is right resolve? Resolve aimed at freedom from sensuality, at freedom from ill will, at harmlessness: This is called right resolve.

"Và thế nào là chánh tư duy ? Này các Tỷ-kheo, chính là xuất ly tư duy, vô sân tư duy, vô hại tư duy. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là chánh tư duy.

"And what is right speech? Abstaining from lying, from divisive speech, from abusive speech, & from idle chatter: This is called right speech.

"Và thế nào là chánh ngữ? Này các Tỷ-kheo, chính là từ bỏ nói láo, từ bỏ nói hai lưỡi, từ bỏ nói lời độc ác, từ bỏ nói lời phù phiếm. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là chánh ngữ.

"And what is right action? Abstaining from taking life, from stealing, & from unchastity. This is called right action.

"Và thế nào là chánh nghiệp ? Này các Tỷ-kheo, chính là từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ phi Phạm hạnh. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là chánh nghiệp.

"And what is right livelihood? There is the case where a disciple of the noble ones, having abandoned dishonest livelihood, keeps his life going with right livelihood: This is called right livelihood.

"Và thế nào là chánh mạng? Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử đoạn trừ tà mạng, nuôi sống với chánh mạng. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là chánh mạng.

"And what is right effort? There is the case where a monk generates desire, endeavors, activates persistence, upholds, & exerts his intent for the sake of the non-arising of evil, unskillful qualities that have not yet arisen... for the sake of the abandoning of evil, unskillful qualities that have arisen... for the sake of the arising of skillful qualities that have not yet arisen...(and) for the maintenance, non-confusion, increase, plenitude, development, & culmination of skillful qualities that have arisen: This is called right effort.

"Và thế nào là chánh tinh tấn ? Ở đây, này các Tỷ-kheo, với mục đích khiến cho các ác, bất thiện pháp từ trước chưa sanh không cho sanh khởi, Khởi lên ư muốn, cố gắng, tinh tấn, sách tấn, tŕ tâm; với mục đích khiến cho các ác, bất thiện pháp đă sanh được trừ diệt, Khởi lên ư muốn, cố gắng, tinh tấn, sách tấn, tŕ tâm; với mục đích khiến cho các thiện pháp từ trước chưa sanh nay được sanh khởi, Khởi lên ư muốn, cố gắng, tinh tấn, sách tấn, tŕ tâm; với mục đích khiến cho các thiện pháp đă được sanh có thể duy tŕ, không có lu mờ, được tăng trưởng, được quảng đại, được tu tập, được viên măn, Này các Tỷ-kheo, đây gọi là chánh tinh tấn.

"And what is right mindfulness? There is the case where a monk remains focused on the body in & of itself — ardent, alert, & mindful — putting away greed & distress with reference to the world. He remains focused on feelings in & of themselves... the mind in & of itself... mental qualities in & of themselves — ardent, alert, & mindful — putting aside greed & distress with reference to the world. This is called right mindfulness.

"Và thế nào là chánh niệm ? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo sống quán thân trên thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, với mục đích điều phục tham ưu ở đời; -Tỷ-kheo sống quán thọ trên các thọ, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm với mục đích điều phục tham ưu ở đời; -Tỷ-kheo sống quán tâm trên tâm, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm với mục đích điều phục tham ưu ở đời; -Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm với mục đích điều phục tham ưu ở đời. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là chánh niệm.

"And what is right concentration? There is the case where a monk — quite withdrawn from sensuality, withdrawn from unskillful (mental) qualities — enters & remains in the first jhana: rapture & pleasure born from withdrawal, accompanied by directed thought & evaluation. With the stilling of directed thought & evaluation, he enters & remains in the second jhana: rapture & pleasure born of composure, unification of awareness free from directed thought & evaluation — internal assurance. With the fading of rapture he remains in equanimity, mindful, & fully alert, and physically sensitive of pleasure. He enters & remains in the third jhana, and of him the Noble Ones declare, 'Equanimous & mindful, he has a pleasurable abiding.' With the abandoning of pleasure & pain — as with the earlier disappearance of elation & distress — he enters & remains in the fourth jhana: purity of equanimity & mindfulness, neither pleasure nor pain. This is called right concentration."

SN 45.8

"Và thế nào là chánh định ? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ly dục, ly pháp bất thiện, chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ. -Làm cho tịnh chỉ tầm và tứ, chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm, không tứ, nội tỉnh, nhất tâm. -Vị ấy ly hỷ trú xả, chánh niệm, tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và trú Thiền thứ ba. -Xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đă cảm thọ trước, chứng và trú Thiền thứ tư, không khổ không lạc, xả niệm thanh tịnh. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là chánh định.

SN 45.8

§ 31. "Suppose a man in need of oil, looking for oil, wandering in search of oil, would pile gravel in a tub and press it, sprinkling it again & again with water. If he were to pile gravel in a tub and press it, sprinkling it again & again with water even when having made a wish [for results] ... having made no wish ... both having made a wish and having made no wish ... neither having made a wish nor having made no wish, he would be incapable of obtaining results. Why is that? Because it is an inappropriate way of obtaining results.

§ 31. "Ví như, này Bhumija, một người cần dầu, t́m cầu dầu, đi chỗ này chỗ kia để t́m dầu. Sau khi đổ cát vào thùng, tiếp tục rưới nước rồi ép (cát cho ra dầu). Nếu người ấy có ước nguyện, sau khi đổ cát vào thùng, tiếp tục rưới nước rồi ép (cát cho ra dầu), người ấy không lấy được dầu. Nếu người ấy không có ước nguyện, sau khi đổ cát vào thùng, tiếp tục rưới nước rồi ép (cát cho ra dầu), người ấy không lấy được dầu. Nếu người ấy có và không có ước nguyện, sau khi đổ cát vào thùng, tiếp tục rưới nước rồi ép (cát cho ra dầu), người ấy không lấy được dầu. Nếu người ấy không có và không không có ước nguyện, sau khi đổ cát vào thùng, tiếp tục rưới nước rồi ép (cát cho ra dầu), người ấy không lấy được dầu. V́ sao vậy ? Đây không phải là phương pháp, này Bhumija, để lấy được dầu.

"In the same way, any priests or contemplatives endowed with wrong view, wrong resolve, wrong speech, wrong action, wrong livelihood, wrong effort, wrong mindfulness, & wrong concentration: If they follow the holy life even when having made a wish [for results] ... having made no wish... both having made a wish and having made no wish ... neither having made a wish nor having made no wish, they are incapable of obtaining results. Why is that? Because it is an inappropriate way of obtaining results....

"Cũng vậy, này Bhumija, những vị Sa-môn hay Bà-la-môn có tà kiến, tà tư duy, tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng, tà tinh tấn, tà niệm, tà định, nếu họ có ước nguyện hành Phạm hạnh, họ không đạt được quả vị; nếu họ không ước nguyện hành Phạm hạnh, họ không đạt được quả vị; nếu họ có và không có ước nguyện hành Phạm hạnh, họ không đạt được quả vị; nếu họ không có và không không có ước nguyện, hành Phạm hạnh thời họ không đạt được quả vị. V́ sao vậy ? Đây không phải là phương pháp này Bhumija, để đạt được quả vị.

"Suppose a man in need of oil, looking for oil, wandering in search of oil, would pile sesame seeds in a tub and press them, sprinkling them again & again with water. If he were to pile sesame seeds in a tub and press them, sprinkling them again & again with water, even when having made a wish [for results] ... having made no wish ... both having made a wish and having made no wish ... neither having made a wish nor having made no wish, he would be capable of obtaining results. Why is that? Because it is an appropriate way of obtaining results.

"Ví như, này Bhumija, một người cần dầu, cầu t́m dầu, đi chỗ này chỗ kia để t́m dầu, sau khi đổ những hột giống dầu vào cái thùng, tiếp tục rưới nước rồi ép (cho ra dầu). Nếu người ấy có ước nguyện, sau khi đổ những giống dầu vào trong cái thùng, tiếp tục rưới nước rồi ép (cho ra dầu), thời người ấy lấy được dầu. Nếu người ấy không có ước nguyện; nếu người ấy có và không có ước nguyện; nếu người ấy không có và không không có ước nguyện, sau khi đổ những hột giống dầu vào trong cái thùng, tiếp tục rưới nước rồi ép (cho ra dầu), thời người ấy lấy được dầu. V́ cớ sao ? Này Bhumija, đây là phương pháp để lấy được dầu.

"In the same way, any priests or contemplatives endowed with right view, right resolve, right speech, right action, right livelihood, right effort, right mindfulness, & right concentration: If they follow the holy life even when having made a wish [for results] ... having made no wish... both having made a wish and having made no wish ... neither having made a wish nor having made no wish, they are capable of obtaining results. Why is that? Because it is an appropriate way of obtaining results."

MN 126

Cũng vậy, này Bhumija những vị Sa-môn hay Bà-la-môn nào có chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, có chánh định. Nếu họ có ước nguyện, hành Phạm hạnh, thời họ đạt được quả vị; nếu họ không có ước nguyện; nếu họ có và không có ước nguyện, nếu họ không có và không không có ước nguyện, hành Phạm hạnh, thời họ đạt được quả vị. V́ cớ sao ? Này Bhumija, đây là phương pháp có thể đạt được quả vị.

MN 126

§ 32. "Monks, ignorance is the leader in the attainment of unskillful qualities, followed by lack of conscience & lack of concern. In a unknowledgeable person, immersed in ignorance, wrong view arises. In one of wrong view, wrong resolve arises. In one of wrong resolve, wrong speech .... In one of wrong speech, wrong action .... In one of wrong action, wrong livelihood .... In one of wrong livelihood, wrong effort .... In one of wrong effort, wrong mindfulness .... In one of wrong mindfulness, wrong concentration arises.

§ 32. "Khi nào vô minh dẫn đầu, này các Tỷ-kheo, đưa đến sự thành tựu các pháp bất thiện, thời vô tàm, vô quư nối tiếp theo. -Với kẻ bị vô minh chi phối, vô trí, này các Tỷ-kheo, tà kiến sanh. -Đối với kẻ có tà kiến, tà tư duy sanh. -Đối với kẻ có tà tư duy, tà ngữ sanh. -Đối với kẻ có tà ngữ, tà nghiệp sanh. -Đối với kẻ có tà nghiệp, tà mạng sanh. -Đối với kẻ có tà mạng, tà tinh tấn sanh. -Đối với kẻ có tà tinh tấn, tà niệm sanh. -Đối với kẻ có tà niệm, tà định sanh.

"Clear knowing is the leader in the attainment of skillful qualities, followed by conscience & concern. In a knowledgeable person, immersed in clear knowing, right view arises. In one of right view, right resolve arises. In one of right resolve, right speech .... In one of right speech, right action .... In one of right action, right livelihood .... In one of right livelihood, right effort .... In one of right effort, right mindfulness .... In one of right mindfulness, right concentration arises."

SN 45.1

"Khi nào minh dẫn đầu, này các Tỷ-kheo, đưa đến sự thành tựu các thiện pháp, thời tàm và quư nối tiếp theo. -Đối với vị được minh chi phối, có trí, này các Tỷ-kheo, chánh kiến sanh. -Đối với vị chánh kiến, chánh tư duy sanh. -Đối với vị chánh tư duy, chánh ngữ sanh. -Đối với vị chánh ngữ, chánh nghiệp sanh. -Đối với vị chánh nghiệp, chánh mạng sanh. -Đối với vị chánh mạng, chánh tinh tấn sanh. -Đối với vị chánh tinh tấn, chánh niệm sanh. -Đối với vị chánh niệm, chánh định sanh."

SN 45.1

§ 33. Ven. Ananda went to the Blessed One and, on arrival, having bowed down to the Blessed One, sat to one side. As he was sitting there, Ven. Ananda said to the Blessed One, "This is half of the holy life, lord: having admirable people as friends, companions, & colleagues."

§ 33. Tôn giả Ananda đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi một bên, Tôn giả Ananda bạch Thế Tôn:"Một nửa Phạm hạnh này, bạch Thế Tôn, là thiện bạn hữu (kalyàsamittatà), thiện bạn đảng (kalyànasahàyatà), thiện thân t́nh (kalyàsam-pavankatà)."

"Don't say that, Ananda. Don't say that. Having admirable people as friends, companions, & colleagues is actually the whole of the holy life. When a monk has admirable people as friends, companions, & colleagues, he can be expected to develop & pursue the noble eightfold path.

"Chớ có nói vậy, này Ananda ! Chớ có nói vậy, này Ananda ! Toàn bộ Phạm hạnh này, này Ananda, là thiện bạn hữu, thiện bạn đảng, thiện thân t́nh. Với Tỷ-kheo thiện bạn hữu, thiện bạn đảng, thiện thân t́nh, này Ananda, thời được chờ đợi Thánh đạo Tám ngành được tu tập, Thánh đạo Tám ngành được làm cho viên măn.

"And how does a monk who has admirable people as friends, companions, & colleagues, develop & pursue the noble eightfold path? There is the case where a monk develops right view dependent on seclusion, dependent on dispassion, dependent on cessation, resulting in relinquishment. He develops right resolve ... right speech ... right action ... right livelihood ... right effort ... right mindfulness ... right concentration dependent on seclusion, dependent on dispassion, dependent on cessation, resulting in relinquishment. This is how a monk who has admirable people as friends, companions, & colleagues, develops & pursues the noble eightfold path.

"Và này Ananda, thế nào là Tỷ-kheo thiện bạn hữu, thiện bạn đảng, thiện thân t́nh, tu tập và làm cho viên măn Thánh đạo Tám ngành ? -Ở đây, này Ananda, Tỷ-kheo tu tập chánh tri kiến liên hệ đến viễn ly, liên hệ đến ly tham, liên hệ đến đoạn diệt, hướng đến từ bỏ. -Vị ấy tu tập chánh tư duy... -Vị ấy tu tập chánh ngữ... -Vị ấy tu tập chánh nghiệp... -Vị ấy tu tập chánh mạng... -Vị ấy tu tập chánh tinh tấn... -Vị ấy tu tập chánh niệm... -Vị ấy tu tập chánh định liên hệ đến viễn ly, liên hệ đến ly tham, liên hệ đến đoạn diệt, hướng đến từ bỏ. Như vậy, này Ananda, là Tỷ-kheo thiện bạn hữu, thiện bạn đảng, thiện thân t́nh, tu tập Thánh đạo Tám ngành, làm cho sung măn Thánh đạo Tám ngành.

"And through this line of reasoning one may know how having admirable people as friends, companions, & colleagues is actually the whole of the holy life: It is in dependence on me as an admirable friend that beings subject to birth have gained release from birth, that beings subject to aging have gained release from aging, that beings subject to death have gained release from death, that beings subject to sorrow, lamentation, pain, distress, & despair have gained release from sorrow, lamentation, pain, distress, & despair. It is through this line of reasoning that one may know how having admirable people as friends, companions, & colleagues is actually the whole of the holy life."

SN 45.2

"Này Ananda, chính với pháp môn này, các Ông cần phải hiểu thế nào toàn bộ Phạm hạnh này là thiện bạn hữu, thiện bạn đảng, thiện thân t́nh. Do Ta lấy thiện làm bạn hữu, này Ananda, nên các chúng sanh bị sanh được giải thoát khỏi sanh; các chúng sanh bị già được giải thoát khỏi già; các chúng sanh bị chết được giải thoát khỏi chết; các chúng sanh bị sầu, bi, khổ, ưu, năo được giải thoát khỏi sầu, bi, khổ, ưu, năo. Chính với pháp môn này, này Ananda, các Ông cần phải hiểu thế nào toàn bộ Phạm hạnh này là thiện bạn hữu, thiện bạn đảng, thiện thân t́nh."

SN 45.2

§ 34. More on Right View.

"And how is right view the forerunner? One discerns wrong view as wrong view. One discerns right view as right view. This is one's right view. And what is wrong view? 'There is nothing given, nothing offered, nothing sacrificed. There is no fruit or result of good or bad actions. There is no this world, no next world, no mother, no father, no spontaneously reborn beings; no priests or contemplatives who, faring rightly & practicing rightly, proclaim this world & the next after having directly known & realized it for themselves.' This is wrong view.

§ 34. More on Right View.

"Và như thế nào là, các Tỷ-kheo, chánh kiến đi hàng đầu ? Tuệ tri tà kiến là tà kiến, tuệ tri chánh kiến là chánh kiến. Như vậy là chánh kiến của vị ấy. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là tà kiến ? Không có bố thí, không có cúng dường, không có tế tự, không có quả báo các nghiệp thiện ác, không có đời này, không có đời khác, không có mẹ, không có cha, không có các loại hóa sanh; ở đời không có các vị Sa-môn, Bà-la-môn, chánh hướng, chánh hạnh, sau khi với thượng trí tự ḿnh chứng đạt lại tuyên bố lên. Như vậy, này các Tỷ-kheo là tà kiến.

"And what is right view? Right view, I tell you, is of two sorts: There is right view with fermentations, siding with merit, resulting in the paraphernalia (of becoming); and there is noble right view, free from fermentations, transcendent, a factor of the path.

"Và này các Tỷ-kheo, thế nào là chánh kiến ? Chánh kiến này các Tỷ-kheo, Ta nói có hai loại. Này các Tỷ-kheo, có loại chánh kiến hữu lậu, thuộc phước báo, đưa đến quả sanh y (upadhivepakka); có loại chánh kiến, này các Tỷ-kheo, thuộc bậc Thánh, vô lậu, siêu thế, thuộc đạo chi (magganga).

"And what is the right view that has fermentations, sides with merit, & results in paraphernalia? 'There is what is given, what is offered, what is sacrificed. There are fruits & results of good & bad actions. There is this world & the next world. There is mother & father. There are spontaneously reborn beings; there are priests & contemplatives who, faring rightly & practicing rightly, proclaim this world & the next after having directly known & realized it for themselves.' This is the right view that has fermentations, sides with merit, & results in paraphernalia.

"Và này các Tỷ-kheo, thế nào là chánh kiến hữu lậu, thuộc phước báo, đưa đến quả sanh y ? Có bố thí, có cúng dường, có tế tự, có quả báo các nghiệp thiện ác, có đời này, có đời khác, có mẹ, có cha, có các loại hóa sanh; ở đời có các vị Sa-môn, Bà-la-môn, chánh hướng, chánh hạnh, sau khi với thượng trí tự ḿnh chứng đạt đời này và đời khác lại tuyên bố lên. Như vậy, này các Tỷ-kheo là chánh kiến hữu lậu, thuộc phước báo, đưa đến quả sanh y.

"And what is the right view that is free from fermentations, transcendent, a factor of the path? The discernment, the faculty of discernment, the strength of discernment, analysis of qualities as a factor for Awakening, the path factor of right view in one developing the noble path whose mind is noble, whose mind is free from fermentations, who is fully possessed of the noble path. This is the right view that is free from fermentations, transcendent, a factor of the path.

"Và này các Tỷ-kheo, thế nào là chánh kiến thuộc bậc Thánh, vô lậu, siêu thế, thuộc đạo chi ? Phàm cái ǵ, này các Tỷ-kheo, thuộc trí tuệ, tuệ căn, tuệ lực, trạch pháp, giác chi, chánh kiến, đạo chi của một vị tu tập Thánh đạo, thành thục trong Thánh đạo, có vô lậu tâm, có Thánh tâm. Chánh kiến như vậy, này các Tỷ-kheo, thuộc bậc Thánh, vô lậu, siêu thế, thuộc đạo chi.

"One tries to abandon wrong view & to enter into right view: This is one's right effort. One is mindful to abandon wrong view & to enter & remain in right view: This is one's right mindfulness. Thus these three qualities — right view, right effort, & right mindfulness — run & circle around right view."

MN 117

"Ai tinh tấn đoạn trừ tà kiến, thành tựu chánh kiến; như vậy là chánh tinh tấn của vị ấy. Ai chánh niệm đoạn trừ tà kiến, chánh niệm đạt được và an trú chánh kiến; như vậy là chánh niệm của vị ấy. Như vậy ba pháp này chạy theo, chạy ṿng theo chánh kiến, tức là chánh kiến, chánh tinh tấn, chánh niệm."

MN 117

§ 35. More on Right Action & Right Speech.

"Having thus gone forth, following the training & way of life of the monks, abandoning the taking of life, he abstains from the taking of life. He dwells with his rod laid down, his knife laid down, scrupulous, kind, compassionate for the welfare of all living beings. Abandoning the taking of what is not given, he abstains from taking what is not given. He takes only what is given, accepts only what is given, lives not by stealth but by means of a self that has become pure. Abandoning uncelibacy, he lives a celibate life, aloof, refraining from the sexual act that is the villager's way.

^^^^^

"Abandoning false speech, he abstains from false speech. He speaks the truth, holds to the truth, is firm, reliable, no deceiver of the world. Abandoning divisive speech he abstains from divisive speech. What he has heard here he does not tell there to break those people apart from the people here. What he has heard there he does not tell here to break these people apart from the people there. Thus reconciling those who have broken apart or cementing those who are united, he loves concord, delights in concord, enjoys concord, speaks things that create concord. Abandoning abusive speech, he abstains from abusive speech. He speaks words that are soothing to the ear, that are affectionate, that go to the heart, that are polite, appealing & pleasing to people at large. Abandoning idle chatter, he abstains from idle chatter. He speaks in season, speaks what is factual, what is in accordance with the goal, the Dhamma, & the discipline. He speaks words worth treasuring, seasonable, reasonable, circumscribed, connected with the goal."

— AN 10.99

^^^^^

§ 36. More on Right Action & Right Speech for Lay People.

"Abandoning sensual misconduct, he abstains from sensual misconduct. He does not get sexually involved with those who are protected by their mothers, their fathers, their brothers, their sisters, their relatives, or their Dhamma; those with husbands, those who entail punishments, or even those crowned with flowers by another man.

§ 36. More on Right Action & Right Speech for Lay People.

"Đoạn tấn tà hạnh trong các dục, từ bỏ tà hạnh trong các dục, với hạng nữ nhân có mẹ che chở, có cha che chở, có anh che chở, có chị che chở, có bà con che chở, có pháp che chở, đă có chồng, được h́nh phạt gậy gộc bảo vệ, cho đến những nữ nhân được trang sức bằng ṿng hoa (đám cưới).

"Abandoning false speech, he abstains from false speech. When he has been called to a town meeting, a group meeting, a gathering of his relatives, his guild, or of the royalty (i.e., a royal court proceeding), if he is asked as a witness, 'Come & tell, good man, what you know': If he doesn't know, he says, 'I don't know.' If he does know, he says, 'I know.' If he hasn't seen, he says, 'I haven't seen.' If he has seen, he says, 'I have seen.' Thus he doesn't consciously tell a lie for his own sake, for the sake of another, or for the sake of any reward."

AN 10.176

"Đoạn tận nói láo, từ bỏ nói láo, đến chỗ tập hội hay đến chỗ chúng tội, hay đến giữa các thân tộc, hay đến giữa các tổ hợp, hay đến giữa các vương tộc, khi bị dẫn xuất làm chứng và được hỏi : "Này người kia, hăy nói những ǵ người biết". Nếu không biết, người ấy nói : "Tôi không biết". Nếu biết, người ấy nói : "Tôi biết". Hay nếu không thấy, người ấy nói : "Tôi không thấy". Nếu thấy, người ấy nói : "Tôi thấy". Như vậy lời nói của người ấy không trở thành cố ư vọng ngữ, hoặc nguyên nhân v́ ḿnh, hoặc nguyên nhân v́ người, hoặc nguyên nhân v́ một vài quyền lợi ǵ."

AN 10.176

§ 37. Right Mindfulness.

"This is the direct path for the purification of beings, for the overcoming of sorrow & lamentation, for the disappearance of pain & distress, for the attainment of the right method, & for the realization of Unbinding — in other words, the four frames of reference. What four?

§ 37. Right Mindfulness.

"Này các Tỷ-kheo, đây là con đường độc nhất đưa đến thanh tịnh cho chúng sanh, vượt khỏi sầu năo, diệt trừ khổ ưu, thành tựu chánh trí, chứng ngộ Niết-bàn. Đó là Bốn Niệm xứ. Thế nào là bốn?"

"There is the case where a monk remains focused on the body in & of itself — ardent, alert, & mindful — putting aside greed & distress with reference to the world. He remains focused on feelings... mind... mental qualities in & of themselves — ardent, alert, & mindful — putting aside greed & distress with reference to the world."

"Này các Tỷ-kheo, ở đây Tỷ-kheo sống quán thân trên thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời; sống quán thọ trên các thọ, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời; sống quán tâm trên tâm, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời; sống quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời."

Body

"And how is does the monk remain focused on the body in & of itself? There is the case of a monk who, having gone to the wilderness, to the shade of a tree, or to an empty building, sits down folding his legs crosswise, holding his body erect and setting mindfulness to the fore [lit: to the front of the chest]. Always mindful, he breathes in; mindful he breathes out.

Thân

"Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo sống quán thân trên thân? Này các Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo đi đến khu rừng, đi đến gốc cây, hay đi đến ngôi nhà trống, và ngồi kiết già, lưng thẳng và an trú chánh niệm trước mặt. Tỉnh giác, vị ấy thở vô; tỉnh giác, vị ấy thở ra.

"Breathing in long, he discerns that he is breathing in long; or breathing out long, he discerns that he is breathing out long. Or breathing in short, he discerns that he is breathing in short; or breathing out short, he discerns that he is breathing out short. He trains himself to breathe in sensitive to the entire body and to breathe out sensitive to the entire body. He trains himself to breathe in calming bodily fabrications and to breathe out calming bodily fabrications. Just as a skilled turner or his apprentice, when making a long turn, discerns that he is making a long turn, or when making a short turn discerns that he is making a short turn; in the same way the monk, when breathing in long, discerns that he is breathing in long; or breathing out short, he discerns that he is breathing out short... He trains himself to breathe in calming bodily fabrications, and to breathe out calming bodily fabrication.

"Thở vô dài, vị ấy tuệ tri: "Tôi thở vô dài"; hay thở ra dài, vị ấy tuệ tri: "Tôi thở ra dài"; hay thở vô ngắn, vị ấy tuệ tri: "Tôi thở vô ngắn"; hay thở ra ngắn, vị ấy tuệ tri: "Tôi thở ra ngắn". "Cảm giác toàn thân, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập; "Cảm giác toàn thân, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập; "An tịnh toàn thân, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập; "An tịnh toàn thân, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. Này các Tỷ-kheo, như người thợ quay hay học tṛ người thợ quay thiện xảo khi quay dài, tuệ tri: "Tôi quay dài" hay khi quay ngắn, tuệ tri: "Tôi quay ngắn". Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo thở vô dài, tuệ tri: "Tôi thở vô dài"; hay thở ra dài, tuệ tri: "Tôi thở ra dài"; hay thở vô ngắn, tuệ tri: "Tôi thở vô ngắn"; hay thở ra ngắn, tuệ tri: "Tôi thở ra ngắn". "Cảm giác toàn thân, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập; "Cảm giác toàn thân, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập; "An tịnh toàn thân, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập; "An tịnh toàn thân, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập.

"In this way he remains focused internally on the body in & of itself, or externally on the body in & of itself, or both internally & externally on the body in & of itself. Or he remains focused on the phenomenon of origination with regard to the body, on the phenomenon of passing away with regard to the body, or on the phenomenon of origination & passing away with regard to the body. Or his mindfulness that 'There is a body' is maintained to the extent of knowledge & remembrance. And he remains unsustained by (not clinging to) anything in the world. This is how a monk remains focused on the body in & of itself.

"Như vậy, vị ấy sống quán thân trên nội thân hay sống quán thân trên ngoại thân; hay sống quán thân trên cả nội thân, ngoại thân; hay vị ấy sống quán tánh sanh khởi trên thân; hay sống quán tánh diệt tận trên thân; hay sống quán tánh sanh diệt trên thân. "Có thân đây", vị ấy an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy không nương tựa, không chấp trước vật ǵ trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo sống quán thân trên thân.

"Furthermore, when walking, the monk discerns that he is walking. When standing, he discerns that he is standing. When sitting, he discerns that he is sitting. When lying down, he discerns that he is lying down. Or however his body is disposed, that is how he discerns it.

"Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đi, tuệ tri: "Tôi đi", hay đứng, tuệ tri: "Tôi đứng", hay ngồi, tuệ tri: "Tôi ngồi", hay nằm, tuệ tri: "Tôi nằm". Thân thể được sử dụng như thế nào, vị ấy tuệ tri thân như thế ấy.

"In this way he remains focused internally on the body in & of itself, or focused externally... unsustained by anything in the world. This is how a monk remains focused on the body in & of itself.

"Vị ấy sống quán thân trên nội thân; hay vị ấy sống quán thân trên ngoại thân; hay vị ấy sống quán thân trên nội thân, ngoại thân; hay vị ấy sống quán tánh sanh khởi trên thân; hay vị ấy sống quán tánh diệt tận trên thân; hay vị ấy sống quán tánh sanh diệt trên thân. "Có thân đây", vị ấy an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật ǵ trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo sống quán thân trên thân.

"Furthermore, when going forward & returning, he makes himself fully alert; when looking toward & looking away... when bending & extending his limbs... when carrying his outer cloak, his upper robe & his bowl... when eating, drinking, chewing, & savoring... when urinating & defecating... when walking, standing, sitting, falling asleep, waking up, talking, & remaining silent, he makes himself fully alert.

"Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo, khi bước tới bước lui, biết rơ việc ḿnh đang làm; khi ngó tới ngó lui, biết rơ việc ḿnh đang làm; khi co tay, khi duỗi tay, biết rơ việc ḿnh đang làm; khi mang áo Sanghati (Tăng già lê), mang bát, mang y, biết rơ việc ḿnh đang làm; khi ăn, uống, nhai, nếm, biết rơ việc ḿnh đang làm; khi đại tiện, tiểu tiện, biết rơ việc ḿnh đang làm; khi đi, đứng, ngồi, ngủ, thức, nói, im lặng, biết rơ việc ḿnh đang làm.

"In this way he remains focused internally on the body in & of itself, or focused externally... unsustained by anything in the world. This is how a monk remains focused on the body in & of itself.

"Như vậy, vị ấy sống quán thân trên nội thân; hay sống quán thân trên ngoại thân; hay sống quán thân trên cả nội thân, ngoại thân... không chấp trước một vật ǵ trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo sống quán thân trên thân.

"Furthermore... just as if a sack with openings at both ends were full of various kinds of grain — wheat, rice, mung beans, kidney beans, sesame seeds, husked rice — and a man with good eyesight, pouring it out, were to reflect, 'This is wheat. This is rice. These are mung beans. These are kidney beans. These are sesame seeds. This is husked rice,' in the same way, monks, a monk reflects on this very body from the soles of the feet on up, from the crown of the head on down, surrounded by skin and full of various kinds of unclean things: 'In this body there are head hairs, body hairs, nails, teeth, skin, flesh, tendons, bones, bone marrow, kidneys, heart, liver, pleura, spleen, lungs, large intestines, small intestines, gorge, feces, bile, phlegm, pus, blood, sweat, fat, tears, skin-oil, saliva, mucus, fluid in the joints, urine.'

"Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo quán sát thân này, dưới từ bàn chân trở lên, trên cho đến đảnh tóc, bao bọc bởi da và chứa đầy những vật bất tịnh sai biệt. Trong thân này: "đây là tóc, lông, móng, răng, da, thịt, gân, xương, thận, tủy, tim, gan, hoành cách mô, lá lách, phổi, ruột, màng ruột, bụng, phân, mật, đàm (niêm dịch), mủ, máu, mồ hôi, mỡ, nước mắt, mỡ da, nước miếng, nước mủ, nước ở khớp xương, nước tiểu". Này các Tỷ-kheo, cũng như một bao đồ, hai đầu trống đựng đầy các loại hột như gạo, lúa, đậu xanh, đậu lớn, mè, gạo đă xay rồi. Một người có mắt, đổ các hột ấy ra và quán sát: "Đây là hột gạo, đây là hột lúa, đây là đậu xanh, đây là đậu lớn, đây là mè, đây là hột lúa đă xay rồi". Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo quán sát thân này dưới từ bàn chân trở lên, trên cho đến đảnh tóc, bao bọc bởi da và chứa đầy những vật bất tịnh sai biệt. Trong thân này: "đây là tóc, lông, móng, răng, da, thịt, gân, xương, tủy, thận, tim, gan, hoành cách mô, lá lách, phổi, ruột, màng ruột, bụng, phân, mật, đàm, mủ, máu, mồ hôi, mỡ, nước mắt, mỡ da, nước miếng, nước mủ, nước ở khớp xương, nước tiểu".

"In this way he remains focused internally on the body in & of itself, or focused externally... unsustained by anything in the world. This is how a monk remains focused on the body in & of itself.

"Như vậy, vị ấy sống quán thân trên nội thân; hay sống quán thân trên ngoại thân, hay sống quán thân trên nội thân, ngoại thân. Hay vị ấy sống quán tánh sanh khởi trên thân; hay sống quán tánh diệt tận trên thân; hay sống quán tánh sanh diệt trên thân. "Có thân đây", vị ấy an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật ǵ trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo sống quán thân trên thân.

"Furthermore... just as a skilled butcher or his apprentice, having killed a cow, would sit at a crossroads cutting it up into pieces, the monk contemplates this very body — however it stands, however it is disposed — in terms of properties: 'In this body there is the earth property, the liquid property, the heat property & the wind property.'

"Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo quán sát thân này về các vị trí các giới và sự sắp đặt các giới: "Trong thân này có địa đại, thủy đại, hỏa đại và phong đại". Này các Tỷ-kheo, như một người đồ tể thiện xảo, hay đệ tử của một người đổ tể giết một con ḅ, ngồi cắt chia từng thân phần tại ngă tư đường. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo quán sát thân này về vị trí các giới và về sự sắp đặt các giới: "Trong thân này có địa đại, thủy đại, hỏa đại và phong đại".

"In this way he remains focused internally on the body in & of itself, or focused externally... unsustained by anything in the world. This is how a monk remains focused on the body in & of itself.

"Như vậy, vị ấy sống quán thân trên nội thân; hay sống quán thân trên ngoại thân; hay sống quán thân trên nội thân, ngoại thân. Hay vị ấy sống quán tánh sanh khởi trên thân; hay sống quán tánh diệt tận trên thân; hay sống quán tánh sanh diệt trên thân. "Có thân đây", vị ấy an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật ǵ trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo sống quán thân trên thân.

"Furthermore, as if he were to see a corpse cast away in a charnel ground — one day, two days, three days dead — bloated, livid, & festering, he applies it to this very body, 'This body, too: Such is its nature, such is its future, such its unavoidable fate'...

"Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo như thấy một thi thể bị quăng bỏ trong nghĩa địa một ngày, hai ngày, ba ngày, thi thể ấy trương phồng lên, xanh đen lại, nát thối ra. Tỷ-kheo quán thân ấy như sau: "Thân này tánh chất là như vậy, bản tánh là như vậy, không vượt khỏi tánh chất ấy".

"Or again, as if he were to see a corpse cast away in a charnel ground, picked at by crows, vultures, & hawks, by dogs, hyenas, & various other creatures... a skeleton smeared with flesh & blood, connected with tendons... a fleshless skeleton smeared with blood, connected with tendons... a skeleton without flesh or blood, connected with tendons... bones detached from their tendons, scattered in all directions — here a hand bone, there a foot bone, here a shin bone, there a thigh bone, here a hip bone, there a back bone, here a rib, there a breast bone, here a shoulder bone, there a neck bone, here a jaw bone, there a tooth, here a skull... the bones whitened, somewhat like the color of shells... piled up, more than a year old... decomposed into a powder: He applies it to this very body, 'This body, too: Such is its nature, such is its future, such its unavoidable fate.'

"Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo như thấy một thi thể bị quăng bỏ trong nghĩa địa, bị các loài quạ ăn, hay bị các loài diều hâu ăn, hay bị các chim kên ăn, hay bị các loài chó ăn, hay bị các loài giả can ăn, hay bị các loài côn trùng ăn. Này các Tỷ-kheo, lại nữa, Tỷ-kheo như thấy một thi thể bị quăng bỏ trong nghĩa địa, với các bộ xương c̣n liên kết với nhau, c̣n dính thịt và máu, c̣n được các đường gân cột lại... với các bộ xương c̣n liên kết với nhau, không c̣n dính thịt nhưng c̣n dính máu, c̣n được các đường gân cột lại... với các bộ xương không c̣n dính thịt, dính máu, c̣n được các đường gân cột lại, chỉ c̣n có xương không dính lại với nhau, rải rác chỗ này chỗ kia. Ở đây là xương tay, ở đây là xương chân, ở đây là xương ống, ở đây là xương bắp vế, ở đây là xương mông, ở đây là xương sống, ở đây là xương đầu. Tỷ-kheo quán thân ấy như sau: "Thân này tánh chất là như vậy, bản tánh là như vậy, không vượt khỏi tánh chất ấy".

"In this way he remains focused internally on the body in & of itself, or externally on the body in & of itself, or both internally & externally on the body in & of itself. Or he remains focused on the phenomenon of origination with regard to the body, on the phenomenon of passing away with regard to the body, or on the phenomenon of origination & passing away with regard to the body. Or his mindfulness that 'There is a body' is maintained to the extent of knowledge & remembrance. And he remains unsustained by (not clinging to) anything in the world. This is how a monk remains focused on the body in & of itself."

"Như vậy, vị ấy sống quán thân trên nội thân; hay sống quán thân trên ngoại thân; hay sống quán thân trên nội thân, ngoại thân. Hay vị ấy sống quán tánh sanh khởi trên thân; hay vị ấy sống quán tánh diệt tận trên thân; hay vị ấy sống quán tánh sanh diệt trên thân. "Có thân đây", vị ấy sống an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật ǵ ở trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo sống quán thân trên thân."

Feelings

"And how does a monk remain focused on feelings in & of themselves? There is the case where a monk, when feeling a painful feeling, discerns that he is feeling a painful feeling. When feeling a pleasant feeling, he discerns that he is feeling a pleasant feeling. When feeling a neither-painful-nor-pleasant feeling, he discerns that he is feeling a neither-painful-nor-pleasant feeling.

Thọ

"Này các Tỷ-kheo, như thế nào là Tỷ-kheo sống quán thọ trên các thọ? Này các Tỷ-kheo, ở đây Tỷ-kheo khi cảm giác lạc thọ, tuệ tri: "Tôi cảm giác lạc thọ"; khi cảm giác khổ thọ, tuệ tri: "Tôi cảm giác khổ thọ"; khi cảm giác bất khổ bất lạc thọ, tuệ tri: "Tôi cảm giác bất khổ bất lạc thọ".

"When feeling a painful feeling of the flesh, he discerns that he is feeling a painful feeling of the flesh. When feeling a painful feeling not of the flesh, he discerns that he is feeling a painful feeling not of the flesh. When feeling a pleasant feeling of the flesh, he discerns that he is feeling a pleasant feeling of the flesh. When feeling a pleasant feeling not of the flesh, he discerns that he is feeling a pleasant feeling not of the flesh. When feeling a neither-painful-nor-pleasant feeling of the flesh, he discerns that he is feeling a neither-painful-nor-pleasant feeling of the flesh. When feeling a neither-painful-nor-pleasant feeling not of the flesh, he discerns that he is feeling a neither-painful-nor-pleasant feeling not of the flesh.

"Hay khi cảm giác lạc thọ thuộc vật chất, tuệ tri: "Tôi cảm giác lạc thọ thuộc vật chất"; hay khi cảm giác lạc thọ không thuộc vật chất, tuệ tri: "Tôi cảm giác lạc thọ không thuộc vật chất". Hay khi cảm giác khổ thọ thuộc vật chất, tuệ tri: "Tôi cảm giác khổ thọ thuộc vật chất"; hay khi cảm giác khổ thọ không thuộc vật chất, tuệ tri: "Tôi cảm giác khổ thọ không thuộc vật chất". Hay khi cảm giác bất khổ bất lạc thọ thuộc vật chất, tuệ tri: "Tôi cảm giác bất khổ bất lạc thọ thuộc vật chất"; hay khi cảm giác bất khổ bất lạc thọ không thuộc vật chất, tuệ tri: "Tôi cảm giác bất khổ bất lạc thọ không thuộc vật chất".

"In this way he remains focused internally on feelings in & of themselves, or externally on feelings in & of themselves, or both internally & externally on feelings in & of themselves. Or he remains focused on the phenomenon of origination with regard to feelings, on the phenomenon of passing away with regard to feelings, or on the phenomenon of origination & passing away with regard to feelings. Or his mindfulness that 'There are feelings' is maintained to the extent of knowledge & remembrance. And he remains unsustained by (not clinging to) anything in the world. This is how a monk remains focused on feelings in & of themselves."

"Như vậy, vị ấy sống quán thọ trên các nội thọ; hay sống quán thọ trên các ngoại thọ; hay sống quán thọ trên các nội thọ, ngoại thọ. Hay vị ấy sống quán tánh sanh khởi trên các thọ, hay sống quán tánh diệt tận trên các thọ; hay sống quán tánh sanh diệt trên các thọ. "Có thọ đây", vị ấy sống an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật ǵ trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy Tỷ-kheo sống quán thọ trên các thọ."

Mind

"And how does a monk remain focused on the mind in & of itself? There is the case where a monk, when the mind has passion, discerns that the mind has passion. When the mind is without passion, he discerns that the mind is without passion. When the mind has aversion, he discerns that the mind has aversion. When the mind is without aversion, he discerns that the mind is without aversion. When the mind has delusion, he discerns that the mind has delusion. When the mind is without delusion, he discerns that the mind is without delusion.

Tâm

"Này các Tỷ-kheo, như thế nào là Tỷ-kheo sống quán tâm trên tâm? Này các Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo, với tâm có tham, tuệ tri: "Tâm có tham"; hay với tâm không tham, tuệ tri: "Tâm không tham". Hay với tâm có sân, tuệ tri: "Tâm có sân" hay với tâm không sân, tuệ tri: "Tâm không sân". Hay với tâm có si, tuệ tri: "Tâm có si"; hay với tâm không si, tuệ tri: "Tâm không si".

"When the mind is restricted, he discerns that the mind is restricted. When the mind is scattered, he discerns that the mind is scattered. When the mind is enlarged, he discerns that the mind is enlarged. When the mind is not enlarged, he discerns that the mind is not enlarged. When the mind is surpassed, he discerns that the mind is surpassed. When the mind is unsurpassed, he discerns that the mind is unsurpassed. When the mind is concentrated, he discerns that the mind is concentrated. When the mind is not concentrated, he discerns that the mind is not concentrated. When the mind is released, he discerns that the mind is released. When the mind is not released, he discerns that the mind is not released.

"Hay với tâm thâu nhiếp, tuệ tri: "Tâm được thâu nhiếp". Hay với tâm tán loạn, tuệ tri: "Tâm bị tán loạn". Hay với tâm quảng đại, tuệ tri: "Tâm được quảng đại"; hay với tâm không quảng đại, tuệ tri: "Tâm không được quảng đại". Hay với tâm hữu hạn, tuệ tri: "Tâm hữu hạn". Hay với tâm vô thượng, tuệ tri: "Tâm vô thượng". Hay với tâm có định, tuệ tri: "Tâm có định"; hay với tâm không định, tuệ tri: "Tâm không định". Hay với tâm giải thoát, tuệ tri: "Tâm có giải thoát"; hay với tâm không giải thoát, tuệ tri: "Tâm không giải thoát".

"In this way he remains focused internally on the mind in & of itself, or externally on the mind in & of itself, or both internally & externally on the mind in & of itself. Or he remains focused on the phenomenon of origination with regard to the mind, on the phenomenon of passing away with regard to the mind, or on the phenomenon of origination & passing away with regard to the mind. Or his mindfulness that 'There is a mind' is maintained to the extent of knowledge & remembrance. And he remains unsustained by (not clinging to) anything in the world. This is how a monk remains focused on the mind in & of itself."

"Như vậy vị ấy sống quán tâm trên nội tâm; hay sống quán tâm trên ngoại tâm; hay sống quán tâm trên nội tâm, ngoại tâm. Hay sống quán tánh sanh khởi trên tâm; hay sống quán tánh diệt tận trên tâm; hay sống quán tánh sanh diệt trên tâm. "Có tâm đây", vị ấy sống an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật ǵ trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo sống quán tâm trên tâm."

Mental Qualities

"And how does a monk remain focused on mental qualities in & of themselves? There is the case where a monk remains focused on mental qualities in & of themselves with reference to the five hindrances.

Các Pháp

"Này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp? Này các Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với năm triền cái.

"And how does a monk remain focused on mental qualities in & of themselves with reference to the five hindrances? There is the case where, there being sensual desire present within, a monk discerns that 'There is sensual desire present within me.' Or, there being no sensual desire present within, he discerns that 'There is no sensual desire present within me.' He discerns how there is the arising of unarisen sensual desire. And he discerns how there is the abandoning of sensual desire once it has arisen. And he discerns how there is no further appearance in the future of sensual desire that has been abandoned. [The same formula is repeated for the remaining hindrances: ill will, sloth & drowsiness, restlessness & anxiety, and doubt.]

"Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với năm triền cái? Này các Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo nội tâm có ái dục, tuệ tri: "Nội tâm tôi có ái dục"; hay nội tâm không có ái dục, tuệ tri: "Nội tâm tôi không có ái dục". Và với ái dục chưa sanh nay sanh khởi, vị ấy tuệ tri như vậy; và với ái dục đă sanh nay được đoạn diệt, vị ấy tuệ tri như vậy; và với ái dục đă được đoạn diệt, tương lai không sanh khởi nữa, vị ấy tuệ tri như vậy. Hay nội tâm có sân hận, tuệ tri: "Nội tâm tôi có sân hận"; Hay nội tâm không có sân hận, tuệ tri: "Nội tâm tôi không có sân hận". Và với sân hận chưa sanh nay sanh khởi, vị ấy tuệ tri như vậy; và với sân hận đă sanh, nay được đoạn diệt, vị ấy tuệ tri như vậy; và với sân hận đă được đoạn diệt, tương lai không sanh khởi nữa, vị ấy tuệ tri như vậy. Hay nội tâm có hôn trầm thụy miên, tuệ tri: "Nội tâm tôi có hôn trầm thụy miên"; hay nội tâm không có hôn trầm thụy miên, tuệ tri: "Nội tâm tôi không có hôn trầm thụy miên". Và với hôn trầm thụy miên chưa sanh nay sanh khởi, vị ấy tuệ tri như vậy; và với hôn trầm thụy miên đă sanh nay được đoạn diệt, vị ấy tuệ tri như vậy; và với hôn trầm thụy miên đă được đoạn diệt, tương lai không sanh khởi nữa, vị ấy tuệ tri như vậy. Hay nội tâm có trạo hối, tuệ tri: "Nội tâm tôi có trạo hối"; hay nội tâm không có trạo hối, tuệ tri: "Nội tâm tôi không có trạo hối". Và với trạo hối chưa sanh nay sanh khởi, vị ấy tuệ tri như vậy; và với trạo hối đă sanh nay được đoạn diệt, vị ấy tuệ tri như vậy; và với trạo hối đă được đoạn diệt, tương lai không sanh khởi nữa, vị ấy tuệ tri như vậy. Hay nội tâm có nghi, tuệ tri: "Nội tâm tôi có nghi"; hay nội tâm không có nghi, tuệ tri: "Nội tâm tôi không có nghi". Và với nghi chưa sanh nay sanh khởi, vị ấy tuệ tri như vậy; và với nghi đă sanh nay được đoạn diệt, vị ấy tuệ tri như vậy; và với nghi đă được đoạn diệt, tương lai không sanh khởi nữa, vị ấy tuệ tri như vậy.

"In this way he remains focused internally on mental qualities in & of themselves, or externally on mental qualities in & of themselves, or both internally & externally on mental qualities in & of themselves. Or he remains focused on the phenomenon of origination with regard to mental qualities, on the phenomenon of passing away with regard to mental qualities, or on the phenomenon of origination & passing away with regard to mental qualities. Or his mindfulness that 'There are mental qualities' is maintained to the extent of knowledge & remembrance. And he remains unsustained by (not clinging to) anything in the world. This is how a monk remains focused on mental qualities in & of themselves with reference to the five hindrances...

"Như vậy vị ấy sống quán pháp trên các nội pháp; hay sống quán pháp trên các ngoại pháp; hay sống quán pháp trên các nội pháp, ngoại pháp. Hay vị ấy sống quán tánh sanh khởi trên các pháp; hay sống quán tánh diệt tận trên các pháp; hay sống quán tánh sanh diệt trên các pháp. "Có những pháp ở đây", vị ấy sống an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật ǵ trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với năm triền cái.

"Furthermore, the monk remains focused on mental qualities in & of themselves with reference to the seven factors for Awakening. And how does a monk remain focused on mental qualities in & of themselves with reference to the seven factors for Awakening? There is the case where, there being mindfulness as a factor for Awakening present within, a monk discerns that 'Mindfulness as a factor for Awakening is present within me.' Or, there being no mindfulness as a factor for Awakening present within, he discerns that 'Mindfulness as a factor for Awakening is not present within me.' He discerns how there is the arising of unarisen mindfulness as a factor for Awakening. And he discerns how there is the culmination of the development of mindfulness as a factor for Awakening once it has arisen. [The same formula is repeated for the remaining factors for Awakening: analysis of qualities, persistence, rapture, serenity, concentration, & equanimity.]

"Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với Bảy Giác chi. Này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với Bảy Giác chi? Này các Tỷ-kheo, ở đây Tỷ-kheo nội tâm có niệm giác chi, tuệ tri: "Nội tâm tôi có niệm giác chi"; hay nội tâm không có niệm giác chi, tuệ tri: "Nội tâm tôi không có ư niệm giác chi". Và với niệm giác chi chưa sanh nay sanh khởi, vị ấy tuệ tri như vậy, và với niệm giác chi đă sanh, nay được tu tập viên thành, vị ấy tuệ tri như vậy. -Hay nội tâm có trạch pháp giác chi... (như trên)... -Hay nội tâm có tinh tấn giác chi... (như trên)... -Hay nội tâm có hỷ giác chi... (như trên)... -Hay nội tâm có khinh an giác chi... (như trên)... -Hay nội tâm có định giác chi... (như trên)... -Hay nội tâm có xả giác chi, tuệ tri: "Nội tâm tôi có xả giác chi"; hay nội tâm không có xả giác chi, tuệ tri: "Nội tâm tôi không có xả giác chi". Và với xả giác chi chưa sanh nay sanh khởi, vị ấy tuệ tri như vậy, và với xả giác chi đă sanh nay được tu tập viên thành, vị ấy tuệ tri như vậy.

"In this way he remains focused internally on mental qualities in & of themselves, or externally... unsustained by (not clinging to) anything in the world. This is how a monk remains focused on mental qualities in & of themselves with reference to the seven factors for Awakening...

"Như vậy vị ấy sống quán pháp trên các nội pháp; hay sống quán pháp trên các ngoại pháp; hay sống quán pháp trên các nội pháp, ngoại pháp. Hay vị ấy sống quán tánh sanh khởi trên các pháp; hay sống quán tánh diệt tận trên các pháp; hay sống quán tánh sanh diệt trên các pháp. "Có những pháp ở đây", vị ấy sống an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật ǵ trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với Bảy Giác Chi.

"Now, in anyone who would develop these four frames of reference in this way for seven years, one of two fruits can be expected: either gnosis right here & now, or — if there be any remnant of clinging/sustenance — non-return.

"Này các Tỷ-kheo, vị nào tu tập Bốn Niệm xứ này như vậy trong bảy năm, vị ấy có thể chứng một trong hai quả sau đây: Một là chứng Chánh trí ngay trong hiện tại, hay nếu c̣n hữu dư y, th́ chứng quả Bất hoàn.

"Let alone seven years. In anyone who would develop these four frames of reference in this way for six years... five... four... three... two years... one year... seven months... six months... five... four... three... two months... one month... half a month, one of two fruits can be expected: either gnosis right here & now, or — if there be any remnant of clinging/sustenance — non-return.

"Này các Tỷ-kheo, không cần ǵ đến bảy năm, một vị nào tu tập Bốn Niệm xứ này như vậy trong sáu năm, trong năm năm, trong bốn năm, trong ba năm, trong hai năm, trong một năm, vị ấy có thể chứng một trong hai quả sau đây: Một là chứng Chánh trí ngay trong hiện tại, hay nếu c̣n hữu dư y, th́ chứng quả Bất hoàn. Này các Tỷ-kheo, không cần ǵ đến một năm, một vị nào tu tập Bốn Niệm xứ này trong bảy tháng, vị ấy có thể chứng một trong hai quả sau đây: Một là chứng Chánh trí ngay trong hiện tại, hay nếu c̣n hữu dư y, th́ chứng quả Bất hoàn. Này các Tỷ-kheo, không cần ǵ bảy tháng, một vị nào tu tập Bốn Niệm xứ này trong sáu tháng, trong năm tháng, trong bốn tháng, trong ba tháng, trong hai tháng, trong một tháng, trong nửa tháng, vị ấy có thể chứng một trong hai quả sau đây: Một là chứng Chánh trí ngay trong hiện tại, hay nếu c̣n hữu dư y, th́ chứng quả Bất hoàn.

"Let alone half a month. In anyone who would develop these four frames of reference in this way for seven days, one of two fruits can be expected: either gnosis right here & now, or — if there be any remnant of clinging/sustenance — non-return.

"Này các Tỷ-kheo, không cần ǵ nửa tháng, một vị nào tu tập Bốn Niệm xứ này trong bảy ngày, vị ấy có thể chứng một trong hai quả sau đây: Một là chứng Chánh trí ngay trong hiện tại, hai là nếu c̣n hữu dư y, th́ chứng quả Bất hoàn.

"'This is the direct path for the purification of beings, for the overcoming of sorrow & lamentation, for the disappearance of pain & distress, for the attainment of the right method, & for the realization of Unbinding — in other words, the four frames of reference.' Thus was it said, and in reference to this was it said."

MN 10

"Này các Tỷ-kheo, đây là con đường độc nhất đưa đến thanh tịnh cho chúng sanh, vượt khỏi sầu năo, diệt trừ khổ ưu, thành tựu Chánh trí, chứng ngộ Niết-bàn. Đó là Bốn Niệm xứ."

MN 10

§ 38. Breath Meditation.

"And how is mindfulness of in-&-out breathing developed & pursued so as to bring the four frames of reference to their culmination?

§ 38. Breath Meditation.

"Và như thế nào, này các Tỷ-kheo, là nhập tức xuất tức niệm được tu tập ? Như thế nào, làm cho sung măn, khiến bốn niệm xứ được viên măn ?

"On whatever occasion a monk (1) breathing in long discerns that he is breathing in long; or breathing out long, discerns that he is breathing out long; (2) or breathing in short, discerns that he is breathing in short; or breathing out short, discerns that he is breathing out short; (3) trains himself to breathe in... &... out sensitive to the entire body; (4) trains himself to breathe in... &... out calming bodily fabrications: On that occasion, monks, the monk remains focused on the body in & of itself — ardent, alert, & mindful — putting aside greed & distress with reference to the world. I tell you, monks, that this — the in-&-out breath — is classed as a body among bodies, which is why the monk on that occasion remains focused on the body in & of itself — ardent, alert, & mindful — putting aside greed & distress with reference to the world.

Khi nào, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo thở vô dài, vị ấy biết : "Tôi thở vô dài". Hay khi thở ra dài, vị ấy biết "Tôi thở ra dài". Hay thở vô ngắn, vị ấy biết : "Tôi thở vô ngắn". Hay khi thở ra ngắn, vị ấy biết : "Tôi thở ra ngắn". "Cảm giác cả toàn thân, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Cảm giác cả toàn thân, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "An tịnh thân hành, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "An tịnh thân hành, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. Trong khi tùy quán thân trên thân, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo trú, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời. Này các Tỷ-kheo, đối với các thân, Ta nói đây là một, tức là thở vô thở ra. Do vậy, này các Tỷ-kheo, trong khi tùy quán thân trên thân, vị Tỷ-kheo trú, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời.

"On whatever occasion a monk (5) trains himself to breathe in... &... out sensitive to rapture; (6) trains himself to breathe in... &... out sensitive to pleasure; (7) trains himself to breathe in... &... out sensitive to mental fabrications; (8) trains himself to breathe in... &... out calming mental fabrications: On that occasion the monk remains focused on feelings in & of themselves — ardent, alert, & mindful — putting aside greed & distress with reference to the world. I tell you, monks, that this — careful attention to in-&-out breaths — is classed as a feeling among feelings, which is why the monk on that occasion remains focused on feelings in & of themselves — ardent, alert, & mindful — putting aside greed & distress with reference to the world.

Khi nào, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo nghĩ : "Cảm giác hỷ thọ, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Cảm giác hỷ thọ, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Cảm giác lạc thọ, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Cảm giác lạc thọ, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Cảm giác tâm hành, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Cảm giác tâm hành, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "An tịnh tâm hành tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "An tịnh tâm hành tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. Trong khi tùy quán thọ trên các thọ, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo trú, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, để chế ngự tham ưu ở đời. Này các Tỷ-kheo, đối với các cảm thọ, Ta nói đây là một, tức là thở vô thở ra. Do vậy này các Tỷ-kheo, trong khi tùy quán thọ trên các cảm thọ, Tỷ-kheo trú, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời.

"On whatever occasion a monk (9) trains himself to breathe in... &... out sensitive to the mind; (10) trains himself to breathe in... &... out satisfying the mind; (11) trains himself to breathe in... &... out steadying the mind; (12) trains himself to breathe in... &... out releasing the mind: On that occasion the monk remains focused on the mind in & of itself — ardent, alert, & mindful — putting aside greed & distress with reference to the world. I don't say that there is mindfulness of in-&-out breathing in one of confused mindfulness and no presence of mind, which is why the monk on that occasion remains focused on the mind in & of itself — ardent, alert, & mindful — putting aside greed & distress with reference to the world.

Khi nào, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nghĩ : "Cảm giác tâm, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Cảm giác tâm, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Với tâm hân hoan, tôi sẽ thở vô", vị ấy tu tập. "Với tâm hân hoan, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Với tâm Thiền định, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Với tâm Thiền định, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Với tâm giải thoát, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Với tâm giải thoát, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. Trong khi tùy quán tâm trên tâm, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo trú, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, để chế ngự tham ưu ở đời. Này các Tỷ-kheo, sự tu tập nhập tức xuất tức niệm không thể đến với kẻ thất niệm, không có tỉnh giác. Do vậy, này các Tỷ-kheo, trong khi tùy quán tâm trên tâm, Tỷ-kheo trú, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời.

"On whatever occasion a monk (13) trains himself to breathe in... &... out focusing on inconstancy; (14) trains himself to breathe in... &... out focusing on dispassion; (15) trains himself to breathe in... &... out focusing on cessation; (16) trains himself to breathe in... &... out focusing on relinquishment: On that occasion the monk remains focused on mental qualities in & of themselves — ardent, alert, & mindful — putting aside greed & distress with reference to the world. He who sees clearly with discernment the abandoning of greed & distress is one who oversees with equanimity, which is why the monk on that occasion remains focused on mental qualities in & of themselves — ardent, alert, & mindful — putting aside greed & distress with reference to the world.

Khi nào này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nghĩ : "Quán vô thường, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Quán vô thường, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Quán ly tham, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập "Quán ly tham, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Quán đoạn diệt, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Quán đoạn diệt, tôi sẽ thở ra, vị ấy tập. "Quán từ bỏ, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Quán từ bỏ, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. Trong khi tùy quán trên các pháp, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo an trú, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời. Vị ấy, do đoạn trừ tham ưu, sau khi thấy với trí tuệ, khéo nh́n (sự vật) với niệm xả ly. Do vậy, này các Tỷ-kheo, trong khi tùy quán pháp trên các pháp, Tỷ-kheo trú, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời.

"This is how mindfulness of in-&-out breathing is developed & pursued so as to bring the four frames of reference to their culmination."

MN 118

Nhập tức xuất tức niệm, này các Tỷ-kheo, được tu tập như vậy được làm cho sung măn như vậy, khiến cho bốn niệm xứ được viên măn.

§ 39. Mindfulness & Concentration.

"Having abandoned the five hindrances — imperfections of awareness that weaken discernment — the monk remains focused on the body in & of itself — ardent, alert, & mindful — putting aside greed & distress with reference to the world. He remains focused on feelings... mind... mental qualities in & of themselves — ardent, alert, & mindful — putting aside greed & distress with reference to the world. Just as if an elephant trainer were to plant a large post in the ground and were to bind a forest elephant to it by the neck in order to overcome its forest habits, overcome its forest memories & resolves, overcome its distraction, fatigue, & fever over leaving the forest, to make it delight in the town and to inculcate in it habits congenial to human beings. In the same way, these four frames of reference are bindings for the awareness of the disciple of the noble ones, for the sake of overcoming his household habits, overcoming his household memories & resolves, overcoming his distraction, fatigue, & fever over leaving the household life, for the attainment of the right method and the realization of Unbinding.

^^^^^

"Then the Tathagata trains him further: "Come, monk, remain focused on the body in & of itself, but do not think any thoughts connected with the body. Remain focused on feelings in & of themselves, but do not think any thoughts connected with feelings. Remain focused on the mind in & of itself, but do not think any thoughts connected with mind. Remain focused on mental qualities in & of themselves, but do not think any thoughts connected with mental qualities." With the stilling of directed thought & evaluation, he enters the second jhana..."

MN 125

^^^^^

§ 40. Right Concentration.

Visakha: "Now what is concentration, what qualities are its themes, what qualities are its requisites, and what is its development?"

§ 40. Right Concentration.

Visakha: "Thưa Ni sư thế nào là định, thế nào là định tướng, thế nào là định tư cụ, thế nào là định tu tập?

Sister Dhammadinna: "Singleness of mind is concentration; the four frames of reference are its themes; the four right exertions are its requisites; and any cultivation, development, & pursuit of these qualities is its development."

MN 44

Sister Dhammadinna: "Hiền giả Visakha, nhất tâm là định, Bốn Niệm Xứ là định tướng, Bốn Tinh cần là định tư cụ, sự luyện tập, sự tu tập, sự tái tu tập của những pháp ấy là định tu tập ở đây vậy."

MN 44

§ 41. "These are the four developments of concentration. What four? There is the development of concentration that, when developed & pursued, leads to a pleasant abiding in the here & now. There is the development of concentration that... leads to the attainment of knowledge & vision. There is the development of concentration that... leads to mindfulness & alertness. There is the development of concentration that, when developed & pursued, leads to the ending of the effluents.

§ 41. "Có bốn định tu tập này. Thế nào là bốn? Có định tu tập, này các Tỷ-kheo, do tu tập, do làm cho sung măn, đưa đến hiện tại lạc trú. Có định tu tập, này các Tỷ-kheo, do tu tập, do làm cho sung măn, đưa đến chứng được tri kiến. Có định tu tập, này các Tỷ-kheo, do tu tập, do làm cho sung măn, đưa đến chánh niệm tỉnh giác. Có định tu tập, này các Tỷ-kheo, được tu tập, được làm cho sung măn, đưa đến đoạn tận các lậu hoặc.

"And what is the development of concentration that, when developed & pursued, leads to a pleasant abiding in the here & now? There is the case where a monk — quite withdrawn from sensuality, withdrawn from unskillful qualities — enters & remains in the first jhana: rapture & pleasure born from withdrawal, accompanied by directed thought & evaluation. With the stilling of directed thought & evaluation, he enters & remains in the second jhana: rapture & pleasure born of composure, unification of awareness free from directed thought & evaluation — internal assurance. With the fading of rapture he remains in equanimity, mindful & alert, and physically sensitive of pleasure. He enters & remains in the third jhana, and of him the Noble Ones declare, 'Equanimous & mindful, he has a pleasurable abiding.' With the abandoning of pleasure & pain — as with the earlier disappearance of elation & distress — he enters & remains in the fourth jhana: purity of equanimity & mindfulness, neither pleasure nor pain. This is the development of concentration that... leads to a pleasant abiding in the here & now.

"Thế nào là định tu tập, do tu tập, do làm cho sung măn, đưa đến hiện tại lạc trú? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ly dục, ly các pháp bất thiện chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ. Diệt tầm và tứ, vị ấy chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tĩnh nhất tâm. Ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, vị ấy chứng và an trú Thiền thứ ba. Xả lạc xả khổ, diệt hỷ ưu đă cảm thọ trước, vị ấy chứng và trú Thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh. này các Tỷ-kheo, đây gọi là định tu tập, do tu tập, do làm cho sung măn, đưa đến hiện tại lạc trú.

"And what is the development of concentration that... leads to the attainment of knowledge & vision? There is the case where a monk has the perception of light, the perception of daytime (at any hour of the day) well-fixed & well in hand. Day (for him) is the same as night, night is the same as day. By means of an awareness open & unhampered, he develops a brightened mind. This is the development of concentration that... leads to the attainment of knowledge & vision.

"Thế nào là định tu tập, do tu tập, do làm cho sung măn, đưa đến chứng được tri kiến? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo tác ư tưởng ánh sang, an trú tưởng ban ngày, ngày như thế nào thời đêm như vậy, đêm như thế nào thời ngày như vậy. Như vậy, với tâm rộng mở, không có bị bao phủ, tu tập tâm đến chỗ sáng chói. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là định tu tập, do tu tập, do làm cho sung măn, đưa đến chứng được tri kiến.

"And what is the development of concentration that... leads to mindfulness & alertness? There is the case where a monk is conscious of feelings as they arise, as they persist, as they go totally to their end. He is conscious of perceptions as they arise, as they persist, as they go totally to their end. He is conscious of thoughts as they arise, as they persist, as they go totally to their end. This is the development of concentration that... leads to mindfulness & alertness.

"Thế nào là định tu tập, do tu tập, do làm cho sung măn, đưa đến chánh niệm tỉnh giác? Ở đây, này các Tỷ-kheo, với vị Tỷ-kheo, thọ khởi lên được rơ biết, thọ an trú được rơ biết, thọ chấm dứt được rơ biết; tưởng khởi lên được rơ biết, tưởng an trú được rơ biết, tưởng chấm dứt được rơ biết; tầm khởi lên được rơ biết, tầm an trú được rơ biết, tầm chấm dứt được rơ biết. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là định tu tập, do tu tập, do làm cho sung măn, đưa đến chánh niệm tỉnh giác.

"And what is the development of concentration that... leads to the ending of the effluents? There is the case where a monk remains focused on arising & falling away with reference to the five clinging-aggregates: 'Such is form, such its origination, such its passing away. Such is feeling... Such is perception... Such are fabrications... Such is consciousness, such its origination, such its passing away.' This is the development of concentration that... leads to the ending of the effluents.

"These are the four developments of concentration."

AN 4.41

"Và này các Tỷ-kheo, thế nào là định tu tập, do tu tập, do tàm cho sung măn, đưa đến đoạn tận các lậu hoặc? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo trú tùy quán sanh diệt trong năm thủ uẩn : "Đây là sắc, đây là sắc tập khởi, đây là sắc chấm dứt; đây là thọ, đây là thọ tập khởi, đây là thọ chấm dứt; đây là tưởng, đây là tưởng tập khởi, đây là tưởng chấm dứt; đây là các hành, đây là các hành tập khởi, đây là các hành chấm dứt; đây là thức, đây là thức tập khởi, đây là thức chấm dứt. Này các Tỷ-kheo, đây là định tu tập, do tu tập, do làm cho sung măn, đưa đến đoạn tận các lậu hoặc.

"Này các Tỷ-kheo, có bốn định tu tập này."

AN 4.41

§ 42. "Now what, monks, is the five-factored noble right concentration? There is the case where a monk — quite withdrawn from sensuality, withdrawn from unskillful (mental) qualities — enters & remains in the first jhana: rapture & pleasure born from withdrawal, accompanied by directed thought & evaluation. He permeates & pervades, suffuses & fills this very body with the rapture & pleasure born from withdrawal. There is nothing of his entire body unpervaded by rapture & pleasure born from withdrawal.

§ 42. "Này các Tỷ-kheo, như thế nào là sự tu tập Thánh chánh định gồm có năm chi phần?" Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ly dục, ly ác, bất thiện pháp, chứng đạt và an trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, với tầm, với tứ. Vị ấy thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung măn, tràn đầy thân ḿnh với hỷ lạc do ly dục sanh, không một chỗ nào trên toàn thân không được hỷ lạc do ly dục sanh ấy thấm nhuần.

"Just as if a skilled bathman or bathman's apprentice would pour bath powder into a brass basin and knead it together, sprinkling it again & again with water, so that his ball of bath powder — saturated, moisture-laden, permeated within & without — would nevertheless not drip; even so, monks, the monk permeates... this very body with the rapture & pleasure born of withdrawal. There is nothing of his entire body unpervaded by rapture & pleasure born from withdrawal. This is the first development of the five-factored noble right concentration.

"Ví như, này các Tỷ-kheo, như một người hầu tắm hay đệ tử hầu tắm, sau khi rắc bột tắm trong thau bằng đồng, liền nhồi bột ấy với nước. Cục bột tắm ấy được thấm ướt cả trong lẫn ngoài với nước, nhưng không chảy thành giọt. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung măn, tràn đầy thân này với hỷ lạc do ly dục sanh, không một chỗ nào trên toàn thân không được hỷ lạc do ly dục sanh ấy thấm nhuần. Đây là sự tu tập thứ nhất về Thánh chánh định gồm có năm chi phần.

"Furthermore, with the stilling of directed thought & evaluation, he enters & remains in the second jhana: rapture & pleasure born of composure, one-pointedness of awareness free from directed thought & evaluation — internal assurance. He permeates & pervades, suffuses & fills this very body with the rapture & pleasure born of composure. There is nothing of his entire body unpervaded by rapture & pleasure born of composure.

"Lại nữa, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo làm cho tịnh chỉ tầm và tứ, chứng đạt và an trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tĩnh nhất tâm. Vị ấy thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung măn, tràn đầy thân này với hỷ lạc do tịnh định sanh, không một chỗ nào trên toàn thân không được hỷ lạc do định sanh ấy thấm nhuần.

"Just like a lake with spring-water welling up from within, having no inflow from east, west, north or south, and with the skies periodically supplying abundant showers, so that the cool fount of water welling up from within the lake would permeate & pervade, suffuse & fill it with cool waters, there being no part of the lake unpervaded by the cool waters; even so monks, the monk permeates... this very body with the rapture & pleasure born of composure. There is nothing of his entire body unpervaded by rapture & pleasure born of composure. This is the second development of the five-factored noble right concentration.

"Ví như, này các Tỷ-kheo, một hồ nước, nước tự dâng lên, phương Đông không có lỗ nước chảy ra, phương Tây không có lỗ nước chảy ra, phương Bắc không có lỗ nước chảy ra, phương Nam không có lỗ nước chảy ra, và thỉnh thoảng trời lại mưa lớn. Suối nước mát từ hồ nuớc ấy phun ra, thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung măn tràn đầy hồ nước ấy với nước mát lạnh, không một chỗ nào của hồ nước ấy không được nước mát lạnh thấm nhuần. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo thấm này với hỷ lạc do định sanh, không một chỗ nào trên toàn thân không được hỷ lạc do định sanh ấy thấm nhuần. Đây là sự tu tập thứ hai về Thánh chánh định gồm có năm chi phần.

"And furthermore, with the fading of rapture, he remains in equanimity, mindful & fully alert, and physically sensitive of pleasure. He enters & remains in the third jhana, and of him the Noble Ones declare, 'Equanimous & mindful, he has a pleasurable abiding.' He permeates & pervades, suffuses & fills this very body with the pleasure divested of rapture, so that there is nothing of his entire body unpervaded with pleasure divested of rapture.

"Lại nữa, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và an trú Thiền thứ ba. Vị Tỷ-kheo ấy thấm nhuần với lạc thọ không có hỷ ấy, không một chỗ nào trên toàn thân không được lạc thọ không có hỷ ấy thấm nhuần.

"Just as in a blue-, white-, or red-lotus pond, there may be some of the blue, white, or red lotuses which, born & growing in the water, stay immersed in the water and flourish without standing up out of the water, so that they are permeated & pervaded, suffused & filled with cool water from their roots to their tips, and nothing of those blue, white, or red lotuses would be unpervaded with cool water; even so, monks, the monk permeates... this very body with the pleasure divested of rapture. There is nothing of his entire body unpervaded with pleasure divested of rapture. This is the third development of the five-factored noble right concentration.

"Ví như, này các Tỷ-kheo, trong hồ sen xanh, hồ sen hồng ha sen trắng, những bông hoa ấy sanh trong nước, lớn lên trong nước, không vượt khỏi nước, nuôi sống dưới nước, từ đầu ngọn cho đến gốc rễ đều thấm nhuần, tẩm ướt, tràn đầy thấu suốt bởi nước mát lạnh ấy, không một chỗ nào của toàn thể sen xanh, sen hồng hay sen trắng không được nước mát lạnh ấy thấm nhuần. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung măn tràn đầy thân này với lạc thọ không có hỷ ấy, không một chỗ nào trên toàn thân không được lạc thọ không có hỷ ấy thấm nhuần. Này các Tỷ-kheo, đây là sự tu tập thứ ba về Thánh chánh định gồm có năm chi phần.

"And furthermore, with the abandoning of pleasure & stress — as with the earlier disappearance of elation & distress — he enters & remains in the fourth jhana: purity of equanimity & mindfulness, neither-pleasure-nor-pain. He sits, permeating the body with a pure, bright awareness, so that there is nothing of his entire body unpervaded by pure, bright awareness.

"Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đă cảm thọ trước, chứng và trú Thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm, thanh tịnh. Tỷ-kheo ấy ngồi thấm nhuần toàn thân ḿnh với tâm thuần tịnh trong sáng, không một chỗ nào trên toàn thân không được tâm thuần tịnh trong sáng ấy thấm nhuần.

"Just as if a man were sitting covered from head to foot with a white cloth so that there would be no part of his body to which the white cloth did not extend; even so, monks, the monk sits, permeating his body with a pure, bright awareness. There is nothing of his entire body unpervaded by pure, bright awareness. This is the fourth development of the five-factored noble right concentration.

"Ví như, này các Tỷ-kheo, một người dùng tấm vải trắng trùm đầu, không một chỗ nào trên toàn thân không được vải trắng ấy che phủ. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ngồi thấm nhuần toàn thân này với tâm thuần tịnh trong sáng, không một chỗ nào trên toàn thân không được tâm thuần tịnh trong sáng ấy thấm nhuần. Này các Tỷ-kheo, đây là sự tu tập thứ tư về Thánh chánh định gồm có năm chi phần.

"And furthermore, the monk has his theme of reflection well in hand, well attended to, well-pondered, well-penetrated by means of discernment.

"Lại nữa, này các Tỷ-kheo, quán sát tướng được vị Tỷ-kheo khéo nắm giữ, khéo tác ư, khéo thọ tŕ, khéo thể nhập với trí tuệ.

"Just as if one person were to reflect on another, or a standing person were to reflect on a sitting person, or a sitting person were to reflect on a person lying down; even so, monks, the monk has his theme of reflection well in hand, well attended to, well-pondered, well-penetrated by means of discernment. This is the fifth development of the five-factored noble right concentration.

"Ví như, này các Tỷ-kheo, một người quán sát một người khác, người đứng quán sát người ngồi, hay người ngồi quán sát người nằm. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, quán sát tướng được Tỷ-kheo khéo nắm giữ, khéo tác ư, khéo thọ tŕ, khéo thế nhập với trí tuệ. Này các Tỷ-kheo, đây là sự tu tập thứ năm về Thánh chánh định gồm có năm chi phần.

"When a monk has developed & pursued the five-factored noble right concentration in this way, then whichever of the six higher knowledges he turns his mind to know & realize, he can witness them for himself whenever there is an opening.

"Tu tập như vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo với Thánh chánh định gồm có năm chi phần được làm cho sung măn như vậy, tùy thuộc theo pháp ǵ cần phải được giác ngộ với thắng trí, tâm vị ấy hướng đến để được giác ngộ với thắng trí. Tại đấy, tại đấy vị ấy có khả năng, có năng lực đạt đến pháp ấy dầu thuộc loại xứ nào.

"Suppose that there were a water jar, set on a stand, brimful of water so that a crow could drink from it. If a strong man were to tip it in any way at all, would water spill out?"

"Yes, lord."

"Ví như, này các Tỷ-kheo, một cái ghè nước đặt trên một cái giá, ghè ấy đựng đầy nước, tràn đầy đến nỗi con quạ có thể uống được. Và một người có sức mạnh đến lắc qua lắc lại cái ghè ấy, như vậy nước có đổ ra chăng?"

"Thưa có, bạch Thế Tôn."

"In the same way, when a monk has developed & pursued the five-factored noble right concentration in this way, then whichever of the six higher knowledges he turns his mind to know & realize, he can witness them for himself whenever there is an opening.

"Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo tu tập như vậy, Thánh chánh định gồm có năm chi phần được làm cho sung măn như vậy, tùy thuộc theo pháp ǵ cần phải được giác ngộ với thắng trí, tâm vị ấy hướng đến để được giác ngộ với thắng trí. Tại đấy, tại đấy vị ấy có khả năng, có năng lực đạt đến pháp ấy, dầu thuộc loại xứ nào.

"Suppose there were a rectangular water tank — set on level round, bounded by dykes — brimful of water so that a crow could drink from it. If a strong man were to loosen the dykes anywhere at all, would water spill out?"

"Yes, lord..."

"Ví như, này các Tỷ-kheo, một hồ nước trên một khoảnh đất bằng, bốn góc có bờ đê đắp cao đầu tràn nước đến nỗi con quạ có thể uống được. Rồi một người có sức mạnh đến tháo bờ đê chỗ này chỗ kia, như vậy nước có đổ ra chăng?"

"Thưa có, bạch Thế Tôn."

"Suppose there were a chariot on level ground at four crossroads, harnessed to thoroughbreds, waiting with whips lying ready, so that a skilled driver, a trainer of tamable horses, might mount and — taking the reins with his left hand and the whip with his right — drive out & back, to whatever place and by whichever road he liked; in the same way, when a monk has developed & pursued the five-factored noble right concentration in this way, then whichever of the six higher knowledges he turns his mind to know & realize, he can witness them for himself whenever there is an opening."

AN 5.28

"Ví như, này các Tỷ-kheo, trên đất bằng, tại chỗ ngă tư, có một chiếc xe đang đậu, thắng với ngựa thuần chủng, có gậy thúc ngực đặt ngang sẵn sàng. Có người huấn luyện ngựa thiện xảo, người đáng xe điều ngự các con ngựa đáng được điều ngựa, leo lên xe ấy, tay trái nắm lấy dây cương tay mặt cầm lấy gậy thúc ngựa, có thể đánh xe ngựa ấy đi tới đi lui tại chỗ nào và như thế nào theo ư ḿnh muốn. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo tu tập như vậy, Thánh chánh định gồm có năm chi phần được làm cho sung măn như vậy, tùy thuộc theo pháp ǵ cần phải được giác ngộ với thắng trí, tâm vị ấy hướng đến để được giác ngộ với thắng trí. Tại đấy, tại đấy vị ấy có khả năng, có năng lực đạt đến pháp ấy, dầu thuộc loại xứ nào."

AN 5.28

§ 43.

There's        no jhana
for one with    no discernment,
	       no discernment
for one with    no jhana.

But one with   both jhana
	       & discernment
is on the verge
	       of Unbinding.

Dhp 372

§ 43.

Không trí tuệ, 
           không thiền,
Không thiền, 
         không trí tuệ.
Người 
        có thiền 
               có tuệ,
Nhất định 
           gần Niết Bàn.

Dhp 372

§ 44. Concentration & Discernment.

"Suppose that an archer or archer's apprentice were to practice on a straw man or mound of clay, so that after a while he would become able to shoot long distances, to fire accurate shots in rapid succession, & to pierce great masses. In the same way, there is the case where a monk... enters & remains in the first jhana: rapture & pleasure born of withdrawal, accompanied by directed thought & evaluation. He regards whatever phenomena there that are connected with form, feeling, perception, fabrications, & consciousness as inconstant, stressful, a disease, a cancer, an arrow, painful, an affliction, alien, a dissolution, an emptiness, not-self. He turns his mind away from those phenomena, and having done so, inclines his mind to the quality of deathlessness: 'This is peace, this is exquisite — the resolution of all fabrications, the relinquishment of all mental acquisitions, the passing away of craving, dispassion, cessation, Unbinding.'

§ 44. Concentration & Discernment.

"Ví như người bắn cung, hay đệ tử người bắn cung tập bắn trên một h́nh nộm bằng cỏ hay trên đống đất sét, rồi người ấy có thể trở thành một người bắn xa, bắn nhanh, bắn thủng qua vật dày lớn. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo ly dục, ly bất thiện pháp, chứng đạt và an trú sơ Thiền, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh có tầm và tứ. Vị ấy ở đây, đối với cái ǵ thuộc về sắc, thuộc về thọ, thuộc về tưởng, thuộc về hành, thuộc về thức, các pháp ấy, vị ấy tùy quán là vô thường, là khổ, là bệnh, là mụt nhọt, là mũi tên, là va chạm, là tật bệnh, là khác lạ, là biến hoại, là trống không, là vô ngă. Vị ấy tránh né tâm ḿnh khỏi những pháp ấy, sau khi tránh né tâm ḿnh khỏi những pháp ấy, sau khi tránh né tâm khỏi những pháp ấy, vị ấy hướng dẫn đến giới bất tử: "Đây là tịch tịnh, đây là thù thắng, tức là sự chỉ tức tất cả hành, sự từ bỏ tất cả sanh y, sự diệt tận khát ái, ly tham, chứng đạt Niết-bàn".

"Having attained this point, he reaches the ending of the mental fermentations. Or, if not, then — through passion & delight for this very quality [the discernment inclining to deathlessness] and from the total wasting away of the first five of the Fetters [self-identity views, grasping at precepts & practices, uncertainty, sensual passion, and resistance] — he is due to be reborn [in the Pure Abodes], there to be totally unbound, never again to return from that world." (Similarly with the remaining levels of jhana.)

AN 9.36

"Vị ấy trú ở đây, đạt đến sự diệt tận các lậu hoặc. Nếu không diệt tận các lậu hoặc, với pháp ái ấy, với pháp hỷ ấy, do đoạn tận năm hạ phần kiết sử, vị ấy là vị hóa sanh, tại đấy chứng được Niết-bàn, không c̣n trở lui thế giới này nữa."

AN 9.36

§ 45. Discernment & Release.

"With his mind thus concentrated, purified, & bright, the monk directs it to the knowledge of the ending of the mental fermentations. Just as if there were a pool of water in a mountain glen — clear, limpid, & unsullied — where a man with good eyesight standing on the bank could see shells, gravel, & pebbles, and also shoals of fish swimming about & resting, and it would occur to him, 'This pool of water is clear, limpid, & unsullied. Here are these shells, gravel, & pebbles, and also these shoals of fish swimming about & resting.' In the same way, the monk discerns, as it is actually present, that 'This is stress... This is the origination of stress... This is the cessation of stress... This is the way leading to the cessation of stress... These are mental fermentations... This is the origination of fermentations... This is the cessation of fermentations... This is the way leading to the cessation of fermentations.' His heart, thus knowing, thus seeing, is released from the fermentations of sensuality, becoming, & ignorance. With release, there is the knowledge, 'Released.' He discerns that 'Birth is ended, the holy life fulfilled, the task done. There is nothing further for this world.' This, too, is a reward of the contemplative life, visible here & now, more excellent than the previous ones and more sublime. And as for another visible fruit of the contemplative life, higher & more sublime than this, there is none."

DN 2

§ 45. Discernment & Release.

"Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền năo, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, b́nh thản như vậy, Tỷ-kheo dẫn tâm, hướng tâm đến lậu tận trí. Này Đại vương, ví như tại dăy núi lớn có một hồ nước, thuần tịnh, trong sáng, không cấu nhiễm. Một người có mắt, đứng trên bờ sẽ thấy con hến, con ṣ, những ḥn đá, ḥn sạn, những đàn cá bơi qua lại hay đứng một chỗ. Vị ấy nghĩ: "Đây là hồ nước thuận tịnh, trong sáng, không cấu nhiễm. Đây là những con hến, con ṣ, những ḥn đá, ḥn sạn, những đàn các đang bơi qua lại hay đứng yên một chỗ". Cũng vậy, này Đại vương, với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền năo, nhu nhuyến dễ sử dụng, vững chắc, b́nh thản như vậy. Tỷ-kheo dẫn tâm, hướng tâm đến lậu tận trí. Vị ấy biết như thật: "Đây là khổ", biết như thật "đây là nguyên nhân của khổ", biết như thật "đây là khổ diệt", biết như thật "đây là con đường đưa đến khổ diệt", biết như thật "đây là những lậu hoặc", biết như thật "đây là nguyên nhân của lậu hoặc", biết như thật "đây là sự diệt trừ các lậu hoặc", biết như thật "đây là con đường đưa đến sự diệt trừ các lậu hoặc". Nhờ hiểu biết như vậy, nhờ nhận thức như vậy, tâm của vị ấy thoát khỏi dục lậu, thoát khỏi hữu lậu, thoát khỏi vô minh lậu. Đối với tự thân đă giải thoát, vị ấy biết: Sanh đă tận, phạm hạnh đă thành, những việc cần làm đă làm; sau đời hiện tại, không có đời sống nào khác nữa. "

DN 2

§ 46.

Washing my feet, I noticed
	   the
	   water.
And in watching it flow from high
	   to
	   low,
	my heart was composed
	like a fine thoroughbred steed.
Then taking a lamp, I entered the hut,
	checked the bedding,
	sat down on the bed.
And taking a pin, I pulled out the wick:
	Like the flame's unbinding
	was the liberation
	   of awareness.

Thig 5.10

§ 46.

Khi ta đang rửa chân,
Làm cho ḍng nước chảy,
Thấy được nước rửa chân
Từ cao chảy xuống thấp,
Nhờ vậy, tâm được định,
Như ngựa hiền khéo luyện.

Rồi ta cầm cây đèn,
Bước vào ngôi tinh xá,
Nằm trên chiếc giường nhỏ,
Ta nh́n quán ngọn đèn.

Rồi lấy cây kim nhỏ,
D́m tim đèn xuống dần,
Thấy cây đèn Niết-bàn,
Tâm ta được giải thoát.

Thig 5.10

See also: "The Four Noble Truths" in "The Path to Freedom: A Self-guided Tour of the Buddha's Teachings"

^^^^^

 Chủ biên và điều hành: TT Thích Giác Đẳng.

 Những đóng góp dịch thuật xin gửi về TT Thích Giác Đẳng tại giacdang@phapluan.com
Cập nhập ngày: Thứ Sáu 08-11-2006

Kỹ thuật tŕnh bày: Minh Hạnh & Thiện Pháp

Trang trước | trở về đầu trang | Home page |