MN 61

§41. "Furthermore, the monk reminds himself of this: 'At present I am free from illness & discomfort, endowed with good digestion: not too cold, not too hot, of medium strength & tolerance. The time will come, though, when this body is beset with illness. When one is overcome with illness, it is not easy to pay attention to the Buddha's teachings. It is not easy to reside in isolated forest or wilderness dwellings. Before this unwelcome, disagreeable, displeasing thing happens, let me first make an effort for the attaining of the as-yet-unattained, the reaching of the as-yet-unreached, the realization of the as-yet-unrealized, so that — endowed with that Dhamma — I will live in peace even when ill.'"

AN 5.78


§41. "Lại nữa, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo quán sát như sau: 'Nay ta ít bệnh, ít năo, sự tiêu hóa được điều ḥa, không lạnh quá, không nóng quá, trung b́nh, hợp với tinh tấn, nhưng rồi đến thời bệnh sẽ xúc phạm thân này. Khi đă bị bệnh và bị bệnh chinh phục, thật không dễ ǵ tác ư đến giáo pháp của các đức Phật, thật không dễ ǵ để sống tại các trú xứ rừng núi cao nguyên xa vắng. Trước khi trạng thái ấy đến với ta, không đáng ưa, không đáng thích, không khả ư, ta hăy hăng hái tinh cần trước khi thời ấy đến, để chứng đạt những ǵ chưa chứng đạt, chứng đắc những ǵ chưa chứng đắc, chứng ngộ những ǵ chưa chứng ngộ. Và nếu thành tựu trạng thái này, dầu có bị bệnh, ta sẽ sống được thoải mái.'"

AN 5.78

§42. "There is the case where a monk comes down with a slight illness. The thought occurs to him: 'I have come down with a slight illness. There's a need to lie down.' So he lies down. He doesn't make an effort for the attaining of the as-yet-unattained, the reaching of the as-yet-unreached, the realization of the as-yet-unrealized. This is the seventh grounds for laziness.

§42. "Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo bị bệnh nhẹ. Vị ấy suy nghĩ: 'Nay bệnh nhẹ này khởi lên nơi ta, có lư do để nằm xuống, vậy ta hăy nằm xuống'. Vị ấy nằm xuống, không cố gắng tinh tấn để đạt những ǵ chưa đạt, để chứng đắc những ǵ chưa chứng đắc, để chứng ngộ những ǵ chưa chứng ngộ. Này các Tỷ-kheo, đây là căn cứ biếng nhác thứ bảy.

"Then there is the case where a monk has recovered from his illness, not long after his recovery. The thought occurs to him: 'I have recovered from my illness. It's not long after my recovery. This body of mine is weak & unsuitable for work. Why don't I lie down?' So he lies down. He doesn't make an effort for the attaining of the as-yet-unattained, the reaching of the as-yet-unreached, the realization of the as-yet-unrealized. This is the eighth grounds for laziness...

"Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đau bệnh mới khỏi, mới khỏi bệnh không bao lâu, vị ấy suy nghĩ: 'Ta đau bệnh mới khỏi, mới khỏi bệnh không bao lâu, thân ta do bị yếu, không có thể chịu đựng, vậy ta hăy nằm xuống'. Vị ấy nằm xuống, không cố gắng tinh tấn để đạt những ǵ chưa đạt, để chứng đắc những ǵ chưa chứng đắc, để chứng ngộ những ǵ chưa chứng ngộ. Này các Tỷ-kheo, đây là căn cứ biếng nhác thứ tám.

"Then there is the case where a monk comes down with a slight illness. The thought occurs to him: 'I have come down with a slight illness. Now, there's the possibility that it could get worse. Why don't I make an effort beforehand for the attaining of the as-yet-unattained, the reaching of the as-yet-unreached, the realization of the as-yet-unrealized?' So he makes an effort for the attaining of the as-yet-unattained, the reaching of the as-yet-unreached, the realization of the as-yet-unrealized. This is the seventh grounds for the arousal of energy.

"Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo mới khỏi một bệnh nhẹ. Vị ấy suy nghĩ: 'Bệnh nhẹ này khơi lên nơi ta. Sự kiện này có xảy ra: bệnh này có thể tăng trưởng nơi ta. Vậy ta bắt đầu tinh tấn để đạt được những ǵ chưa đạt, để chứng đắc những ǵ chưa chứng đắc, để chứng ngộ những ǵ chưa chứng ngộ'. Vị ấy bắt đầu tinh tấn để đạt được những ǵ chưa đạt, để chứng đắc những ǵ chưa chứng đắc, để chứng ngộ những ǵ chưa chứng ngộ. Này các Tỷ-kheo, đây là căn cứ siêng năng thứ bảy.

"Then there is the case where a monk has recovered from his illness, not long after his recovery. The thought occurs to him: 'I have recovered from my illness. It's not long after my recovery. Now, there's the possibility that the illness could come back. Why don't I make an effort beforehand for the attaining of the as-yet-unattained, the reaching of the as-yet-unreached, the realization of the as-yet-unrealized?' So he makes an effort for the attaining of the as-yet-unattained, the reaching of the as-yet-unreached, the realization of the as-yet-unrealized. This is the eighth grounds for the arousal of energy.

AN 8.80

"Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo mới khỏi bệnh, được khỏi bệnh không bao lâu, vị ấy suy nghĩ: 'Ta mới khỏi bệnh, được khỏi bệnh không bao lâu. Sự kiện này có xảy ra: bệnh này của ta có thể trở lại. Vậy trước hết, ta hăy bắt đầu tinh tấn để đạt được những ǵ chưa đạt, để chứng đắc những ǵ chưa chứng đắc, để chứng ngộ những ǵ chưa chứng ngộ'. Vị ấy bắt đầu tinh tấn, để đạt được những ǵ chưa đạt, để chứng đắc những ǵ chưa chứng đắc, để chứng ngộ những ǵ chưa chứng ngộ. Này các Tỷ-kheo, đây là căn cứ siêng năng thứ tám.

AN 8.80

§43.

[Sister Dhamma:]

Wandering for alms —
weak, leaning on a staff,
with trembling limbs —
I fell down right there on the ground.
Seeing the drawbacks of the body,
my mind was then
		set free.

Thig 1.17

§43.

[Trưởng Lăo Ni Dhamma:]

Sau khi khất thực xong,
Yếu sức, chống trên gậy,
Với chân tay run rẩy,
Ta ngă trên mặt đất,
Thấy nguy hiểm của thân,
Tâm ta được giải thoát.

Thig 1.17

Death

§44. King Koravya: "Now, in this royal court there is a great deal of gold & silver stashed away underground & in attic vaults. And yet you say, 'The world is without ownership. One has to pass on, leaving everything behind.' How is the meaning of this statement to be understood?"

Sự chết

§44. Vua Koravya: "Thưa Tôn giả Ratthapala, ở vương quốc này có rất nhiều vàng nén và tiền vàng dưới đất và trên mặt đất. Tôn giả Ratthapala đă nói: 'Thế giới là vô sở hữu, ra đi cần phải từ bỏ tất cả'. Ư nghĩa của lời nói này cần phải được hiểu như thế nào, thưa Tôn giả Ratthapala?"

Ven. Ratthapala: "What do you think, great king? As you now enjoy yourself endowed & replete with the five strings of sensuality, can you say, 'Even in the afterlife I will enjoy myself in the same way, endowed & replete with the very same five strings of sensuality'? Or will this wealth fall to others, while you pass on in accordance with your kamma?"

Tôn giả Ratthapala: "Thưa Đại vương, Đại vương nghĩ thế nào ? Dầu cho nay Đại vương sống thụ hưởng măn túc, cụ túc năm món dục trưởng dưỡng, Đại vương có thể nói được như sau: 'Chính như vậy, tôi thọ hưởng măn túc, cụ túc năm món dục trưởng dưỡng này'; hay là người khác sẽ thọ hưởng tài sản này, c̣n Đại vương sẽ phải đi theo nghiệp của ḿnh?"

King Koravya: "Oh, no, Master Ratthapala, I can't say, 'Even in the afterlife I will enjoy myself in the same way, endowed & replete with the very same five strings of sensuality.' This wealth will fall to others, while I pass on in accordance with my kamma."

Vua Koravya: "Thưa Tôn giả Ratthapala, dầu cho nay tôi sống thụ hưởng măn túc, cụ túc năm món dục trưởng dưỡng. Tôi không có thể nói được như sau: 'Chính như vậy tôi thọ hưởng măn túc, cụ túc năm món dục trưởng này'. Chính người khác sẽ thọ hưởng tài sản này, c̣n tôi phải đi theo nghiệp của tôi."

Ven. Ratthapala: "It was in reference to this, great king, that the Blessed One who knows & sees, worthy & rightly self-awakened, said: 'The world is without ownership. One has to pass on, leaving everything behind.' Having known & seen & heard this, I went forth from the home life into homelessness."

MN 82

Tôn giả Ratthapala: "Chính liên hệ với nghĩa này, này Đại vương, mà Thế Tôn, bậc Tri Giả, Kiến Giả, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác đă nói: 'Thế giới là vô sở hữu, cần phải ra đi, từ bỏ tất cả'. Và tôi sau khi biết, sau khi thấy và sau khi nghe như vậy, đă xuất gia từ bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh."

MN 82

§45. Then King Pasenadi of Kosala approached the Blessed One in the middle of the day and, on arrival, having bowed down, sat to one side. As he was sitting there, the Blessed One said to him: "Well now, great king, where are you coming from in the middle of the day?"

§45. Thế Tôn nói với vua Pasenadi nước Kosala đang ngồi một bên: "Thưa Đại vương, Đại vương đi từ đâu lại?"

"Just now, lord, I was engaged in the sort of royal affairs typical of head-anointed noble-warrior kings intoxicated with the intoxication of sovereignty, obsessed by greed for sensual pleasures, who have attained stable control in their country, and who rule having conquered a great sphere of territory on earth."

"Bạch Thế Tôn, con rất là bận rộn với những sự việc các vua chúa bận rộn. Các vua chúa Sát-đế-lỵ đă làm lễ quán đảnh, say đắm kiêu hănh với vương quyền, thọ hưởng tham lam vật dục, đạt được sự an toàn quốc độ, và sống chinh phục cả vùng đất đai rộng lớn."

"What do you think, great king? Suppose a man, trustworthy & reliable, were to come to you from the east and on arrival would say: 'If it please your majesty, you should know that I come from the east. There I saw a great mountain, as high as the clouds, coming this way, crushing all living beings [in its path]. Do whatever you think should be done.' Then a second man were to come to you from the west... Then a third man were to come to you from the north... Then a fourth man were to come to you from the south and on arrival would say: 'If it please your majesty, you should know that I come from the south. There I saw a great mountain, as high as the clouds, coming this way, crushing all living beings. Do whatever you think should be done.' If, your majesty, such a great peril should arise, such a terrible destruction of human life — the human state being so hard to obtain — what should be done?"

"Thưa Đại vương, Đại vương nghĩ thế nào? Ở đây, nếu có người đến với Đại vương từ phương Đông, một người thân tín, đáng tin cậy. Người ấy đến Đại vương và thưa: 'Tâu Đại vương, mong Đại vương được biết, con từ phương Đông lại và có thấy tại đấy một ngọn núi cao như hư không, đang di chuyển và chà đạp, đè bẹp tất cả loại hữu t́nh. Tâu Đại vương, Đại vương hăy làm những ǵ cần phải làm'. Rồi một người khác đến từ phương Tây... Rồi một người thứ ba đến từ phương Bắc... Rồi một người thứ tư đến từ phương Nam, thân tín đáng tin cậy. Người ấy đến Đại vương và thưa: 'Tâu Đại vương, mong Đại vương được biết, con từ phương Nam lại và có thấy tại đấy một ngọn núi cao như hư không, đang di chuyển và chà đạp, đè bẹp lên tất cả loại hữu t́nh. Tâu Đại vương, Đại vương hăy làm những ǵ cần phải làm'. Như vậy, thưa Đại vương, một khủng bố lớn khởi lên cho Đại vương, sự diệt tận nhân loại thật khủng khiếp, được tái sanh làm người thật khó khăn, thời Đại vương có thể làm được những ǵ?"

"If, lord, such a great peril should arise, such a terrible destruction of human life — the human state being so hard to obtain — what else should be done but Dhamma-conduct, right conduct, skillful deeds, meritorious deeds?"

"Như vậy, bạch Thế Tôn, một khủng bố lớn khởi lên, sự diệt tận nhân loại thật khủng khiếp, được tái sanh làm người thật khó khăn, thời con có thể làm được những ǵ, ngoại trừ sống đúng pháp, sống chơn chánh làm các hạnh lành, làm các công đức!"

"I inform you, great king, I announce to you, great king: aging & death are rolling in on you. When aging & death are rolling in on you, what should be done?"

"Thưa Đại vương, Ta nói cho Đại vương biết, Ta cáo cho Đại vương hay. Thưa Đại vương, già và chết đang tiến đến chinh phục Đại vương. Khi Đại vương bị già chết chinh phục, Đại vương có thể làm được ǵ?"

"As aging & death are rolling in on me, lord, what else should be done but Dhamma-conduct, right conduct, skillful deeds, meritorious deeds?

"Bạch Thế Tôn, khi con bị già và chết chinh phục, thời con có thể làm được ǵ, ngoại trừ sống đúng pháp, sống chơn chánh, làm các hạnh lành, làm các công đức!"

"There are, lord, elephant battles [fought by] head-anointed noble-warrior kings intoxicated with the intoxication of sovereignty, obsessed by greed for sensual pleasures, who have attained stable control in their country, and who rule having conquered a great sphere of territory on earth; but there is no use for those elephant battles, no scope for them, when aging & death are rolling in. There are cavalry battles... chariot battles... infantry battles... but there is no use for those infantry battles, no scope for them, when aging & death are rolling in. In this royal court there are counsellors who, when the enemies arrive, are capable of dividing them by their wits; but there is no use for those battles of wits, no scope for them, when aging & death are rolling in. In this royal court there is abundant bullion & gold stored in vaults & depositories, and with such wealth we are capable of buying off enemies when they come; but there is no use for those battles of wealth, no scope for them, when aging & death are rolling in. As aging & death are rolling in on me, lord, what else should be done but Dhamma-conduct, right conduct, skillful deeds, meritorious deeds?"

"Bạch Thế Tôn, những sự việc như các vua chúa Sát-đế-lỵ đă làm lễ quán đảnh, say đắm, kiêu hănh với vương quyền, thọ hưởng tham lam vật dục, đạt được sự an toàn quốc độ và sống chinh phục cả vùng đất đai rộng lớn cùng các trận chiến với tượng binh. Bạch Thế Tôn, các trận chiến với tượng binh không đem lại một hướng đi (gati), một điểm tựa cho các vua chúa ấy, mội khi bị già chết chinh phục. Bạch Thế Tôn, những sự việc như các vua chúa Sát-đế-lỵ đă làm lễ quán đảnh, say đắm, kiêu hănh với vương quyền, thọ hưởng tham lam vật dục, đạt được sự an toàn quốc độ và sống chinh phục cả một vùng đất đai rộng lớn cùng các trận chiến với mă binh...,... với xa binh..., ... với bộ binh. Bạch Thế Tôn, các trận chiến với bộ binh không đem lại một hướng đi, một điểm tựa cho các vị vua chúa ấy một khi bị già chết chinh phục. Bạch Thế Tôn, trong vương cung này có nhiều số vàng được chứa cất trong những nhà hầm hay những lầu thượng, và với số vàng ấy chúng con có thể phá tan quân địch tấn công tài chánh. Nhưng bạch Thế Tôn, các trận chiến tài chánh không đem lại một hướng đi, một điểm tựa cho các vị vua chúa ấy một khi bị già chết chinh phục. Và bạch Thế Tôn, khi con bị già chết chinh phục, thời con có thể làm được ǵ, ngoại trừ sống đúng pháp, sống chơn chánh, làm các hạnh lành, làm các công đức!"

"So it is, great king! So it is, great king! As aging & death are rolling in on you, what else should be done but Dhamma-conduct, right conduct, skillful deeds, meritorious deeds?"

"Như vậy là phải, thưa Đại vương. Như vậy là phải, thưa Đại vương. Khi Đại vương bị già chết chinh phục, Đại vương có thể làm được ǵ, ngoại trừ sống đúng pháp, sống chơn chánh, làm các hạnh lành, làm các công đức!"

That is what the Blessed One said. Having said that, the One Well-Gone, the Teacher, further said this:

Like massive boulders,
mountains pressing against the sky,
moving in from all sides,
crushing the four directions,
	so aging and death
come rolling over living beings:
noble warriors, priests, priests,
workers, outcastes, & scavengers.
They spare nothing.
They trample everything.

Here elephant troops can hold no ground,
nor can chariots or infantry,
nor can a battle of wits
or wealth win out.

So a wise person,
seeing his own good,
steadfast, secures confidence
in the Buddha, Dhamma, & Sangha.

One who practices the Dhamma
in thought, word, & deed,
receives praise here on earth
and after death rejoices in heaven.

SN 3.25

Thế Tôn nói như vậy. Và bậc Đạo Sư nói thêm:

Như núi đá rộng lớn,
Dựng đứng lên hư không,
Tiến tới tràn xung quanh,
Áp đè cả bốn phía.
Cũng vậy, già và chết
Di chuyển đến hữu t́nh,
Giai cấp Sát-đế-lỵ,
Bà-la-môn, Phệ-xá,
Thủ-đà, Chiên-đà-la
Kẻ đổ rác, đổ phân,
Không một ai thoát khỏi,
Tất cả bị chinh phục.
Ở đây không tượng binh,
Không xa binh, bộ binh,
Không trận chiến chú thuật,
Không trận chiến tài sản
Có thể giúp chiến thắng,
Chống với già, với chết.
Do vậy người hiền trí,
Thấy rơ phần tự lợi,
Người trí đặt tin tưởng,
Vào Phật, Pháp và Tăng.
Ai với thân, khẩu, ư,
Hành tŕ đúng Chánh pháp,
Đời này được tán thán,
Đời sau, hưởng phước trời. 

SN 3.25

§46.
'Here I'll stay for the rains.
Here, for the summer & winter.'
So imagines the fool,
unaware of obstructions.
That drunk-on-his-sons-&-cattle man,
all tangled up in the mind:
death sweeps him away —
	as a great flood,
	a village asleep.
There are 	no sons
	to give shelter,
		no father,
		no family
for one seized by the Ender,
	no shelter among kin.
	Realizing
this force of reasoning,
the wise man, restrained by virtue,
should make the path pure
	— right away —
that goes all the way to Unbinding.

Dhp 286-289

§46.

Mùa mưa ta ở đây,
Hè thu ta ở đây.
Kẻ ngu si nghĩ vậy,
Nào đâu thấy hiểm nguy
Người ham nhiều con cái,
Thích súc vật dư thừa,
Tử thần sẽ kéo bừa,
Như lụt cuốn làng ngủ.
Con cái nào chở che,
Mẹ cha nào o bế,
Thân thích nào bảo vệ,
Khi bị thần chết lôi.
Hiểu rơ sự lư trên,
Bậc trí nên tŕ giới,
Khai sáng đường đi tới,
Trực chỉ đến Niết bàn.

Dhp 286-289

§47. "There are these four types of excellent thoroughbred horses to be found existing in the world. Which four? There is the case where an excellent thoroughbred horse, on seeing the shadow of the goad-stick, is stirred & agitated, [thinking,] 'I wonder what task the trainer will have me do today? What should I do in response?' Some excellent thoroughbred horses are like this. And this is the first type of excellent thoroughbred horse to be found existing in the world.

§47. "Có bốn loài ngựa hiền thiện thuần thục này, này các Tỷ-kheo, có mặt, hiện hữu ở đời. Thế nào là bốn ? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có loài ngựa hiền thiện thuần thục, thấy bóng cây gậy thúc ngựa liền bị dao động, kích thích nghĩ rằng : 'Hôm nay, người đánh xe điều ngự ngựa sẽ bảo ta làm ǵ, và ta đáp ứng thế nào?' Như vậy, này các Tỷ-kheo, ở đây là loại ngựa hiền thiện thuần thục. Này các Tỷ-kheo, đây là loại ngựa hiền thiện thuần thục thứ nhất, có mặt, hiện hữu ở đời.

"Then again there is the case where an excellent thoroughbred horse is not stirred & agitated on seeing the shadow of the goad-stick, but when his hair is pricked [with the goad stick] he is stirred & agitated, [thinking,] 'I wonder what task the trainer will have me do today? What should I do in response?' Some excellent thoroughbred horses are like this. And this is the second type of excellent thoroughbred horse to be found existing in the world.

"Lại nữa, này các Tỷ-kheo, ở đây có loài ngựa hiền thiện thuần thục, thấy bóng cây gậy thúc ngựa, không bị dao động, kích thích. Nhưng khi bị gậy thúc ngựa đâm vào lông, nó liền bị dao động, kích thích, nghĩ rằng : 'Hôm nay, người đánh xe điều ngự ngựa sẽ bảo ta làm ǵ, và ta đáp ứng thế nào?' Như vậy, này các Tỷ-kheo, ở đây là loài ngựa hiền thiện thuần thục. Này các Tỷ-kheo, đây là loài ngựa hiền thiện thuần thục thứ hai, có mặt, hiện hữu ở đời.

"Then again there is the case where an excellent thoroughbred horse is not stirred & agitated on seeing the shadow of the goad-stick, or when his hair is pricked, but when his hide is pricked [with the goad stick] he is stirred & agitated, [thinking,] 'I wonder what task the trainer will have me do today? What should I do in response?' Some excellent thoroughbred horses are like this. And this is the third type of excellent thoroughbred horse to be found existing in the world.

"Lại nữa, này các Tỷ-kheo, ở đây có loài ngựa hiền thiện thuần thục, thấy bóng cây gậy thúc ngựa, không bị dao động, kích thích. Khi bị gậy thúc ngựa đâm vào lông, nó không bị dao động, kích thích. Nhưng khi bị cây gậy thúc ngựa đâm vào thịt, liền bị dao động, kích thích, nghĩ rằng : 'Hôm nay, người đánh xe điều ngự ngựa sẽ bảo ta làm ǵ và ta đáp ứng thế nào?' Như vậy, này các Tỷ-kheo, ở đây là loài ngựa hiền thiện, thuần thục. Này các Tỷ-kheo, đây là loài ngựa hiền thiện thuần thục thứ ba, có mặt, hiện hữu ở đời.

"Then again there is the case where an excellent thoroughbred horse is not stirred & agitated on seeing the shadow of the goad-stick, or when his hair is pricked, or when his hide is pricked, but when his bone is pricked [with the goad stick] he is stirred & agitated, [thinking,] 'I wonder what task the trainer will have me do today? What should I do in response?' Some excellent thoroughbred horses are like this. And this is the fourth type of excellent thoroughbred horse to be found existing in the world.

"Lại nữa, này các Tỷ-kheo, ở đây có loài ngựa hiền thiện thuần thục, thấy bóng cây gậy thúc ngựa, không bị dao động, kích thích ; bị cây gậy thúc ngựa đâm vào lông, không bị dao động, kích thích ; bị cây gậy thúc ngựa đâm vào thịt, không bị dao động, kích thích ; bị cây gậy thúc ngựa đâm vào xương, bị dao động, kích thích, nghĩ rằng : 'Hôm nay, người đánh xe điều ngự ngựa sẽ bảo ta làm ǵ và ta đáp ứng thế nào?' Như vậy, này các Tỷ-kheo, ở đây là loài ngựa hiền thiện, thuần thục. Này các Tỷ-kheo, đây là loài ngựa hiền thiện, thuần thục thứ tư, có mặt, hiện hữu ở đời.

"These are the four types of excellent thoroughbred horse to be found existing in the world.

"Này các Tỷ-kheo, có bốn loài ngựa hiền thiện, thuần thục, có mặt, hiện hữu ở đời.

"Now, there are these four types of excellent thoroughbred persons to be found existing in the world. Which four?

"Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, có bốn hạng người hiền thiện, thuần thục này có mặt, hiện hữu ở đời. Thế nào là bốn?

"There is the case where a certain excellent thoroughbred person hears, 'In that town or village over there a man or woman is in pain or has died.' He is stirred & agitated by that. Stirred, he becomes appropriately resolute. Resolute, he both realizes with his body the highest truth and, having penetrated it with discernment, sees. This type of excellent thoroughbred person, I tell you, is like the excellent thoroughbred horse who, on seeing the shadow of the goad-stick, is stirred & agitated. Some excellent thoroughbred people are like this. And this is the first type of excellent thoroughbred person to be found existing in the world.

"Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người hiền thiện, thuần thục nghe tại một làng hay thị trấn kia, có người đàn bà hay người đàn ông bị khổ đau hay bị mạng chung ; người ấy do vậy bị dao động, kích thích. Bị kích thích, vị ấy như lư tinh cần. Do tinh cần, với thân, vị ấy chứng ngộ được tối thắng sự thật ; với trí tuệ, vị ấy sau khi thể nhập, thấy được sự thật ấy. Ví như, này các Tỷ-kheo, con ngựa hiền thiện, thuần thục ấy, thấy bóng cây gậy thúc ngựa, bị dao động kích thích, Ta nói rằng, này các Tỷ-kheo, con người hiền thiện thuần thục này giống như ví dụ ấy. Như vậy, này các Tỷ-kheo, ở đây có hạng người hiền thiện. Này các Tỷ-kheo, đây là hạng người hiền thiện thuần thục thứ nhất có mặt, hiện hữu ở đời.

"Then again there is the case where a certain excellent thoroughbred person does not hear, 'In that town or village over there a man or woman is in pain or has died.' But he himself sees a man or woman in pain or dead. He is stirred & agitated by that. Stirred, he becomes appropriately resolute. Resolute, he both realizes with his body the highest truth and, having penetrated it with discernment, sees. This type of excellent thoroughbred person, I tell you, is like the excellent thoroughbred horse who, when its coat is pricked with the goad-stick, is stirred & agitated. Some excellent thoroughbred people are like this. And this is the second type of excellent thoroughbred person to be found existing in the world.

"Lại nữa, này các Tỷ-kheo, ở đây có hạng người hiền thiện, thuần thục không có nghe tại một làng hay thị trấn kia, có người đàn bà hay người đàn ông bị đau khổ hay bị mệnh chung, nhưng khi tự ḿnh thấy người đàn bà hay người đàn ông khổ đau hay mệnh chung, người ấy do vậy bị dao động, kích thích. Bị kích thích, vị ấy như lư tinh cần. Do tinh cần, với thân, vị ấy chứng ngộ được sự thật tối thắng ; với trí tuệ, vị ấy sau khi thể nhập, thấy được sự thật ấy. Ví như, này các Tỷ-kheo, con ngựa hiền thiện thuần thục ấy, khi bị cây gậy thúc ngựa đâm vào da, bị dao động, kích thích, Ta nói rằng, này các Tỷ-kheo, con người hiền thiện thuần thục này giống như ví dụ ấy. Như vậy, này các Tỷ-kheo, ở đây có hạng người hiền thiện. Này các Tỷ-kheo, đây là hạng người hiền thiện thuần thục thứ hai có mặt, hiện hữu ở đời

"Then again there is the case where a certain excellent thoroughbred person does not hear, 'In that town or village over there a man or woman is in pain or has died.' And he himself does not see a man or woman in pain or dead. But he sees one of his one blood relatives in pain or dead. He is stirred & agitated by that. Stirred, he becomes appropriately resolute. Resolute, he both realizes with his body the highest truth and, having penetrated it with discernment, sees. This type of excellent thoroughbred person, I tell you, is like the excellent thoroughbred horse who, when its hide is pricked with the goad-stick, is stirred & agitated. Some excellent thoroughbred people are like this. And this is the third type of excellent thoroughbred person to be found existing in the world.

"Lại nữa, này các Tỷ-kheo, ở đây có hạng người hiền thiện, thuần thục không có nghe tại một làng hay thị trấn kia, có người đàn bà hay người đàn ông bị khổ đau hay bị mệnh chung, không có tự ḿnh thấy người đàn bà hay người đàn ông khổ đau hay mệnh chung. Nhưng, khi có một người bà con hay người đồng một huyết thống khổ đau hay bị mệnh chung, người ấy do vậy bị dao động, kích thích. Bị kích thích, vị ấy như lư tinh cần. Do tinh cần, với thân vị ấy chứng ngộ được sự thật tối thắng ; với trí tuệ, vị ấy sau khi thể nhập, thấy được sự thật ấy. Ví như, này các Tỷ-kheo, con ngựa hiền thiện thuần thục ấy, khi bị cây gậy thúc ngựa đâm vào thịt, bị dao động, kích thích, Ta nói rằng, này các Tỷ-kheo, con người hiền thiện thuần thục này giống như ví dụ ấy. Như vậy, này các Tỷ-kheo, ở đây có hạng người hiền thiện. Này các Tỷ-kheo, đây là hạng người hiền thiện thuần thục thứ ba có mặt, hiện hữu ở đời.

"Then again there is the case where a certain excellent thoroughbred person does not hear, 'In that town or village over there a man or woman is in pain or has died.' And he himself does not see a man or woman in pain or dead, nor does he see one of his one blood relatives in pain or dead. But he himself is touched by bodily feelings that are painful, fierce, sharp, wracking, repellent, disagreeable, life-threatening. He is stirred & agitated by that. Stirred, he becomes appropriately resolute. Resolute, he both realizes with his body the highest truth and, having penetrated it with discernment, sees. This type of excellent thoroughbred person, I tell you, is like the excellent thoroughbred horse who, when its bone is pricked with the goad-stick, is stirred & agitated. Some excellent thoroughbred people are like this. And this is the fourth type of excellent thoroughbred person to be found existing in the world.

"Lại nữa, này các Tỷ-kheo, ở đây có hạng người hiền thiện thuần thục không có nghe tại một làng hay thị trấn kia, có người đàn bà hay người đàn ông bị khổ đau hay mệnh chung, không có tự ḿnh thấy người đàn bà hay người đàn ông khổ đau hay bị mệnh chung, không có người bà con hay người đồng một huyết thống khổ đau hay bị mệnh chung. Nhưng khi tự ḿnh cảm xúc những cảm thọ về thân khổ đau, nhói đau, chói đau, mănh liệt, kịch liệt, không phải khả hỷ, không khả ư, đoạt mạng sống, vị ấy bị dao động, kích thích. Bị kích thích, vị ấy như lư tinh cần. Do tinh cần, với thân, vị ấy chứng ngộ được sự thật tối thắng ; với trí tuệ, vị ấy sau khi thể nhập, thấy được sự thật ấy. Ví như, này các Tỷ-kheo, con ngựa hiền thiện thuần thục ấy, khi bị cây gậy thúc ngựa đâm vào xương mới bị dao động, kích thích, Ta nói rằng, này các Tỷ-kheo, con người hiền thiện thuần thục này giống như ví dụ ấy. Như vậy, này các Tỷ-kheo, ở đây có hạng người hiền thiện thuần thục. Này các Tỷ-kheo, đây là hạng người hiền thiện thuần thục thứ tư có mặt, hiện hữu ở đời.

"These are the four types of excellent thoroughbred persons to be found existing in the world."

AN 4.113

"Này các Tỷ-kheo, có bốn hạng người hiền thiện thuần thục này có mặt, hiện hữu ở đời."

AN 4.113

§48. "Monks, mindfulness of death — when developed & pursued — is of great fruit & great benefit. It gains a footing in the Deathless, has the Deathless as its final end. And how is mindfulness of death developed & pursued so that it is of great fruit & great benefit, gains a footing in the Deathless, and has the Deathless as its final end?

§48. "Niệm chết, này các Tỷ-kheo, được tu tập, được làm cho sung măn thời có quả lớn, có lợi ích lớn, thể nhập vào bất tử, cứu cánh là bất tử. Tu tập niệm chết như thế nào, làm cho sung măn niệm chết như thế nào thời đưa đến quả lớn, lợi ích lớn, thể nhập vào bất tử, cứu cánh là bất tử ?

"There is the case where a monk, as day departs and night returns, reflects: 'Many are the [possible] causes of my death. A snake might bite me, a scorpion might sting me, a centipede might bite me. That would be how my death would come about. That would be an obstruction for me. Stumbling, I might fall; my food, digested, might trouble me; my bile might be provoked, my phlegm... piercing wind forces [in the body] might be provoked. That would be how my death would come about. That would be an obstruction for me.' Then the monk should investigate: 'Are there any evil, unskillful mental qualities unabandoned by me that would be an obstruction for me were I to die in the night?' If, on reflecting, he realizes that there are evil, unskillful mental qualities unabandoned by him that would be an obstruction for him were he to die in the night, then he should put forth extra desire, effort, diligence, endeavor, undivided mindfulness, & alertness for the abandoning of those very same evil, unskillful qualities. Just as when a person whose turban or head was on fire would put forth extra desire, effort, diligence, endeavor, undivided mindfulness, & alertness to put out the fire on his turban or head, in the same way the monk should put forth extra desire, effort, diligence, endeavor, undivided mindfulness, & alertness for the abandoning of those very same evil, unskillful qualities. But if, on reflecting, he realizes that there are no evil, unskillful mental qualities unabandoned by him that would be an obstruction for him were he to die in the night, then for that very reason he should dwell in joy & rapture, training himself day & night in skillful qualities.

"Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo khi ngày vừa tàn và đêm vừa an trú, suy tư như sau : 'Các nhân duyên đem đến cái chết cho ta rất nhiều : "Con rắn có thể cắn ta, con ḅ cạp có thể cắn ta, hay con rít có thể cắn ta. Do vậy, ta có thể mệnh chung. Như vậy sẽ trở ngại cho ta. Ta có thể vấp ngă và té xuống. Cơm ta ăn có thể làm ta mắc bệnh khi ăn, hay mật có thể khuấy động ta, đàm có thể khuấy động ta. Các gió như kiếm có thể khuấy động ta. Và như vậy có thể làm ta mệnh chung. Như vậy sẽ là chướng ngại cho ta'. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy cần phải suy xét như sau : 'Nếu ta c̣n có những pháp ác bất thiện chưa được đoạn tận, nếu ta lỡ mệnh chung đêm nay, chúng có thể là chướng ngại cho ta'. Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo trong khi suy xét như vậy, biết được như sau : 'Ta có những pháp ác bất thiện chưa được đoạn tận, nếu ta lỡ mệnh chung đêm nay, chúng có thể là chướng ngại cho ta', thời này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy, để đoạn tận các pháp ác bất thiện ấy, cần phải tận lực tác động ước muốn, tinh tấn, tinh cần, nỗ lực, không có thối chuyển, chánh niệm và tỉnh giác. Ví như, này các Tỷ-kheo, áo bị cháy và tỉnh giác. Ví như, này các Tỷ-kheo, áo bị cháy hay đầu bị cháy, thời để dập tắt áo ấy hay đầu ấy, cần phải tận lực tác động ước muốn, tinh tấn, tinh cần, nỗ lực, không có thối chuyển, chánh niệm và tỉnh giác. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy, để đoạn tận các ác bất thiện pháp ấy, cần phải tận lực tác động ước muốn, tinh tấn, tinh cần, nỗ lực, không có thối chuyển, chánh niệm và tỉnh giác. Nếu Tỷ-kheo ấy, trong khi suy xét, biết được như sau : 'Ta có những pháp ác bất thiện chưa được đoạn tận, nếu ta lỡ mệnh chung đêm nay, chúng có thể là chướng ngại cho ta'. Này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo ấy cần phải sống hoan hỷ, hân hoan, ngày đêm cần phải học tập trong các thiện pháp.

"Further, there is the case where a monk, as night departs and day returns, reflects: 'Many are the [possible] causes of my death. A snake might bite me, a scorpion might sting me, a centipede might bite me. That would be how my death would come about. That would be an obstruction for me. Stumbling, I might fall; my food, digested, might trouble me; my bile might be provoked, my phlegm... piercing wind forces [in the body] might be provoked. That would be how my death would come about. That would be an obstruction for me.' Then the monk should investigate: 'Are there any evil, unskillful mental qualities unabandoned by me that would be an obstruction for me were I to die during the day?' If, on reflecting, he realizes that there are evil, unskillful mental qualities unabandoned by him that would be an obstruction for him were he to die during the day, then he should put forth extra desire, effort, diligence, endeavor, undivided mindfulness, & alertness for the abandoning of those very same evil, unskillful qualities. Just as when a person whose turban or head was on fire would put forth extra desire, effort, diligence, endeavor, undivided mindfulness, & alertness to put out the fire on his turban or head, in the same way the monk should put forth extra desire, effort, diligence, endeavor, undivided mindfulness, & alertness for the abandoning of those very same evil, unskillful qualities. But if, on reflecting, he realizes that there are no evil, unskillful mental qualities unabandoned by him that would be an obstruction for him were he to die during the day, then for that very reason he should dwell in joy & rapture, training himself day & night in skillful qualities.

"Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo khi đêm vừa tàn và ngày vừa an trú, suy tư như sau : 'Các nhân duyên đem đến cái chết cho ta rất nhiều : "Con rắn có thể cắn ta, con ḅ cạp có thể cắn ta, hay con rít có thể cắn ta. Do vậy, ta có thể mệnh chung. Như vậy sẽ là chướng ngại cho ta. Ta có thể vấp ngă và té xuống. Cơm ta ăn có thể làm ta mắc bệnh khi ăn, hay mật có thể khuấy động ta, hay đàm có thể khuấy động ta. Các gió như kiếm có thể khuấy động ta. Và như vậy có thể làm ta mệnh chung. Như vậy sẽ là chướng ngại cho ta'. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy cần phải suy xét như sau : 'Nếu ta c̣n có những pháp ác bất thiện chưa được đoạn tận, nếu ta lỡ mệnh chung trong ngày hôm nay, chúng có thể là chướng ngại cho ta'. Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo trong khi suy xét như vậy, biết được như sau : 'Ta có những pháp ác bất thiện chưa được đoạn tận, nếu ta lỡ mệnh chung ngày hôm nay, chúng có thể là chướng ngại cho ta', thời này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy, để đoạn tận các pháp ác bất thiện ấy, cần phải tận lực tác động ước muốn, tinh tấn, tinh cần, nỗ lực, không có thối chuyển, chánh niệm và tỉnh giác. Ví như, này các Tỷ-kheo, áo bị cháy và tỉnh giác. Ví như, này các Tỷ-kheo, áo bị cháy hay đầu bị cháy, thời để dập tắt áo ấy hay đầu ấy, cần phải tận lực tác động ước muốn, tinh tấn, tinh cần, nỗ lực, không có thối chuyển, chánh niệm và tỉnh giác. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy, để đoạn tận các ác bất thiện pháp ấy, cần phải tận lực tác động ước muốn, tinh tấn, tinh cần, nỗ lực, không có thối chuyển, chánh niệm và tỉnh giác. Nếu Tỷ-kheo ấy, trong khi suy xét, biết được như sau : 'Ta có những pháp ác bất thiện chưa được đoạn tận, nếu ta lỡ mệnh chung đêm nay, chúng có thể là chướng ngại cho ta'. Này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo ấy cần phải sống hoan hỷ, hân hoan, ngày đêm cần phải học tập trong các thiện pháp.

"This, monks, is how mindfulness of death is developed & pursued so that it is of great fruit & great benefit, gains a footing in the Deathless, and has the Deathless as its final end."

AN 6.20

"Này các Tỷ-kheo, niệm chết, tu tập như vậy, làm cho sung măn như vậy thời được quả lớn, được lợi ích lớn, thể nhập vào bất tử, cứu cánh là bất tử."

AN 6.20

§49. "Monks, mindfulness of death, when developed & pursued, is of great fruit & great benefit. It gains a footing in the Deathless, has the Deathless as its final end. Therefore you should develop mindfulness of death."

§49. "Niệm chết, này các Tỷ-kheo, được tu tập, được làm cho sung măn, có quả lớn, có lợi ích lớn, nhập vào bất tử, cứu cánh là bất tử. Này các Tỷ-kheo, các Thầy hăy tu tập niệm chết."

When this was said, a certain monk addressed the Blessed One, "I already develop mindfulness of death."

Được nói vậy, một Tỷ-kheo bạch Thế Tôn : "Bạch Thế Tôn, con có tu tập niệm chết."

"And how do you develop mindfulness of death?"

"Này các Tỷ-kheo, Thầy tu tập niệm chết như thế nào?"

"I think, 'O, that I might live for a day & night, that I might attend to the Blessed One's instructions. I would have accomplished a great deal.' This is how I develop mindfulness of death."

"Ở đây, bạch Thế Tôn, con suy nghĩ như sau : 'Mong rằng ta sống ngày và đêm tác ư đến lời dạy của Thế Tôn'. Con đă làm nhiều như vậy. Như vậy, bạch Thế Tôn, con tu tập niệm chết."

Then another monk addressed the Blessed One, "I, too, already develop mindfulness of death."

Một Tỷ-kheo khác bạch Thế Tôn : "Bạch Thế Tôn, con cũng tu tập niệm chết."

"And how do you develop mindfulness of death?"

"Này Tỷ-kheo, Thầy tu tập niệm chết như thế nào?"

"I think, 'O, that I might live for a day, that I might attend to the Blessed One's instructions. I would have accomplished a great deal.' This is how I develop mindfulness of death."

"Ở đây, bạch Thế Tôn, con suy nghĩ như sau : 'Mong rằng ta sống trọn ngày tác ư đến lời dạy của Thế Tôn'. Con đă làm nhiều như vậy. Như vậy, bạch Thế Tôn, con tu tập niệm chết."

Then another monk addressed the Blessed One, "I, too, develop mindfulness of death... "I think, 'O, that I might live for the interval that it takes to eat a meal, that I might attend to the Blessed One's instructions. I would have accomplished a great deal'...

Một Tỷ-kheo khác bạch Thế Tôn : "Bạch Thế Tôn, con cũng tu tập niệm chết... "Ở đây, bạch Thế Tôn, con suy nghĩ như sau : 'Mong rằng cho đến khi nào ta c̣n ăn đồ ăn khất thực, cho đến khi ấy, ta tác ư đến lời dạy của Thế Tôn'. Con đă làm nhiều như vậy. Như vậy, bạch Thế Tôn, con tu tập niệm chết...'

Then another monk addressed the Blessed One, "I, too, develop mindfulness of death... "I think, 'O, that I might live for the interval that it takes to swallow having chewed up four morsels of food, that I might attend to the Blessed One's instructions. I would have accomplished a great deal'...

Một Tỷ-kheo khác bạch Thế Tôn : "Bạch Thế Tôn, con cũng tu tập niệm chết... "Ở đây, bạch Thế Tôn, con suy nghĩ như sau : 'Mong rằng cho đến khi nào ta c̣n ăn và nuốt bốn, năm miếng đồ ăn, cho đến khi ấy, ta tác ư đến lời dạy của Thế Tôn'. Con đă làm nhiều như vậy. Như vậy, bạch Thế Tôn, con tu tập niệm chết...'

Then another monk addressed the Blessed One, "I, too, develop mindfulness of death... "I think, 'O, that I might live for the interval that it takes to swallow having chewed up one morsel of food, that I might attend to the Blessed One's instructions. I would have accomplished a great deal'...

Một Tỷ-kheo khác bạch Thế Tôn : "Bạch Thế Tôn, con cũng tu tập niệm chết... "Ở đây, bạch Thế Tôn, con suy nghĩ như sau : 'Mong rằng cho đến khi nào ta c̣n ăn một miếng đồ ăn, cho đến khi ấy, ta tác ư đến lời dạy của Thế Tôn'. Con đă làm nhiều như vậy. Như vậy, bạch Thế Tôn, con tu tập niệm chết...'

Then another monk addressed the Blessed One, "I, too, develop mindfulness of death... "I think, 'O, that I might live for the interval that it takes to breathe out after breathing in, or to breathe in after breathing out, that I might attend to the Blessed One's instructions. I would have accomplished a great deal.' This is how I develop mindfulness of death."

Một Tỷ-kheo khác bạch Thế Tôn : "Bạch Thế Tôn, con cũng tu tập niệm chết... "Ở đây, bạch Thế Tôn, con suy nghĩ như sau : 'Cho đến khi nào, sau khi thở vào, ta thở ra, hay sau khi thở ra, ta thở vào, cho đến khi ấy, ta tác ư đến lời dạy của Thế Tôn'. Con đă làm nhiều như vậy. Như vậy, bạch Thế Tôn, con tu tập niệm chết."

When this was said, the Blessed One addressed the monks. "Whoever develops mindfulness of death, thinking, 'O, that I might live for a day & night... for a day... for the interval that it takes to eat a meal... for the interval that it takes to swallow having chewed up four morsels of food, that I might attend to the Blessed One's instructions. I would have accomplished a great deal' — they are said to be dwelling heedlessly. They develop mindfulness of death slowly for the sake of ending the fermentations.

Được nghe nói vậy, Thế Tôn nói với các vị Tỷ-kheo ấy: "Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo này tu tập niệm chết như sau : 'Mong rằng ta sống ngày và đêm... 'Mong rằng ta sống trọn ngày... 'Mong rằng cho đến khi nào ta c̣n ăn đồ ăn khất thực... 'Mong rằng cho đến khi nào ta c̣n ăn và nuốt bốn, năm miếng đồ ăn, cho đến khi ấy, ta tác ư đến lời dạy của Thế Tôn, ta đă làm nhiều như vậy'. Này các Tỷ-kheo, những Tỷ-kheo ấy được gọi là những vị sống không phóng dật, tu tập rất sắc sảo niệm chết để đoạn diệt các lậu hoặc.

"But whoever develops mindfulness of death, thinking, 'O, that I might live for the interval that it takes to swallow having chewed up one morsel of food... for the interval that it takes to breathe out after breathing in, or to breathe in after breathing out, that I might attend to the Blessed One's instructions. I would have accomplished a great deal" — they are said to be dwelling heedfully. They develop mindfulness of death acutely for the sake of ending the fermentations.

"Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo này tu tập niệm chết như sau : 'Mong rằng cho đến khi nào ta c̣n ăn một miếng đồ ăn... 'Mong rằng cho đến khi nào sau khi thở vào, ta thở ra hay sau khi thở ra, ta thở vào, cho đến khi ấy, ta tác ư đến lời dạy của Thế Tôn, ta đă làm nhiều như vậy'. Này các Tỷ-kheo, những Tỷ-kheo ấy được gọi là những vị sống không phóng dật, tu tập rất sắc sảo niệm chết để đoạn diệt các lậu hoặc.

"Therefore you should train yourselves: 'We will dwell heedfully. We will develop mindfulness of death acutely for the sake of ending the fermentations.' That's how you should train yourselves."

"Do vậy, này các Tỷ-kheo, này các Tỷ-kheo, các Thầy cần phải tu học như sau : 'Hăy sống không phóng dật ! Ta sẽ tu tập một cách sắc sảo niệm chết để đoạn diệt các lậu hoặc".

That is what the Blessed One said. Gratified, the monks delighted in the Blessed One's words.

AN 6.19

Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Tỷ kheo hoan hỷ tín thọ lời dạy Thế Tôn.

AN 6.19

§50. "As if he were to see a corpse cast away in a charnel ground — one day, two days, three days dead — bloated, livid, & festering, the monk applies it to this very body, 'This body, too: Such is its nature, such is its future, such its unavoidable fate'...

§50. Tỷ kheo, như thấy một thi thể quăng bỏ trong nghĩa địa một ngày, hai ngày, ba ngày, thi thể ấy trương phồng lên, xanh đen lại, nát thối ra. Tỷ kheo quán thân ấy như sau: "Thân này tánh chất là như vậy, bản tánh là như vậy, không vượt khỏi tánh chất ấy."

"Or again, as if he were to see a corpse cast away in a charnel ground, picked at by crows, vultures, & hawks, by dogs, hyenas, & various other creatures... a skeleton smeared with flesh & blood, connected with tendons... a fleshless skeleton smeared with blood, connected with tendons... a skeleton without flesh or blood, connected with tendons... bones detached from their tendons, scattered in all directions — here a hand bone, there a foot bone, here a shin bone, there a thigh bone, here a hip bone, there a back bone, here a rib, there a chest bone, here a shoulder bone, there a neck bone, here a jaw bone, there a tooth, here a skull... the bones whitened, somewhat like the color of shells... piled up, more than a year old... decomposed into a powder: He applies it to this very body, 'This body, too: Such is its nature, such is its future, such its unavoidable fate.'

"Lại nữa này các Tỷ kheo, Tỷ kheo như thấy một thi thể quăng bỏ trong nghĩa địa bị các loài quạ ăn, hay bị các loài diều hâu ăn, hay bị các chim kên ăn; hay bị các loài chó ăn; hay bị các loài giả can ăn, hay bị các loài côn trùng ăn. Này các Tỷ kheo, lại nữa Tỷ kheo như thấy một thi thể bị quăng bỏ trong nghĩa địa; với các xương c̣n liên kết với nhau, c̣n dính thịt và máu, c̣n được các đường gân cốt lại; với các xương c̣n liên kết với nhau, không c̣n dính thịt nhưng c̣n dính máu, c̣n được các đường gân cột lại, với các xương c̣n liên kết với nhau, không c̣n dính thịt và máu, c̣n được các đường gân cột lại; chỉ c̣n có xương không dính lại với nhau, rải rác chỗ này chỗ kia, ở đây là xương tay, ở đây là xương chân, ở đây là xương ống, ở đay là xương bắp vế, ở đây là xương mông, ở đây là xương sống, ở đây là xương đầu. Lại nữa này các Tỷ kheo, Tỷ kheo như thấy một thi thể quăng bỏ trong nghĩa địa, chỉ c̣n toàn xương trắng màu vỏ ốc... chỉ c̣n một đống xương lâu hơn một năm... chỉ c̣n là xương thối trở thành bột. Tỷ kheo quán thân ấy như sau: "Thân này tánh chất là như vậy, bản tánh là như vậy, không vượt khỏi tánh chất ấy.

"In this way he remains focused internally on the body in & of itself, or externally on the body in & of itself, or both internally & externally on the body in & of itself. Or he remains focused on the phenomenon of origination with regard to the body, on the phenomenon of passing away with regard to the body, or on the phenomenon of origination & passing away with regard to the body. Or his mindfulness that 'There is a body' is maintained to the extent of knowledge & remembrance. And he remains independent, unsustained by (not clinging to) anything in the world. This is how a monk remains focused on the body in & of itself.

DN 22

Như vậy vị ấy sống quán thân trên nội thân; hay sống quán thân trên ngoại thân; hay sống quán thân trên nội thân, ngoại thân. Hay sống quán tánh sanh khởi trên thân; hay sống quán tánh diệt tận trên thân; hay sống quán tánh sanh diệt trên thân. "Có thân đây", vị ấy sống an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật ǵ ở trên đời. Này các Tỷ kheo, như vậy Tỷ kheo sống quán thân trên thân.

DN 22

§51.

[Ven. Mahakala:]

This swarthy woman
[preparing a corpse for cremation]
	— crow-like, enormous —
breaking a thigh & then the other
	thigh,
breaking an arm & then the other
		arm,
cracking open the head,
	like a pot of curds,
she sits with them heaped up beside her.

Whoever, unknowing,
makes acquisitions
	— the fool —
returns over & over
to suffering & stress.
So, discerning,
don't make acquisitions.
	May I never lie
	with my head cracked open
		again.

Thag 1.16

§51.

[Tôn giả Mahakala:]

Nữ Kàĺ, đẫy đà,
Dung sắc như quạ đen,
Bẻ gẫy một bắp vế,
Lại bẻ bắp vế nữa,
Bẻ gẫy một cánh tay,
Lại bẻ cánh tay nữa,
Lại bẻ gẫy cái đầu,
Như bát đựng sữa đông.
Này Kàĺ ngồi xuống,
Với ḷng tin sẵn sàng.

Ai không rơ biết vậy,
Lại tác thành sanh y,
Kẻ ngu bước đi đến,
Chịu khổ đau liên tục,
Do vậy ai hiểu biết,
Không tạo nên sanh y,
Ta sẽ không nằm xuống,
Với đầu bị bẻ nát.

Thag 1.16

§52.

[Sister Nanda:]

"Sick, putrid, unclean:
look, Nanda, at this physical heap.
Through contemplation of the foul,
develop your mind,
make it one, well-centered.

	As this [your body], so that.
	As that, so this.
It gives off a foul stench,
the delight of fools."

Considering it thus,
untiring, both day & night,
I, with my own discernment
	dissecting it,
		saw.
And as I, heedful,
	examined it aptly,
this body — as it actually is —
was seen inside & out.

Then was I disenchanted with the body
	& dispassionate within:
Heedful, detached,
	calmed was I.
		Unbound.

Thig 5.4

§52.

[Trưởng Lăo Ni Nanda:]

Nandà, hăy nh́n thân,
Bệnh bất tịnh, hôi thúi,
Hăy tu tâm bất tịnh,
Nhứt tâm khéo định tỉnh.

Như thân này thân ấy,
Như thân ấy thân này,
Hôi thối và rữa nát,
Chỉ kẻ ngu thích thú.

Như vậy quán thân này,
Ngày đêm không mệt mỏi,
Với trí tuệ của con,
Do vậy hăy thoát ly,
Với trí tuệ của con,
Thoát khỏi kiêu sắc đẹp,
Và người si nh́n thấy,
Với cái nh́n như thật.

Với tâm không phóng dật,
Như lư, quán thân ấy,
Tánh như thật thân này,
Được thấy trong và ngoài.

Ta nhàm chán thân thể,
Nội tâm được ly tham,
Không phóng dật ly hệ,
Ta an b́nh tịch tịnh.

Thig 5.4

§53. I have heard that on one occasion the Blessed One was staying in Savatthi, at Jetavana, Anathapindika's monastery. There he addressed the monks: "Monks!"

"Yes, lord," the monks replied.

§53.Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở Savatthi (Xá-vệ), Jetavana (Kỳ-đà lâm), tại tịnh xá ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đấy Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo : "Này các Tỷ-kheo".

"Thưa vâng, bạch Thế Tôn". Các vị Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn.

The Blessed One said: "Monks, I will teach you the summary & exposition of one who has had an auspicious day. Listen & pay close attention. I will speak."

"As you say, lord," the monks replied.

Thế Tôn nói như sau: "Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ thuyết giảng cho các Ông Nhứt dạ Hiền giả (Bhaddekaratta), tổng thuyết và biệt thuyết. Hăy nghe và suy nghiệm kỹ, Ta sẽ thuyết giảng."

"Thưa vâng, bạch Thế Tôn." Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn.

The Blessed One said:

One would not chase after the past,
nor place expectations on the future.
What is past
	is left behind.
The future
	is as yet unreached.
Whatever quality is present
one clearly sees 	right there,
	right there.
Unvanquished, unshaken,
that's how one develops the mind.

Ardently doing one's duty today,
for — who knows? — tomorrow
	death may come.
There is no bargaining
with Death & his mighty horde.

Whoever lives thus ardently,
	relentlessly
	both day & night,
has truly had an auspicious day:
So says the Peaceful Sage.

Thế Tôn nói như sau:

Quá khứ không truy t́m 
Tương lai không ước vọng. 
Quá khứ 
    đă đoạn tận, 
Tương lai 
        lại chưa đến, 
Chỉ có pháp hiện tại 
Tuệ quán chính ở đây. 

Không động,
       không rung chuyển 
Biết vậy, nên tu tập, 
Hôm nay 
         nhiệt tâm làm, 
Ai biết chết 
           ngày mai ? 
Không ai điều đ́nh được, 
Với đại quân thần chết, 

Trú như vậy nhiệt tâm, 
Đêm ngày không mệt mỏi, 
Xứng gọi Nhứt dạ Hiền, 
Bậc an tịnh, trầm lặng. 

"And how, monks, does one chase after the past? One gets carried away with the delight of 'In the past I had such a form (body)'... 'In the past I had such a feeling'... 'In the past I had such a perception'... 'In the past I had such a thought-fabrication'... 'In the past I had such a consciousness.' This is called chasing after the past.

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là truy t́m quá khứ ? Vị ấy nghĩ :
-"Như vậy là sắc của tôi trong quá khứ", và truy t́m sự hân hoan trong ấy;
-"Như vậy là thọ của tôi trong quá khứ",... "Như vậy là tưởng của tôi trong quá khứ",... "Như vậy là hành của tôi trong quá khứ",... "Như vậy, là thức của tôi trong quá khứ",và truy t́m sự hân hoan trong ấy;
Như vậy, này các Tỷ-kheo, là truy t́m quá khứ.

"And how does one not chase after the past? One does not get carried away with the delight of 'In the past I had such a form (body)'... 'In the past I had such a feeling'... 'In the past I had such a perception'... 'In the past I had such a thought-fabrication'... 'In the past I had such a consciousness.' This is called not chasing after the past.

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là không truy t́m quá khứ ? Vị ấy nghĩ :
-"Như vậy là sắc của tôi trong quá khứ", và không truy t́m sự hân hoan trong ấy;
-"Như vậy là thọ của tôi trong quá khứ",... "Như vậy là tưởng của tôi trong quá khứ",... "Như vậy là hành của tôi trong quá khứ",... "Như vậy là thức của tôi trong quá khứ"; và không truy t́m sự hân hoan trong ấy.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, là không truy t́m quá khứ.

"And how does one place expectations on the future? One gets carried away with the delight of 'In the future I might have such a form (body)'... 'In the future I might have such a feeling'... 'In the future I might have such a perception'... 'In the future I might have such a thought-fabrication'... 'In the future I might have such a consciousness.' This is called placing expectations on the future.

Và này các Tỷ-kheo, thế nào ước vọng tương lai ? Vị ấy nghĩ :
"Mong rằng như vậy sẽ là sắc của tôi trong tương lai", và truy t́m sự hân hoan trong ấy;
"Mong rằng như vậy sẽ là thọ của tôi trong tương lai",... "Mong rằng như vậy là tưởng của tôi... "Mong rằng như vậylà hành của tôi... "Mong rằng như vậy là thức của tôi trong tương lai", và truy t́m sự hân hoan trong ấy.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, là ước vọng trong tương lai.

"And how does one not place expectations on the future? One does not get carried away with the delight of 'In the future I might have such a form (body)'... 'In the future I might have such a feeling'... 'In the future I might have such a perception'... 'In the future I might have such a thought-fabrication'... 'In the future I might have such a consciousness.' This is called not placing expectations on the future.

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là không ước vọng trong tương lai ? Vị ấy nghĩ :
-"Mong rằng như vậy sẽ là sắc của tôi trong tương lai", và không truy t́m hân hoan trong ấy;
-"Mong rằng như vậy sẽ là thọ của tôi trong tương lai",... "Mong rằng như vậy sẽ là tưởng... "Mong rằng như vậy sẽ là hành... "Mong rằng như vậy sẽ là thức của tôi trong tương lai", và không truy t́m hân hoan trong ấy.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, là ước vọng trong tương lai.

"And how is one vanquished with regard to present qualities? There is the case where an uninstructed run-of-the-mill person who has not seen the noble ones, is not versed in the teachings of the noble ones, is not trained in the teachings of the noble ones, sees form as self, or self as possessing form, or form as in self, or self as in form.

Và này các Tỷ-kheo, như thế nào là bị lôi cuốn trong các pháp hiện tại ?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có kẻ vô văn phàm phu không đi đến các bậc Thánh, không thuần thục pháp các bậc Thánh, không tu tập pháp các bậc Thánh; không đi đến các bậc Chân nhân, không thuần thục pháp các bậc Chân nhân, không tu tập pháp các bậc Chân nhân; quán sắc là tự ngă, hay quán tự ngă là có sắc, hay quán sắc là trong tự ngă, hay quán tự ngă là trong sắc.

"He/she sees feeling as self... perception as self... thought-fabrications as self...

Hay vị ấy quán thọ là tự ngă, hay quán tự ngă là có thọ; hay quán thọ là trong tự ngă, hay quán tự ngă là trong thọ. Hay vị ấy quán tưởng là trong tự ngă..., Hay vị ấy quán hành là tự ngă...,

"He/she sees consciousness as self, or self as possessing consciousness, or consciousness as in self, or self as in consciousness. This is called being vanquished with regard to present qualities.

Hay vị ấy quán thức là tự ngă, hay quán tự ngă là có thức, hay quán thức là trong tự ngă, hay quán tự ngă là trong thức. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là bị lôi cuốn trong các pháp hiện tại.

"And how is one not vanquished with regard to present qualities? There is the case where a disciple of the noble ones who has seen the noble ones, is versed in the teachings of the noble ones, is well-trained in the teachings of the noble ones, does not see form as self, or self as possessing form, or form as in self, or self as in form.

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là không bị lôi cuốn trong các pháp hiện tại ? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có vị Đa văn Thánh đệ tử đi đến các bậc Thánh, thuần thục pháp các bậc Thánh, tu tập pháp các bậc Thánh, đi đến các bậc Chân nhân, thuần thục pháp các bậc Chân nhân, tu tập pháp các bậc Chân nhân. Vị này không quán sắc là tự ngă, không quán tự ngă là có sắc, không quán sắc là trong tự ngă, không quán tự ngă trong sắc.

"He/she does not see feeling as self... perception as self... thought-fabrications as self...

Vị này không quán thọ là tự ngă..., không quán tưởng là tự ngă..., không quán hành là tự ngă...

He/she does not see consciousness as self, or self as possessing consciousness, or consciousness as in self, or self as in consciousness. This is called not being vanquished with regard to present qualities.

Vị này không quán thức là tự ngă, không quán tự ngă là có thức, không quán thức là trong tự ngă, không quán tự ngă trong thức.

One would not chase after the past,
nor place expectations on the future.
What is past
	is left behind.
The future
	is as yet unreached.
Whatever quality is present
one clearly sees 	right there,
	right there.
Unvanquished, unshaken,
that's how one develops the mind.

Ardently doing one's duty today,
for — who knows? — tomorrow
	death may come.
There is no bargaining
with Death & his mighty horde.

Whoever lives thus ardently,
	relentlessly
	both day & night,
has truly had an auspicious day:
So says the Peaceful Sage.

MN 131

  

Quá khứ không truy t́m 
Tương lai không ước vọng. 
Quá khứ 
           đă đoạn tận, 
Tương lai
        lại chưa đến, 
Chỉ có pháp hiện tại 
Tuệ quán 
     chính ở đây. 
Không động,
      không rung chuyển 
Biết vậy, nên tu tập, 
Hôm nay 
     nhiệt tâm làm, 
Ai biết chết
         ngày mai ? 
Không ai điều đ́nh được, 
Với đại quân thần chết, 

Trú như vậy nhiệt tâm, 
Đêm ngày không mệt mỏi, 
Xứng gọi Nhứt dạ Hiền, 
Bậc an tịnh, trầm lặng. 

MN 131

Separation

§54. "From an inconstruable beginning comes transmigration. A beginning point is not evident, though beings hindered by ignorance and fettered by craving are transmigrating & wandering on. A being who has not been your mother at one time in the past is not easy to find... A being who has not been your father... your brother... your sister... your son... your daughter at one time in the past is not easy to find.

Separation

§54. "Vô thỉ là luân hồi này, này các Tỷ-kheo khởi điểm không thể nêu rơ đối với sự lưu chuyển luân hồi của các chúng sanh bị vô minh che đậy, bị tham ái trói buộc. Này các Tỷ-kheo, thật không dễ ǵ t́m được một chúng sanh, trong thời gian dài này, lại không một lần đă làm mẹ,... lại không một lần đă làm cha,... lại không một lần đă làm anh,... lại không một lần đă làm chị,... lại không một lần đă làm con trai, thật không dễ ǵ t́m được một chúng sanh, trong thời gian dài này, lại không một lần đă làm con gái.

"Why is that? From an inconstruable beginning comes transmigration. A beginning point is not evident, though beings hindered by ignorance and fettered by craving are transmigrating & wandering on. Long have you thus experienced stress, experienced pain, experienced loss, swelling the cemeteries — enough to become disenchanted with all fabricated things, enough to become dispassionate, enough to be released."

SN 15.14-19

"V́ sao? Vô thỉ là luân hồi này, này các Tỷ-kheo khởi điểm không thể nêu rơ đối với sự lưu chuyển luân hồi của các chúng sanh bị vô minh che đậy, bị tham ái trói buộc. Đă lâu ngày, này Bà-la-môn, các Ông chịu đựng khổ, chịu đựng thống khổ, chịu đựng tai họa, và các mộ phần ngày một lớn lên. Cho đến như vậy, này Bà-la-môn, là vừa đủ để nhàm chán, là vừa đủ để từ bỏ, là vừa đủ để được giải thoát đối với tất cả các hành."

SN 15.14-19

§55. "Which is greater, the tears you have shed while transmigrating & wandering this long, long time — crying & weeping from being joined with what is displeasing, being separated from what is pleasing — or the water in the four great oceans?"

§55. "Các Ông nghĩ thế nào, này các Tỷ-kheo, cái ǵ là nhiều hơn? Ḍng nước mắt tuôn chảy do các Ông than van, khóc lóc, phải hội ngộ với những ǵ không ưa, phải biệt ly với những ǵ ḿnh thích, khi các Ông phải lưu chuyển luân hồi trong thời gian dài này hay là nước trong bốn biển lớn?"

"As we understand the Dhamma taught to us by the Blessed One, this is the greater: the tears we have shed while transmigrating & wandering this long, long time — crying & weeping from being joined with what is displeasing, being separated from what is pleasing — not the water in the four great oceans."

"Bạch Thế Tôn, theo như lời Thế Tôn thuyết pháp, chúng con hiểu rằng, cái này, bạch Thế Tôn, là nhiều hơn, tức là ḍng nước mắt tuôn chảy do chúng con than van, khóc lóc phải hội ngộ với những ǵ không ưa, phải biệt ly với những ǵ ḿnh thích, khi phải lưu chuyển luân hồi trong thời gian dài này chớ không phải nước trong bốn biển lớn."

"Excellent, monks. Excellent. It is excellent that you thus understand the Dhamma taught by me.

"Lành thay, lành thay, này các Tỷ-kheo! Lành thay, này các Tỷ-kheo, các Ông đă hiểu như vậy Pháp do Ta dạy!

"This is the greater: the tears you have shed while transmigrating & wandering this long, long time — crying & weeping from being joined with what is displeasing, being separated from what is pleasing — not the water in the four great oceans.

"Cái này là nhiều hơn, này các Tỷ-kheo, tức là ḍng nước mắt tuôn chảy do các Ông than van, khóc lóc, phải hội ngộ với những ǵ không ưa, phải biệt ly với những ǵ ḿnh thích, khi các Ông phải lưu chuyển luân hồi trong thời gian dài này chớ không phải nước trong bốn biển lớn.

"Long have you (repeatedly) experienced the death of a mother. The tears you have shed over the death of a mother while transmigrating & wandering this long, long time — crying & weeping from being joined with what is displeasing, being separated from what is pleasing — are greater than the water in the four great oceans.

"Trong một thời gian dài, này các Tỷ-kheo, các Ông chịu đựng mẹ chết. Cái này là nhiều hơn, là ḍng nước mắt tuôn chảy do các Ông than van, khóc lóc, phải hội ngộ với những ǵ ḿnh không ưa, phải biệt ly với những ǵ ḿnh thích, khi các Ông phải chịu đựng mẹ chết chớ không phải nước trong bốn biển.

"Long have you (repeatedly) experienced the death of a father... the death of a brother... the death of a sister... the death of a son... the death of a daughter... loss with regard to relatives... loss with regard to wealth... loss with regard to disease. The tears you have shed over loss with regard to disease while transmigrating & wandering this long, long time — crying & weeping from being joined with what is displeasing, being separated from what is pleasing — are greater than the water in the four great oceans.

"Trong một thời gian dài, này các Tỷ-kheo, các Ông chịu đựng cha chết... các Ông chịu đựng anh chết... các Ông chịu đựng chị chết... các Ông chịu đựng con trai chết... các Ông chịu đựng con gái chết... các Ông chịu đựng tai họa về bà con... các Ông chịu đựng tai họa về tiền của... các Ông chịu đựng tai họa của bệnh tật. Cái này là nhiều hơn, là ḍng nước mắt tuôn chảy do các Ông than van, khóc lóc, phải hội ngộ với những ǵ ḿnh không ưa, phải biệt ly với những ǵ ḿnh thích, khi các Ông phải chịu đựng tai họa, bệnh tật chớ không phải nước trong bốn biển.

"Why is that? From an inconstruable beginning comes transmigration. A beginning point is not evident, though beings hindered by ignorance and fettered by craving are transmigrating & wandering on. Long have you thus experienced stress, experienced pain, experienced loss, swelling the cemeteries — enough to become disenchanted with all fabricated things, enough to become dispassionate, enough to be released."

SN 15.3

"V́ sao? Vô thỉ là luân hồi này, này các Tỷ-kheo, khởi điểm không thể nêu rơ đối với sự lưu chuyển luân hồi của các chúng sanh bị vô minh che đậy, bị tham ái trói buộc. Cho đến như vậy, này các Tỷ-kheo, là vừa đủ để các Ông nhàm chán, là vừa đủ để các Ông từ bỏ, là vừa đủ để các Ông giải thoát đối với tất cả các hành."

SN 15.3

Kamma

§56. These four types of kamma have been understood, realized, & made known by me. Which four? There is kamma that is dark with dark result; kamma that is bright with bright result; kamma that is dark & bright with dark & bright result; and kamma that is neither dark nor bright with neither dark nor bright result, leading to the ending of kamma.

^^^^^

And what is kamma that is dark with dark result? There is the case where a certain person fabricates an injurious bodily fabrication... an injurious verbal fabrication... an injurious mental fabrication... He rearises in an injurious world where he is touched by injurious contacts... He experiences feelings that are exclusively painful, like those of the beings in hell. This is called kamma that is dark with dark result.

^^^^^

And what is kamma that is bright with bright result? There is the case where a certain person fabricates an uninjurious bodily fabrication... an uninjurious verbal fabrication... an uninjurious mental fabrication... He rearises in an uninjurious world where he is touched by uninjurious contacts... He experiences feelings that are exclusively pleasant, like those of the Ever-radiant Devas. This is called kamma that is bright with bright result.

^^^^^

And what is kamma that is dark & bright with dark & bright result? There is the case where a certain person fabricates a bodily fabrication that is injurious & uninjurious... a verbal fabrication that is injurious & uninjurious... a mental fabrication that is injurious & uninjurious... He rearises in an injurious & uninjurious world where he is touched by injurious & uninjurious contacts... He experiences injurious & uninjurious feelings, pleasure mingled with pain, like those of human beings, some devas, and some beings in the lower realms. This is called kamma that is dark & bright with dark & bright result.

^^^^^

And what is kamma that is neither dark nor bright with neither dark nor bright result, leading to the ending of kamma? The intention right there to abandon this kamma that is dark with dark result, the intention right there to abandon this kamma that is bright with bright result, the intention right there to abandon this kamma that is dark & bright with dark & bright result. This is called kamma that is neither dark nor bright with neither dark nor bright result, leading to the ending of kamma.

— AN 4.232

^^^^^

§57. [A related discourse repeats most of the above, defining dark kamma with dark result with the following example: "There is the case of a certain person who kills living beings, steals what is not given, engages in illicit sex, tells lies, and drinks fermented & distilled liquors that are the basis for heedlessness," and bright kamma with bright result with the following example: "There is the case of a certain person who abstains from killing living beings, abstains from stealing what is not given, abstains from engaging in illicit sex, abstains from telling lies, and abstains from drinking fermented & distilled liquors that are the basis for heedlessness."]

— AN 4.234

^^^^^

§58. And what is kamma that is neither dark nor bright with neither dark nor bright result, leading to the ending of kamma? Right view, right resolve, right speech, right action, right livelihood, right effort, right mindfulness, right concentration.

— AN 4.237

^^^^^

§59. [The discourse immediately following this is identical to this except that it replaces the above factors of the noble eightfold path with the following seven factors for Awakening: mindfulness as a factor for Awakening, analysis of qualities... persistence... rapture... serenity... concentration... equanimity as a factor for Awakening.]

— AN 4.238

^^^^^

§60. I have heard that on one occasion the Blessed One was staying near Rajagaha, at the Bamboo Grove, the Squirrels' Feeding Ground.

§60. Như vầy tôi nghe.
Một thời, Thế Tôn trú ở Rajagaha (Vương Xá), Veluvana (Trúc Lâm), tại Kalandakanivapa (chỗ nuôi dưỡng sóc).

At that time Ven. Rahula1 was staying at the Mango Stone. Then the Blessed One, arising from his seclusion in the late afternoon, went to where Ven. Rahula was staying at the Mango Stone. Ven. Rahula saw him coming from afar and, on seeing him, set out a seat & water for washing the feet. The Blessed One sat down on the seat set out and, having sat down, washed his feet. Ven. Rahula, bowing down to the Blessed One, sat to one side.

Lúc bấy giờ, Tôn giả Rahula (La-hầu-la) ở tại Ambalatthika. Rồi Thế Tôn, vào buổi chiều, từ Thiền tịnh đứng dậy, đi đến Ambalatthika, chỗ Tôn giả Rahula ở. Tôn giả Rahula thấy Thế Tôn từ xa đi đến, sau khi thấy, liền sửa soạn chỗ ngồi và nước rửa chân. Thế Tôn ngồi xuống trên chỗ đă soạn sẵn, và sau khi ngồi, Ngài rửa chân. Tôn giả Rahula đảnh lễ Thế Tôn và ngồi xuống một bên.

Then the Blessed One, having left a little bit of water in the water dipper, said to Ven. Rahula, "Rahula, do you see this little bit of left-over water remaining in the water dipper?"

"Yes sir."

Rồi Thế Tôn, sau khi để một ít nước c̣n lại trong chậu nước, bảo Tôn giả Rahula:
– Này Rahula, Ông có thấy một ít nước c̣n lại này trong chậu nước không ?

– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

"That's how little of a contemplative there is in anyone who feels no shame at telling a deliberate lie."

– Cũng ít vậy, này Rahula, là Sa-môn hạnh của những người nào biết mà nói láo, không có tàm quư.

Having tossed away the little bit of left-over water, the Blessed One said to Ven. Rahula, "Rahula, do you see how this little bit of left-over water is tossed away?"

"Yes, sir."

Rồi Thế Tôn, sau khi đổ đi chút ít nước c̣n lại ấy rồi bảo Rahula:
– Này Rahula, Ông có thấy chút ít nước c̣n lại ấy bị đổ đi không ?

– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

"Whatever there is of a contemplative2 in anyone who feels no shame at telling a deliberate lie is tossed away just like that."

– Cũng đổ đi vậy, này Rahula, là Sa-môn hạnh của những người nào biết mà nói láo, không có tàm quư.

Having turned the water dipper upside down, the Blessed One said to Ven. Rahula, "Rahula, do you see how this water dipper is turned upside down?"

"Yes, sir."

Rồi Thế Tôn lật úp chậu nước ấy và bảo Tôn giả Rahula.
– Này Rahula, Ông có thấy chậu nước bị lật úp ấy không ?

– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

"Whatever there is of a contemplative in anyone who feels no shame at telling a deliberate lie is turned upside down just like that."

Cũng lật úp vậy, này Rahula, là Sa-môn hạnh của những người nào biết mà nói láo, không có tàm quư.

Having turned the water dipper right-side up, the Blessed One said to Ven. Rahula, "Rahula, do you see how empty & hollow this water dipper is?"

"Yes, sir."

Rồi Thế Tôn lật ngửa trở lại chậu nước ấy và bảo Tôn giả Rahula:
– Này Rahula, Ông có thấy chậu nước này trống không không ?

– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

"Whatever there is of a contemplative in anyone who feels no shame at telling a deliberate lie is empty & hollow just like that.

– Cũng trống không vậy, này Rahula, là Sa-môn hạnh của những người nào biết mà nói láo.

"Rahula, it's like a royal elephant: immense, pedigreed, accustomed to battles, its tusks like chariot poles. Having gone into battle, it uses its forefeet & hindfeet, its forequarters & hindquarters, its head & ears & tusks & tail, but will simply hold back its trunk. The elephant trainer notices that and thinks, 'This royal elephant has not given up its life to the king.' But when the royal elephant... having gone into battle, uses its forefeet & hindfeet, its forequarters & hindquarters, its head & ears & tusks & tail & his trunk, the trainer notices that and thinks, 'This royal elephant has given up its life to the king. There is nothing it will not do.'

Này Rahula, ví như một con voi của vua, có ngà dài như một cán cày, to lớn, khéo luyện, thường có mặt ở chiến trường. Khi lâm trận, con voi này dùng hai chân trước, dùng hai chân sau, dùng phần thân trước, dùng phần thân sau, dùng đầu, dùng tai, dùng ngà, dùng đuôi, nhưng bảo vệ cái ṿi. Ở đây, người nài nghĩ rằng: "Con voi của vua này có ngà dài như một cán cày, to lớn, khéo luyện, thường hay có mặt ở chiến trường. Khi lâm trận con voi này thường dùng hai chân trước, dùng hai chân sau, dùng phần thân trước, dùng phần thân sau, dùng đầu, dùng tai, dùng ngà, dùng đuôi, nhưng bảo vệ cái ṿi. Con voi của vua (như vậy) không quăng bỏ mạng sống (của ḿnh)". Này Rahula, nhưng khi con voi của vua, có ngà dài như một cán cày, to lớn, khéo luyện, thường hay có mặt ở chiến trường, khi lâm trận, con voi này dùng hai chân trước, dùng hai chân sau, dùng phần thân trước, dùng phần thân sau, dùng đầu, dùng tai, dùng ngà, dùng đuôi, dùng ṿi. Ở đây, người nài nghĩ rằng: "Con voi của vua này, có ngà dài như một cán cày, to lớn, khéo luyện, thường hay có mặt ở chiến trường, Khi lâm trận con voi này thường dùng hai chân trước, dùng hai chân sau, dùng phần thân trước, dùng phần thân sau, dùng đầu, dùng tai, dùng ngà, dùng đuôi, dùng ṿi. Con voi của vua (như vậy) đă quăng bỏ mạng sống (của ḿnh), và nay con voi của vua không có việc ǵ mà không làm".

"The same holds true with anyone who feels no shame in telling a deliberate lie: There is no evil, I tell you, he will not do. Thus, Rahula, you should train yourself, 'I will not tell a deliberate lie even in jest.'

"What do you think, Rahula: What is a mirror for?"

"For reflection, sir."

"In the same way, Rahula, bodily acts, verbal acts, & mental acts are to be done with repeated reflection.

Cũng vậy, này Rahula, đối với ai biết mà nói láo, không có tàm quư, thời Ta nói rằng người ấy không có việc ác ǵ mà không làm. Do vậy, này Rahula, "Ta quyết không nói láo, dầu nói để mà chơi", này Rahula, Ông phải học tập như vậy.

Này Rahula, Ông nghĩ thế nào ? Mục đích của cái gương là ǵ ?

– Bạch Thế Tôn, mục đích là để phản tỉnh.

– Cũng vậy, này Rahula, sau khi phản tỉnh nhiều lần, hăy hành thân nghiệp. Sau khi phản tỉnh nhiều lần, hăy hành khẩu nghiệp. Sau khi phản tỉnh nhiều lần, hăy hành ư nghiệp.

"Whenever you want to perform a bodily act, you should reflect on it: 'This bodily act I want to perform — would it lead to self-affliction, to the affliction of others, or to both? Is it an unskillful bodily act, with painful consequences, painful results?' If, on reflection, you know that it would lead to self-affliction, to the affliction of others, or to both; it would be an unskillful bodily act with painful consequences, painful results, then any bodily act of that sort is absolutely unfit for you to do. But if on reflection you know that it would not cause affliction... it would be a skillful bodily action with happy consequences, happy results, then any bodily act of that sort is fit for you to do.

Này Rahula, khi Ông muốn làm một thân nghiệp ǵ, hăy phản tỉnh thân nghiệp ấy như sau: "Thân nghiệp này của ta có thể đưa đến tự hại, có thể đưa đến hại người, có thể đưa đến hại cả hai; thời thân nghiệp này là bất thiện, đưa đến đau khổ, đem đến quả báo đau khổ". Này Rahula, nếu trong khi phản tỉnh, Ông biết: "Thân nghiệp này, ta muốn làm. Thân nghiệp này của ta có thể đưa đến tự hại, có thể đưa đến hại người, có thể đưa đến hại cả hai; thời thân nghiệp này là bất thiện, đưa đến đau khổ, đem đến quả báo đau khổ". Một thân nghiệp như vậy, này Rahula, Ông nhất định chớ có làm. Này Rahula, nếu sau khi phản tỉnh, ông biết: "Thân nghiệp này ta muốn làm. Thân nghiệp này của ta không có thể đưa đến tự hại, không có thể đưa đến hại người, không có thể đưa đến hại cả hai; thời thân nghiệp này là thiện, đưa đến an lạc, đem đến quả báo an lạc". Một thân nghiệp như vậy, này Rahula, Ông nên làm.

"While you are performing a bodily act, you should reflect on it: 'This bodily act I am doing — is it leading to self-affliction, to the affliction of others, or to both? Is it an unskillful bodily act, with painful consequences, painful results?' If, on reflection, you know that it is leading to self-affliction, to affliction of others, or both... you should give it up. But if on reflection you know that it is not... you may continue with it.

Này Rahula, khi Ông đang làm một thân nghiệp, Ông cần phải phản tỉnh thân nghiệp ấy như sau: "Thân nghiệp này ta đang làm. Thân nghiệp này của ta đưa đến tự hại, đưa đến hại người, đưa đến hại cả hai; thời thân nghiệp này là bất thiện, đưa đến đau khổ; đem đến quả báo đau khổ. Này Rahula, nếu trong khi phản tỉnh, Ông biết: "Thân nghiệp này ta đang làm. Thân nghiệp này của ta đưa đến tự hại, đưa đến hại người, đưa đến hại cả hai; thời thân nghiệp này là bất thiện, đưa đến đau khổ, đưa đến quả báo đau khổ". Này Rahula, ông hăy từ bỏ một thân nghiệp như vậy. Nhưng nếu, này Rahula, trong khi phản tỉnh ông biết như sau: "Thân nghiệp này ta đang làm. Thân nghiệp này của ta không đưa đến tự hại, không đưa đến hại người, không đưa đến hại cả hai; thời thân nghiệp này là thiện, đưa đến an lạc, đem đến quả báo an lạc". Thân nghiệp như vậy, này Rahula, Ông cần phải tiếp tục làm.

"Having performed a bodily act, you should reflect on it... If, on reflection, you know that it led to self-affliction, to the affliction of others, or to both; it was an unskillful bodily act with painful consequences, painful results, then you should confess it, reveal it, lay it open to the Teacher or to a knowledgeable companion in the holy life. Having confessed it... you should exercise restraint in the future. But if on reflection you know that it did not lead to affliction... it was a skillful bodily action with happy consequences, happy results, then you should stay mentally refreshed & joyful, training day & night in skillful mental qualities.

Sau khi Ông làm xong một thân nghiệp, này Rahula, Ông cần phải phản tỉnh thân nghiệp ấy như sau: "Thân nghiệp này ta đă làm. Thân nghiệp này của ta đưa đến tự hại, đưa đến hại người, đưa đến hại cả hai; thời thân nghiệp này là bất thiện, đưa đến đau khổ, đem đến quả báo đau khổ". Nếu trong khi phản tỉnh, này Rahula, Ông biết như sau: "Thân nghiệp này ta đă làm. Thân nghiệp này đưa đến tự hại, đưa đến hại người, đưa đến hại cả hai; thời thân nghiệp này là bất thiện đưa đến đau khổ, đem đến quả báo đau khổ". Một thân nghiệp như vậy, này Rahula, Ông cần phải thưa lên, cần phải tỏ lộ, cần phải tŕnh bày trước các vị Đạo sư, hay trước các vị đồng Phạm hạnh có trí. Sau khi đă thưa lên, tỏ lộ, tŕnh bày, cần phải pḥng hộ trong tương lai. Nếu trong khi phản tỉnh, này Rahula Ông biết như sau: "Thân nghiệp này ta đă làm. Thân nghiệp này không đưa đến tự hại, không đưa đến hại người, không đưa đến hại cả hai; thời thân nghiệp này thiện, đưa đến an lạc, đem đến quả báo an lạc". Do vậy, này Rahula, Ông phải an trú trong niềm hoan hỷ tự ḿnh tiếp tục tu học ngày đêm trong các thiện pháp.

(Similarly with verbal acts)

"Whenever you want to perform a mental act, you should reflect on it: 'This mental act I want to perform — would it lead to self-affliction, to the affliction of others, or to both? Is it an unskillful mental act, with painful consequences, painful results?' If, on reflection, you know that it would lead to self-affliction, to the affliction of others, or to both; it would be an unskillful mental act with painful consequences, painful results, then any mental act of that sort is absolutely unfit for you to do. But if on reflection you know that it would not cause affliction... it would be a skillful mental action with happy consequences, happy results, then any mental act of that sort is fit for you to do.

Này Rahula, như Ông muốn làm một ư nghiệp ǵ, hăy phản tỉnh ư nghiệp ấy như sau: "Ư nghiệp này của ta có thể đưa đến tự hại, có thể đưa đến hại người, có thể đưa đến hại cả hai, ư nghiệp này là bất thiện, đưa đến đau khổ, đem đến quả báo đau khổ". Này Rahula, nếu trong khi phản tỉnh, Ông biết: "Ư nghiệp này ta muốn làm. Ư nghiệp này của ta có thể đưa đến tự hại, có thể đưa đến hại người, có thể đưa đến hại cả hai; thời ư nghiệp này là bất thiện, đưa đến đau khổ, đưa đến quả báo đau khổ". Một ư nghiệp như vậy, này Rahula, Ông nhất định chớ có làm. Này Rahula, nếu trong khi phản tỉnh, ông biết: "Ư nghiệp này ta muốn làm. Ư nghiệp này của ta không có thể đưa đến tự hại, không có thể đưa đến hại người, không có thể đưa đến hại cả hai; thời ư nghiệp này là thiện, đưa đến an lạc, đem đến quả báo an lạc". Ư nghiệp như vậy, này Rahula, Ông nên làm.

"While you are performing a mental act, you should reflect on it: 'This mental act I am doing — is it leading to self-affliction, to the affliction of others, or to both? Is it an unskillful mental act, with painful consequences, painful results?' If, on reflection, you know that it is leading to self-affliction, to the affliction of others, or to both... you should give it up. But if on reflection you know that it is not... you may continue with it.

Này Rahula, khi Ông đang làm một ư nghiệp, Ông cần phải phản tỉnh ư nghiệp ấy như sau: "Ư nghiệp này ta đang làm. Ư nghiệp này của ta đưa đến tự hại, đưa đến hại người, đưa đến hại cả hai; thời ư nghiệp này là bất thiện, đưa đến đau khổ, đưa đến quả báo đau khổ". Này Rahula, nếu trong khi phản tỉnh, Ông biết: "Ư nghiệp này ta đang làm. Ư nghiệp này của ta đưa đến tự hại, đưa đến hại người, đưa đến hại cả hai; thời ư nghiệp này là bất thiện, đưa đến đau khổ, đem lại quả báo đau khổ". Này Rahula, Ông hăy từ bỏ một ư nghiệp như vậy. Nhưng nếu, này Rahula, khi phản tỉnh Ông biết như sau: "Ư nghiệp này ta đang làm. Ư nghiệp này của ta không đưa đến tự hại, không đưa đến hại người, không đưa đến hại cả hai; thời ư nghiệp này là thiện, đưa đến an lạc, đem đến quả báo an lạc". Ư nghiệp như vậy, này Rahula, Ông phải tiếp tục làm.

"Having performed a mental act, you should reflect on it... If, on reflection, you know that it led to self-affliction, to the affliction of others, or to both; it was an unskillful mental act with painful consequences, painful results, then you should feel distressed, ashamed, & disgusted with it. Feeling distressed... you should exercise restraint in the future. But if on reflection you know that it did not lead to affliction... it was a skillful mental action with happy consequences, happy results, then you should stay mentally refreshed & joyful, training day & night in skillful mental qualities.

Sau khi Ông làm xong một ư nghiệp, này Rahula, Ông cần phải phản tỉnh ư nghiệp âư như sau: "Ư nghiệp này ta đă làm. Ư nghiệp này của ta đưa đến tự hại, đưa đến hại người, đưa đến hại cả hai; thời ư nghiệp này là bất thiện, đưa đến đau khổ, đem lại quả báo đau khổ, đem đến quả báo đau khổ". Nếu trong khi phản tỉnh, này Rahula, Ông biết như sau: "Ư nghiệp này ta đă làm. Ư nghiệp này đưa đến tự hại, đưa đến hại người, đưa đến hại cả hai; ư nghiệp này là bất thiện, đưa đến đau khổ, đưa đến quả báo đau khổ". Một ư nghiệp như vậy, này Rahula, Ông cần phải lo âu, cần phải tàm quư, cần phải nhàm chán. Sau khi lo âu, tàm quư, nhàm chán, cần phải pḥng hộ trong tương lai. C̣n nếu trong khi phản tỉnh, này Rahula, Ông biết: "Ư nghiệp này ta đă làm. Ư nghiệp này không đưa đến tự hại, không đưa đến hại người, không đưa đến hại cả hai, ư nghiệp này là thiện, đưa đến an lạc, đem đến quả báo an lạc". Do vậy, này Rahula, Ông phải an trú trong niềm hoan hỷ, tự ḿnh tiếp tục tu học ngày đêm trong các thiện pháp.

"Rahula, all those priests & contemplatives in the course of the past who purified their bodily acts, verbal acts, & mental acts, did it through repeated reflection on their bodily acts, verbal acts, & mental acts in just this way.

Này Rahula, trong thời quá khứ, những Sa-môn hay Bà-la-môn nào đă tịnh hóa thân nghiệp, đă tịnh hóa khẩu nghiệp, đă tịnh hóa ư nghiệp, tất cả những vị ấy, sau khi phản tỉnh như vậy nhiều lần đă tịnh hóa thân nghiệp, sau khi phản tỉnh như vậy nhiều lần, đă tịnh hóa khẩu nghiệp, sau khi phản tỉnh như vậy nhiều lần, đă tịnh hóa ư nghiệp.

"All those priests & contemplatives in the course of the future who will purify their bodily acts, verbal acts, & mental acts, will do it through repeated reflection on their bodily acts, verbal acts, & mental acts in just this way.

Này Rahula, trong thời vị lai, những Sa-môn hay Bà-la-môn nào sẽ tịnh hóa thân nghiệp, sẽ tịnh hóa khẩu nghiệp, sẽ tịnh hóa ư nghiệp, tất cả những vị ấy; sau khi phản tỉnh như vậy nhiều lần, sẽ tịnh hóa thân nghiệp, sau khi phản tỉnh như vậy nhiều lần, sẽ tịnh hóa khẩu nghiệp, sau khi phản tỉnh nhiều lần, sẽ tịnh hóa ư nghiệp.

"All those priests & contemplatives at present who purify their bodily acts, verbal acts, & mental acts, do it through repeated reflection on their bodily acts, verbal acts, & mental acts in just this way.

Này Rahula, trong thời hiện tại, những Sa-môn hay Bà-la-môn nào tịnh hóa thân nghiệp, tịnh hóa khẩu nghiệp, tịnh hóa ư nghiệp, tất cả những vị ấy, sau khi phản tỉnh như vậy nhiều lần, tịnh hóa khẩu nghiệp; sau khi phản tỉnh như vậy nhiều lần, tịnh hóa ư nghiệp.

"Thus, Rahula, you should train yourself: 'I will purify my bodily acts through repeated reflection. I will purify my verbal acts through repeated reflection. I will purify my mental acts through repeated reflection.' That's how you should train yourself."

Do vậy, này Rahula: "Sau khi phản tỉnh nhiều lần, tôi sẽ tịnh hóa thân nghiệp; sau khi phản tỉnh nhiều lần, tôi sẽ tịnh hóa khẩu nghiệp, sau khi phản tỉnh nhiều lần, tôi sẽ tịnh hóa ư nghiệp". Như vậy, này Rahula, Ông cần phải tu học.

That is what the Blessed One said. Gratified, Ven. Rahula delighted in the Blessed One's words.

MN 61

Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Tôn giả Rahula, hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn giảng.

Notes

1. Rahula: the Buddha's son, who according to the Commentary was seven years old when this discourse was delivered to him.

2.Samañña. Throughout ancient cultures, the terminology of music was used to describe the moral quality of people and acts. Discordant intervals or poorly-tuned musical instruments were metaphors for evil; harmonious intervals and well-tuned instruments were metaphors for good. In Pali, the termsama — "even" — described an instrument tuned on-pitch. There is a famous passage where the Buddha reminds Sona Kolivisa — who had been over-exerting himself in the practice — that a lute sounds appealing only if the strings are neither too taut or too lax, but "evenly" tuned. This image would have special resonance with the Buddha's teaching on the middle way. It also adds meaning to the termsamana — monk or contemplative — which the texts frequently mention as being derived fromsama. The wordsamañña — "evenness," the quality of being in tune — also means the quality of being a contemplative: the true contemplative is always in tune with what is proper and good.

^^^^^

Dark Kamma, Bright Kamma

§61. Then a certain devata, in the far extreme of the night, her extreme radiance lighting up the entirety of Jeta's Grove, went to the Blessed One and, on arrival, having bowed down to him, stood to one side. As she was standing there, she recited these verses in the Blessed One's presence:

When a house is on fire,
the vessel salvaged
is the one that will be of use,
	not the one left there to burn.

So when the world is on fire
with aging & death,
one should salvage [one's wealth] by giving:
	what's given is well salvaged.

What's given bears fruit as pleasure.
What isn't given does not:
	thieves take it away, or kings;
	it gets burnt by fire or lost.

Then in the end
one leaves the body
together with one's possessions.
Knowing this, the intelligent man
enjoys possessions & gives.
Having enjoyed & given
in line with his means,
	uncensured he goes
	to the heavenly state.

SN 1.41

Nghiệp Đen, Nghiệp Trắng

§61. Rồi một vị Thiên, sau khi đêm đă gần măn, với dung sắc thù thắng chói sáng toàn vùng Jetavana, đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng một bên. Đứng một bên, vị Thiên ấy nói lên bài kệ này trước mặt Thế Tôn:

Trong ngôi nhà thiêu cháy,
Vật dụng đem ra ngoài,
Vật ấy có lợi ích,
Không phải vật bị thiêu.
Cũng vậy trong đời này,
Bị già chết thiêu cháy,
Hăy đem ra, bằng thí,
Vật thí, khéo đem ra.
Có thí, có lạc quả,
Không thí, không như vậy.
Kẻ trộm, vua cướp đoạt,
Lửa thiêu đốt hủy hoại,
Khi giờ cuối cùng đến,
Bỏ thân, bỏ sở hữu.
Kẻ trí, hiểu biết vậy,
Thọ dụng và bố thí,
Thí xong, thọ dụng xong,
Theo lực hành động ấy,
Không bị ai chỉ trích,
Vị ấy được sanh Thiên.

SN 1.41

§62. As he was sitting to one side, King Pasenadi Kosala said to the Blessed One: "Just now, lord, while I was alone in seclusion, this train of thought arose in my awareness: 'Who are dear to themselves, and who are not dear to themselves?' Then it occurred to me: 'Those who engage in bodily misconduct, verbal misconduct, & mental misconduct are not dear to themselves. Even though they may say, "We are dear to ourselves," still they aren't dear to themselves. Why is that? Of their own accord, they act toward themselves as an enemy would act toward an enemy; thus they aren't dear to themselves. But those who engage in good bodily conduct, good verbal conduct, & good mental conduct are dear to themselves. Even though they may say, "We aren't dear to ourselves," still they are dear to themselves. Why is that? Of their own accord, they act toward themselves as a dear one would act toward a dear one; thus they are dear to themselves.'"

§62. Ngồi xuống một bên, vua Pasenadi nước Kosala bạch Thế Tôn: "Bạch Thế Tôn, ở đây khi con đang ngồi yên tịnh một ḿnh, tư tưởng này khởi lên nơi con: 'Đối với những ai, tự ngă là thân ái? Đối với những ai, tự ngă là kẻ thù?' Và rồi bạch Thế Tôn, con suy nghĩ như sau: 'Những ai sống thân làm ác, sống miệng nói ác, sống ư nghĩ ác; đối với người ấy, tự ngă là kẻ thù. Dầu họ có nói: "Tự ngă là thân ái của chúng tôi", nhưng tự ngă đối với họ là kẻ thù. V́ sao vậy? Những ǵ kẻ thù làm cho kẻ thù, tự ngă của họ làm cho tự ngă của họ như vậy. Do vậy, đối với họ, tự ngă là kẻ thù. Những ai sống thân làm thiện, sống miệng nói thiện, sống ư nghĩ thiện, đối với họ, tự ngă là thân ái. Dầu cho họ có nói: "Tự ngă là kẻ thù của chúng tôi", nhưng tự ngă đối với họ là thân ái. V́ sao vậy? Những ǵ kẻ thân ái làm cho kẻ thân ái, tự ngă của họ làm cho tự ngă của họ như vậy. Do vậy, đối với họ, tự ngă là kẻ thân ái.'"

"That's the way it is, great king! That's the way it is! Those who engage in bodily misconduct, verbal misconduct, & mental misconduct are not dear to themselves. Even though they may say, 'We are dear to ourselves,' still they aren't dear to themselves. Why is that? Of their own accord, they act toward themselves as an enemy would act toward an enemy; thus they aren't dear to themselves. But those who engage in good bodily conduct, good verbal conduct, & good mental conduct are dear to themselves. Even though they may say, 'We aren't dear to ourselves,' still they are dear to themselves. Why is that? Of their own accord, they act toward themselves as a dear one would act toward a dear one; thus they are dear to themselves."

"Như vậy là phải, thưa Đại vương. Thưa Đại vương, những ai sống thân làm ác, sống miệng nói ác, sống ư nghĩ ác; đối với người ấy, tự ngă là kẻ thù. Dầu họ có nói: 'Tự ngă là thân ái của chúng tôi', nhưng tự ngă đối với họ là kẻ thù. V́ sao vậy? Những ǵ kẻ thù làm cho kẻ thù, tự ngă của họ làm cho tự ngă của họ như vậy Do vậy, đối với họ, tự ngă là kẻ thù. Thưa Đại vương, những ai sống thân làm thiện, sống ư nghĩ thiện, đối với họ, tự ngă là thân ái. Dầu cho họ có nói: 'Tự ngă là kẻ thù của chúng tôi', nhưng tự ngă đối với họ là thân ái. V́ sao vậy? Những ǵ kẻ thân ái làm cho kẻ thân ái, tự ngă của họ làm cho tự ngă của họ như vậy Do vậy, đối với họ, tự ngă là kẻ thân ái.

That is what the Blessed One said. Having said that, the One Well-Gone, the Teacher, said further:

"If you hold yourself dear
then don't fetter yourself
	with evil,
for happiness isn't easily gained
	by one who commits
	a wrong-doing.

When seized by the End-maker
	as you abandon the human state,
what's truly your own?
What do you take along when you go?
What follows behind you
	like a shadow
	that never leaves?

	Both the merit & evil
	that you as a mortal
	perform here:
that's 	what's truly your own,
		what you take along when you go;
that's 	what follows behind you
	like a shadow
	that never leaves.

So do what is admirable,
as an accumulation
	for the future life.
Deeds of merit are the support for beings
	when they arise
	in the other world."

SN 3.4

Đó là những ǵ mà Đức Thế Tôn giảng dạy:

Nếu những ai biết được, 
Tự ngă là thân ái, 
Họ sẽ không liên hệ, 
Với các điều ác hạnh. 
Kẻ làm điều ác hạnh, 
Khó được chơn hạnh phúc, 
Bị thần chết cầm tù, 
Từ bỏ thân làm người. 
Kẻ có nghiệp như vậy, 
Cái ǵ là của ḿnh? 
Lấy cái ǵ đem đi? 
Cái ǵ theo dơi họ, 
Như bóng theo dơi h́nh? 
Ở đây kẻ bị chết, 
Làm các nghiệp công đức, 
Làm các nghiệp ác đức, 
Lấy cả hai đem đi. 
Cả hai của kẻ ấy, 
Như bóng theo dơi h́nh. 
Cả hai theo kẻ ấy, 
Do vậy hăy làm lành, 
Tích lũy cho đời sau, 
Công đức cho đời sau, 
Là hậu cứ cho người. 

SN 3.4

§63. "Monks, there are these eight rewards of merit, rewards of skillfulness, nourishments of happiness, celestial, resulting in happiness, leading to heaven, leading to what is desirable, pleasurable, & appealing, to welfare & happiness. Which eight?

§63. "Này các Tỷ-kheo, có tám nguồn nước công đức này, là nguồn nước thiện, món ăn cho an lạc làm nhơn sanh Thiên, quả dị thục an lạc, đưa đến cơi trời, dẫn đến khả ái, khả hỷ, khả ư, hạnh phúc, an lạc. Thế nào là tám ?

"There is the case where a disciple of the noble ones has gone to the Buddha for refuge. This is the first reward of merit...

"Ở đây, này các Tỷ-kheo, Thánh đệ tử quy y Phật. Này các Tỷ-kheo, đây là nguồn nước công đức thứ nhất...

"Furthermore, the disciple of the noble ones has gone to the Dhamma for refuge. This is the second reward of merit...

"Ở đây, này các Tỷ-kheo, Thánh đệ tử quy y Pháp. Này các Tỷ-kheo, đây là nguồn nước công đức thứ hai...

"Furthermore, the disciple of the noble ones has gone to the Sangha for refuge. This is the third reward of merit...

"Ở đây, này các Tỷ-kheo, Thánh đệ tử quy y Tăng. Này các Tỷ-kheo, đây là nguồn nước công đức thứ ba...

"Now, there are these five gifts, five great gifts — original, long-standing, traditional, ancient, unadulterated, unadulterated from the beginning — that are not open to suspicion, will never be open to suspicion, and are unfaulted by knowledgeable contemplatives & priests. Which five?

"Này các Tỷ-kheo, có năm bố thí này, là đại bố thí, được biết là tối sơ, được biết là lâu ngày, được biết là truyền thống cổ xưa, trước không tạp loạn, hiện tại không tạp loạn, tương lai không tạp loạn, không bị những Sa-môn, những Bà-la-môn có trí khinh thường. Thế nào là năm ?

"There is the case where a disciple of the noble ones, abandoning the taking of life, abstains from taking life. In doing so, he gives freedom from danger, freedom from animosity, freedom from oppression to limitless numbers of beings. In giving freedom from danger, freedom from animosity, freedom from oppression to limitless numbers of beings, he gains a share in limitless freedom from danger, freedom from animosity, and freedom from oppression. This is the first gift, the first great gift — original, long-standing, traditional, ancient, unadulterated, unadulterated from the beginning — that is not open to suspicion, will never be open to suspicion, and is unfaulted by knowledgeable contemplatives & priests. And this is the fourth reward of merit...

"Ở đây, này các Tỷ-kheo, Thánh đệ tử đoạn tận sát sanh. Này các Tỷ-kheo, Thánh đệ tử từ bỏ sát sanh, đem cho không sợ hăi cho vô lượng chúng sanh, đem cho không hận thù cho vô lượng chúng sanh, đem cho không hại cho vô lượng chúng sanh ; sau khi cho vô lượng chúng sanh, không sợ hăi, không hận thù, không hại, vị ấy sẽ được san sẽ vô lượng không sợ hăi, không hận thù, không hại. Này các Tỷ-kheo, đây là bố thí thứ nhất, là đại bố thí, được biết là tối sơ, được biết là lâu ngày, được biết là truyền thống cổ xưa, trước không tạp loạn, hiện tại không tạp loạn, tương lai không tạp loạn, không bị những Sa-môn, những Bà-la-môn có trí khinh thường. Này các Tỷ-kheo, đây là nguồn nước công đức thứ tư...

"Furthermore, abandoning taking what is not given (stealing), the disciple of the noble ones abstains from taking what is not given. In doing so, he gives freedom from danger, freedom from animosity, freedom from oppression to limitless numbers of beings. In giving freedom from danger, freedom from animosity, freedom from oppression to limitless numbers of beings, he gains a share in limitless freedom from danger, freedom from animosity, and freedom from oppression. This is the second gift, the second great gift... and this is the fifth reward of merit...

"Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Thánh đệ tử đoạn tận lấy của không cho, từ bỏ lấy của không cho, đem cho không sợ hăi cho vô lượng chúng sanh, đem cho không hận thù cho vô lượng chúng sanh, đem cho không hại cho vô lượng chúng sanh ; sau khi cho vô lượng chúng sanh, không sợ hăi, không hận thù, không hại, vị ấy sẽ được san sẽ vô lượng không sợ hăi, không hận thù, không hại. Này các Tỷ-kheo, đây là bố thí thứ hai , là đại bố thí,... Này các Tỷ-kheo, đây là nguồn nước công đức thứ năm...

"Furthermore, abandoning illicit sex, the disciple of the noble ones abstains from illicit sex. In doing so, he gives freedom from danger, freedom from animosity, freedom from oppression to limitless numbers of beings. In giving freedom from danger, freedom from animosity, freedom from oppression to limitless numbers of beings, he gains a share in limitless freedom from danger, freedom from animosity, and freedom from oppression. This is the third gift, the third great gift... and this is the sixth reward of merit...

"Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Thánh đệ tử đoạn tận tà hạnh trong các dục, từ bỏ tà hạnh trong các dục, đem cho không sợ hăi cho vô lượng chúng sanh, đem cho không hận thù cho vô lượng chúng sanh, đem cho không hại cho vô lượng chúng sanh ; sau khi cho vô lượng chúng sanh, không sợ hăi, không hận thù, không hại, vị ấy sẽ được san sẽ vô lượng không sợ hăi, không hận thù, không hại. Này các Tỷ-kheo, đây là bố thí thứ ba, là đại bố thí,... Này các Tỷ-kheo, đây là nguồn nước công đức thứ sáu

"Furthermore, abandoning lying, the disciple of the noble ones abstains from lying. In doing so, he gives freedom from danger, freedom from animosity, freedom from oppression to limitless numbers of beings. In giving freedom from danger, freedom from animosity, freedom from oppression to limitless numbers of beings, he gains a share in limitless freedom from danger, freedom from animosity, and freedom from oppression. This is the fourth gift, the fourth great gift... and this is the seventh reward of merit...

"Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Thánh đệ tử đoạn tận nói láo, từ bỏ nói láo, đem cho không sợ hăi cho vô lượng chúng sanh, đem cho không hận thù cho vô lượng chúng sanh, đem cho không hại cho vô lượng chúng sanh ; sau khi cho vô lượng chúng sanh, không sợ hăi, không hận thù, không hại, vị ấy sẽ được san sẽ vô lượng không sợ hăi, không hận thù, không hại. Này các Tỷ-kheo, đây là bố thí thứ tư, là đại bố thí,... Này các Tỷ-kheo, đây là nguồn nước công đức thứ bảy,

"Furthermore, abandoning the use of intoxicants, the disciple of the noble ones abstains from taking intoxicants. In doing so, he gives freedom from danger, freedom from animosity, freedom from oppression to limitless numbers of beings. In giving freedom from danger, freedom from animosity, freedom from oppression to limitless numbers of beings, he gains a share in limitless freedom from danger, freedom from animosity, and freedom from oppression. This is the fifth gift, the fifth great gift — original, long-standing, traditional, ancient, unadulterated, unadulterated from the beginning — that is not open to suspicion, will never be open to suspicion, and is unfaulted by knowledgeable contemplatives & priests. And this is the eighth reward of merit, reward of skillfulness, nourishment of happiness, celestial, resulting in happiness, leading to heaven, leading to what is desirable, pleasurable, & appealing; to welfare & to happiness.

AN 8.39

"Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Thánh đệ tử đoạn tận đắm say rượu men, rượu nấu, đem cho không sợ hăi cho vô lượng chúng sanh, đem cho không hận thù cho vô lượng chúng sanh, đem cho không hại cho vô lượng chúng sanh ; sau khi cho vô lượng chúng sanh, không sợ hăi, không hận thù, không hại, vị ấy sẽ được san sẽ vô lượng không sợ hăi, không hận thù, không hại. Này các Tỷ-kheo, đây là bố thí thứ năm, là đại bố thí, được biết là tối sơ, được biết là lâu ngày, được biết là truyền thống cổ xưa, trước không tạp loạn, hiện tại không tạp loạn, tương lai không tạp loạn, không bị những Sa-môn, những Bà-la-môn có trí khinh thường. Này các Tỷ-kheo, đây là nguồn nước công đức thứ tám, là nguồn nước thiện, món ăn cho an lạc làm nhơn sanh Thiên, quả dị thục an lạc, đưa đến cơi trời, dẫn đến khả ái, khả hỷ, khả ư, hạnh phúc, an lạc.

AN 8.39

§64. "The taking of life — when indulged in, developed, & pursued — is something that leads to hell, leads to rebirth as a common animal, leads to the realm of the hungry shades. The slightest of all the results coming from the taking of life is that, when one becomes a human being, it leads to a short life span.

§64. "Này các Tỷ-kheo, sát sanh được thực hiện, được tu tập, được làm cho sung măn, đưa đến địa ngục, đưa đến loại bàng sanh, đưa đến cơi ngạ quỷ. Quả dị thục hết sức nhẹ của sát sanh là được làm người với tuổi thọ ngắn.

"Stealing — when indulged in, developed, & pursued — is something that leads to hell, leads to rebirth as a common animal, leads to the realm of the hungry shades. The slightest of all the results coming from stealing is that, when one becomes a human being, it leads to the loss of one's wealth.

"Này các Tỷ-kheo, lấy của không cho được thực hiện, được tu tập, được làm cho sung măn, đưa đến địa ngục, đưa đến loại bàng sanh, đưa đến cơi ngạ quỷ. Quả dị thục hết sức nhẹ của lấy của không cho là được làm người với sự tổn hại tài sản.

"Illicit sexual behavior — when indulged in, developed, & pursued — is something that leads to hell, leads to rebirth as a common animal, leads to the realm of the hungry shades. The slightest of all the results coming from illicit sexual behavior is that, when one becomes a human being, it leads to rivalry & revenge.

"Này các Tỷ-kheo, tà hạnh trong các dục được thực hiện, được tu tập, được làm cho sung măn, đưa đến địa ngục, đưa đến loại bàng sanh, đưa đến cơi ngạ quỷ. Quả dị thục hết sức nhẹ của tà hạnh trong các dục là được làm người với sự oán thù của kẻ địch.

"Telling falsehoods — when indulged in, developed, & pursued — is something that leads to hell, leads to rebirth as a common animal, leads to the realm of the hungry shades. The slightest of all the results coming from telling falsehoods is that, when one becomes a human being, it leads to being falsely accused.

"Này các Tỷ-kheo, nói láo được thực hiện, được tu tập, được làm cho sung măn, đưa đến địa ngục, đưa đến loại bàng sanh, đưa đến cơi ngạ quỷ. Quả dị thục hết sức nhẹ của nói láo là được làm người bị vu cáo không đúng sự thật.

"Malicious tale-bearing — when indulged in, developed, & pursued — is something that leads to hell, leads to rebirth as a common animal, leads to the realm of the hungry shades. The slightest of all the results coming from malicious tale-bearing is that, when one becomes a human being, it leads to the breaking of one's friendships.

"Này các Tỷ-kheo, nói hai lưỡi được thực hiện, được tu tập, được làm cho sung măn, đưa đến địa ngục, đưa đến loại bàng sanh, đưa đến cơi ngạ quỷ. Quả dị thục hết sức nhẹ của nói hai lưỡi là được làm người với bạn bè bị đổ vỡ.

"Harsh speech — when indulged in, developed, & pursued — is something that leads to hell, leads to rebirth as a common animal, leads to the realm of the hungry shades. The slightest of all the results coming from harsh speech is that, when one becomes a human being, it leads to unappealing sounds.

"Này các Tỷ-kheo, nói ác khẩu được thực hiện, được tu tập, được làm cho sung măn, đưa đến địa ngục, đưa đến loại bàng sanh, đưa đến cơi ngạ quỷ. Quả dị thục hết sức nhẹ của nói ác khẩu là được làm người và được nghe những tiếng không khả ư.

"Frivolous chattering — when indulged in, developed, & pursued — is something that leads to hell, leads to rebirth as a common animal, leads to the realm of the hungry shades. The slightest of all the results coming from frivolous chattering is that, when one becomes a human being, it leads to words that aren't worth taking to heart.

"Này các Tỷ-kheo, nói lời phù phiếm được thực hiện, được tu tập, được làm cho sung măn, đưa đến địa ngục, đưa đến loại bàng sanh, đưa đến cơi ngạ quỷ. Quả dị thục hết sức nhẹ của nói lời phù phiếm là được làm người và được nghe những lời khó chấp nhận.

"The drinking of fermented & distilled liquors — when indulged in, developed, & pursued — is something that leads to hell, leads to rebirth as a common animal, leads to the realm of the hungry shades. The slightest of all the results coming from drinking fermented & distilled liquors is that, when one becomes a human being, it leads to mental derangement."

AN 8.40

"Này các Tỷ-kheo, uống men rượu, rượu nấu, được thực hiện, được tu tập, được làm cho sung măn, đưa đến địa ngục, đưa đến loại bàng sanh, đưa đến cơi ngạ quỷ. Quả dị thục hết sức nhẹ của uống rượu là được làm người với tâm điên loạn."

AN 8.40

§65. As he was sitting to one side, King Pasenadi Kosala said to the Blessed One: "Just now, lord, while I was alone in seclusion, this train of thought arose in my awareness: 'Few are those people in the world who, when acquiring lavish wealth, don't become intoxicated & heedless, don't become greedy for sensual pleasures, and don't mistreat other beings. Many more are those who, when acquiring lavish wealth, become intoxicated & heedless, become greedy for sensual pleasures, and mistreat other beings.'"

§65. Ngồi xuống một bên, vua Pasenadi nước Kosala bạch Thế Tôn: "Ở đây, bạch Thế Tôn, trong khi con đang ngồi yên tịnh một ḿnh, tư tưởng này khởi lên nơi con: 'Ít thay là những người trong đời này, sau khi được tài sản phong phú, dồi dào lại có thể không bị lôi cuốn, không bị ch́m đắm, không bị say mê trong các dục và không có những hành vi không tốt đẹp đối với các người khác. Trái lại, thật là nhiều thay, những người trong đời này, sau khi được tài sản phong phú, dồi dào, có thể bị lôi cuốn, bị ch́m đắm, bị say mê trong các dục và có những hành vi không tốt đẹp đối với các người khác.'"

"That's the way it is, great king! That's the way it is! Few are those people in the world who, when acquiring lavish wealth, don't become intoxicated & heedless, don't become greedy for sensual pleasures, and don't mistreat other beings. Many more are those who, when acquiring lavish wealth, become intoxicated & heedless, become greedy for sensual pleasures, and mistreat other beings."

"Thật sự là vậy, thưa Đại vương. Thật sự là vậy, thưa Đại vương. Ít thay là những người trong đời này, sau khi được tài sản phong phú, dồi dào, lại có thể không bị lôi cuốn, không bị ch́m đắm, không bị say mê trong các dục và không có những hành vi không tốt đẹp đối với người khác. Trái lại, thật là nhiều thay những người trong đời này, sau khi được tài sản phong phú, dồi dào, có thể bị lôi cuốn, bị ch́m đắm, bị say mê trong các dục và có những hành vi không tốt đẹp đối với các người khác."

That is what the Blessed One said. Having said that, the One Well-Gone, the Teacher, said further:

"Impassioned with 	sensual possessions,
greedy, dazed by 	sensual pleasures,
they don't awaken to the fact
	that they've gone too far —
		like deer into a trap laid out.
	Afterwards it's bitter for them:
	evil for them
		the result."

SN 3.6

Đó là những ǵ mà Đức Thế Tôn giảng dạy:

Loài người bị đắm say, 
Trong tài sản, trong dục, 
Họ tham lam, điên dại, 
Trong các dục ở đời, 
Không ư thức rơ ràng,
Đă quá độ say mê, 
Chẳng khác ǵ con nai, 
Không thấy đặt bẫy sập,
Về sau họ khổ đau,
Chịu quả báo ác nghiệp. 

SN 3.6

§66. As he was sitting to one side, King Pasenadi Kosala said to the Blessed One: "Just now, lord, as I was sitting in judgment, I saw that even affluent nobles, affluent brahmans, & affluent householders — rich, with great wealth & property, with vast amounts of gold & silver, vast amounts of valuables & commodities, vast amounts of wealth & grain — tell deliberate lies with sensual pleasures as the cause, sensual pleasures as the reason, simply for the sake of sensual pleasures. Then, the thought occurred to me: 'I've had enough of this judging! Let some other fine fellow be known for his judgments!'"

§66. Ngồi xuống một bên, vua Pasenadi nước Kosala bạch Thế Tôn: "Ở đây, bạch Thế Tôn, con ngồi trong pháp đường (để xử kiện), con thấy chính các vị Sát-đế-lỵ đại phú, các Bà-la-môn đại phú, các gia chủ đại phú, phú hào, có tiền của lớn, có tài sản lớn, có nhiều vàng và bạc, có nhiều tài sản vật dụng, có nhiều tiền của, ngũ cốc; v́ nhân các dục, v́ duyên các dục, v́ nguyên nhân các dục, đă dụng ư nói lời vọng ngôn. Bạch Thế Tôn, con suy nghĩ như sau: "Nay ta đă chán ngấy xử kiện. Nay hăy để cho vị hiền diện (bhadramukha) được có danh tiếng nhờ tài xử kiện."

"That's the way it is, great king! That's the way it is! Even affluent nobles, affluent brahmans, & affluent householders... tell deliberate lies with sensual pleasures as the cause, sensual pleasures as the reason, simply for the sake of sensual pleasures. That will lead to their long-term harm & pain."

"Thưa Đại vương, các vị Sát-đế-lỵ đại phú, các vị Bà-la-môn đại phú, các vị gia chủ đại phú, phú hào có tiền của lớn, có tài sản lớn, có nhiều vàng và bạc, có nhiều tài sản vật dụng, có nhiều tiền của, ngũ cốc; v́ nhân các dục, v́ duyên các dục, v́ nhân duyên các dục, đă dụng ư nói lên lời vọng ngôn. Do vậy họ sẽ gánh chịu bất lợi, đau khổ trong một thời gian dài."

That is what the Blessed One said. Having said that, the One Well-Gone, the Teacher, said further:

"Impassioned with 	sensual possessions,
greedy, dazed by 	sensual pleasures,
they don't awaken to the fact
	that they've gone too far —
		like fish into a trap set out.
	Afterwards it's bitter for them:
	evil for them
		the result."

SN 3.7

Đó là những lời giảng của Đức Thế Tôn:

Loài Người bị đắm say, 
Trong tài sản, trong dục, 
Họ tham lam, điên dại, 
Trong các dục ở đời.
Không ư thức rơ ràng, 
Đă quá độ say mê,
Chẳng khác ǵ con cá, 
Không thấy đặt bẫy sập. 
Về sau họ khổ đau, 
Chịu quả báo ác nghiệp.

SN 3.7

§67. As he was sitting to one side, King Pasenadi Kosala said to the Blessed One: "Is there, lord, any one quality that keeps both kinds of benefits secure — those in the present life and those in the future life?"

§67. Ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, vua Pasenadi nước Kosala bạch Thế Tôn: "Bạch Thế Tôn, có một pháp nào có thể đưa đến chứng đắc và tồn tại cả hai hạnh phúc: hạnh phúc đời này và hạnh phúc đời sau?"

"There is one quality, great king, that keeps both kinds of benefits secure — those pertaining to the present life and those to the future life."

"But what, lord, is that one quality... ?"

"Thưa Đại vương, có một pháp có thể đưa đến chứng đắc và tồn tại cả hai hạnh phúc: hạnh phúc đời này và hạnh phúc đời sau."

"Bạch Thế Tôn, pháp ấy là ǵ...?"

"Heedfulness, great king. Just as the footprints of all living beings with legs can be encompassed by the footprint of the elephant, and the elephant's footprint is declared to be supreme among them in terms of its great size; in the same way, heedfulness is the one quality that keeps both kinds of benefits secure — those in the present life and those in the future life."

"Bất phóng dật, thưa Đại vương, là một pháp có thể đưa đến chứng đắc và tồn tại cả hai hạnh phúc: hạnh phúc đời này và hạnh phúc đời sau. Thưa Đại vương, cũng như con voi, trong tất cả loài hữu t́nh có chân, tóm thâu tất cả đặc tướng của chân trong bàn chân của nó; và bàn chân của voi được xem là đệ nhất về phương diện to lớn trong tất cả loại chân. Cũng vậy, thưa Đại vương, bất phóng dật là một pháp có thể đưa đến chứng đắc và tồn tại cả hai hạnh phúc: hạnh phúc đời này và hạnh phúc đời sau."

That is what the Blessed One said. Having said that, the One Well-Gone, the Teacher, said further:

"For one who desires
	long life, health,
	beauty, heaven, & noble birth,
	— lavish delights, one after another —
the wise praise heedfulness
in performing deeds of merit.

When heedful, wise,
you achieve both kinds of benefit:
	benefits in this life,
	& benefits in lives to come.

By breaking through to your benefit,
you're calledenlightened,
	wise."

SN 3.17

Thế Tôn nói như trên. Sau khi nói xong Bậc Thiện Thệ đọc bài kệ rằng:

Ai ước nguyện tuổi thọ, 
Không bệnh, có diệu sắc, 
Được sanh lên Thiên giới, 
Sanh các nhà quư tộc, 
Phải liên tục tăng thượng, 
Tinh tấn, không dừng nghĩ. 
Người hiền triết tán thán, 
Hạnh lành không phóng dật, 
Đối với những người lành, 
Làm các hạnh công đức, 

Người hiền không phóng dật,
Được cả hai lợi ích, 
Lợi ích trong đời này,
Lợi ích cả đời sau. 

Kẻ anh hùng được gọi, 
Là bậc chơn hiền trí, 
Nếu biết nắm chụp lấy, 
Hạnh phúc cho chính ḿnh. 

SN 3.17

§68. "There are these four qualities that lead to a lay person's happiness and well-being in lives to come. Which four? Being consummate in conviction, being consummate in virtue, being consummate in generosity, being consummate in discernment.

§68. Có bốn pháp này, đưa đến hạnh phúc tương lai, an lạc tương lai cho thiện nam tử. Thế nào là bốn ? Đầy đủ ḷng tin, đầy đủ giới đức, đầy đủ bố thí, đầy đủ trí tuệ.

"And what does it mean to be consummate in conviction? There is the case where a disciple of the noble ones has conviction, is convinced of the Tathagata's Awakening: 'Indeed, the Blessed One is worthy and rightly self-awakened, consummate in knowledge and conduct, well-gone, an expert with regard to the world, unexcelled as a trainer for those people fit to be tamed, the Teacher of divine and human beings, awakened, blessed.' This is called being consummate in conviction.

Và thế nào là đầy đủ ḷng tin ? Ở đây, thiện nam tử có ḷng in, tin tưởng ở sự giác ngộ của Như Lai : "Đây là Thế Tôn là bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn ". Đây gọi là đầy đủ ḷng tin.

"And what does it mean to be consummate in virtue? There is the case where a disciple of the noble ones abstains from taking life, abstains from stealing, abstains from illicit sexual conduct, abstains from lying, abstains from taking intoxicants that cause heedlessness. This is called being consummate in virtue.

"Và thế nào là đầy đủ giới đức ? Ở đây, thiện nam tử từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ tà hạnh trong các dục, từ bỏ nói láo, từ bỏ đắm say rượu men, rượu nấu. Đây gọi là đầy đủ giới đức.

"And what does it mean to be consummate in generosity? There is the case of a disciple of the noble ones, his awareness cleansed of the stain of miserliness, living at home, freely generous, openhanded, delighting in being magnanimous, responsive to requests, delighting in the distribution of alms. This is called being consummate in generosity.

"Và thế nào là đầy đủ bố thí ? Ở đây, thiện nam tử sống ở gia đ́nh, với tâm không bị cấu uế, xan tham chi phối, bố thí rộng răi, với bàn tay mở rộng, vui thích từ bỏ, sẵn sàng để được yêu cầu, vui thích chia xẻ vật bố thí. Đây gọi là đầy đủ bố thí.

"And what does it mean to be consummate in discernment? There is the case where a disciple of the noble ones is discerning, endowed with discernment of arising and passing away — noble, penetrating, leading to the right ending of stress. This is called being consummate in discernment.

"These, TigerPaw, are the four qualities that lead to a lay person's happiness and well-being in lives to come.

AN 8.54

"Và thế nào là đầy đủ trí tuệ ? Ở đây, thiện nam tử có trí tuệ, thành tựu trí tuệ về sanh diệt, với thánh thể nhập (quyết trạch), chơn chánh chấm dứt khổ đau. Này Byagghapajja, đây gọi là đầy đủ trí tuệ.

"Có bốn pháp này, đưa đến hạnh phúc tương lai, an lạc tương lai cho thiện nam tử.

AN 8.54

§69. Then Ugga, the king's chief minister, approached the Blessed One and, on arrival, having bowed down, sat to one side. As he was sitting there, he said to the Blessed One: "It's amazing, lord, & awesome, how prosperous Migara Rohaneyya is, how great his treasures, how great his resources!"

§69. Bấy giờ Ugga, vị Đại thần của vua đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Ugga, vị đại thần của vua, bạch Thế Tôn: "Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn! Thật hy hữu thay, bạch Thế Tôn! Giàu có đến như vậy, đại phú đến như vậy, tài sản nhiều đến như vậy, bạch Thế Tôn, là Migàra Rohaneyya!"

[The Buddha:] "But what is his property, Ugga? What are his great treasures & great resources?"

"Này Ugga, Migàra Rohaneyya giàu có đến mức nào, đại phú đến mức nào, tài sản nhiều đến mức nào?"

"One hundred thousand pieces of gold, lord, to say nothing of his silver."

"Bạch Thế Tôn, về vàng có đến trăm ngàn, c̣n nói ǵ về bạc!"

"That is treasure, Ugga. I don't say that it's not. And that treasure is open to fire, floods, kings, thieves, & hateful heirs. But these seven treasures are not open to fire, flood, kings, thieves, or hateful heirs. Which seven? The treasure of conviction, the treasure of virtue, the treasure of conscience, the treasure of concern, the treasure of listening, the treasure of generosity, the treasure of discernment. These, Ugga, are the seven treasures that are not open to fire, flood, kings, thieves, or hateful heirs.

AN 7.7

"Này Ugga, đây có thể là tài sản chăng? Không phải Ta nói rằng đây không phải là tài sản. Nhưng tài sản ấy bị chi phối bởi lửa, nước, vua chúa, ăn trộm, các kẻ thừa tự, thù địch. Bảy tài sản này, này Ugga không bị lửa, nước, vua chúa, ăn trộm, các kẻ thừa tự, thù địch chi phối. Thế nào là bảy? Tín tài, Giới tài, Tàm tài, Quư tài, Văn tài, Thí tài, Tuệ tài. Bảy loại tài sản này, này Ugga, không bị lửa, nước, vua chúa, ăn trộm, các kẻ thừa tự, thù địch chi phối.

AN 7.7

§70. "There are these seven treasures. Which seven? The treasure of conviction, the treasure of virtue, the treasure of conscience, the treasure of concern, the treasure of listening, the treasure of generosity, the treasure of discernment.

§70. "Này các Tỷ-kheo, có bảy tài sản này. Thế nào là bảy? Tín tài, Giới tài, Tàm tài, Quư tài, Văn tài, Thí tài, Tuệ tài.

"And what is the treasure of conviction? There is the case where a disciple of the noble ones has conviction, is convinced of the Tathagata's Awakening: 'Indeed, the Blessed One is worthy and rightly self-awakened, consummate in knowledge & conduct, well-gone, an expert with regard to the world, unexcelled as a trainer for those people fit to be tamed, the Teacher of divine & human beings, awakened, blessed.' This is called the treasure of conviction.

"Và này các Tỷ-kheo, thế nào là tín tài? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Thánh đệ tử có ḷng tin, tin tưởng ở sự giác ngộ của Như Lai: 'Đây là Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn'. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là tín tài.

"And what is the treasure of virtue? There is the case where a disciple of the noble ones abstains from taking life, abstains from stealing, abstains from illicit sexual conduct, abstains from lying, abstains from taking intoxicants that cause heedlessness. This, monks, is called the treasure of virtue.

"Và này các Tỷ-kheo, thế nào là giới tài? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Thánh đệ tử từ bỏ sát sanh, từ bỏ trộm cắp, từ bỏ tà dâm, từ bỏ nói láo, từ bỏ đắm say rượu men rượu nấu. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là giới tài.

"And what is the treasure of conscience? There is the case where a disciple of the noble ones feels shame at [the thought of engaging in] bodily misconduct, verbal misconduct, mental misconduct. This is called the treasure of conscience.

"Và này các Tỷ-kheo, thế nào là tàm tài? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Thánh đệ tử có xấu hổ, xấu hổ đối với thân làm ác, miệng nói ác, ư nghĩ ác, xấu hổ v́ đă thành tựu các pháp các, bất thiện. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là tàm tài.

"And what is the treasure of concern? There is the case where a disciple of the noble ones feels concern for [the suffering that results from] bodily misconduct, verbal misconduct, mental misconduct. This is called the treasure of concern.

"Và này các Tỷ-kheo, thế nào là quư tài? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Thánh đệ tử có ḷng sợ hăi, sợ hăi đối với thân làm ác, miệng nói ác, ư nghĩ sợ hăi v́ thành tựu các pháp ác, bất thiện. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là quư tài.

"And what is the treasure of listening? There is the case where a disciple of the noble ones has heard much, has retained what he/she has heard, has stored what he/she has heard. Whatever teachings are admirable in the beginning, admirable in the middle, admirable in the end, that — in their meaning and expression — proclaim the holy life that is entirely complete and pure: those he/she has listened to often, retained, discussed, accumulated, examined with his/her mind, and well-penetrated in terms of his/her views. This is called the treasure of listening.

"Và này các Tỷ-kheo, thế nào là văn tài? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Thánh đệ tử nghe nhiều, ǵn giữ những ǵ đă nghe, chất chứa những ǵ đă nghe, những pháp ấy, sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, nghĩa văn đầy đủ, đề cao đời sống Phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ thanh tịnh; những pháp ấy, vị ấy nghe nhiều, đă nắm giữ, đă ghi nhớ tụng đọc nhiều lần, chuyên ư quán sát, khéo thành tựu nhờ chánh kiến. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là văn tài.

"And what is the treasure of generosity? There is the case of a disciple of the noble ones, his awareness cleansed of the stain of stinginess, living at home, freely generous, openhanded, delighting in being magnanimous, responsive to requests, delighting in the distribution of alms. This is called the treasure of generosity.

"Và này các Tỷ-kheo, thế nào là thí tài? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Thánh đệ tử với tâm từ bỏ cấu uế của xan tham, sống tại gia phóng xả, với bàn tay rộng mở, ưa thích xả bỏ, sẵn sàng để được yêu cầu, ưa thích san sẻ vật bố thí. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là thí tài.

"And what is the treasure of discernment? There is the case where a disciple of the noble ones is discerning, endowed with discernment of arising & passing away — noble, penetrating, leading to the right ending of stress. This is called the treasure of discernment.

"Và này các Tỷ-kheo, thế nào là tuệ tài? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Thánh đệ tử có trí tuệ, có trí tuệ về sanh diệt, thành tựu Thánh thể nhập (quyết trạch) đưa đến chơn chánh đoạn diệt khổ đau. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là tuệ tài.

"These, monks, are the seven treasures.

"The treasure of conviction,
the treasure of virtue,
the treasure of conscience & concern,
the treasure of listening, generosity,
& discernment as the seventh treasure:
Whoever, man or woman, has these treasures
is said not to be poor, has not lived in vain.
So conviction & virtue, faith & Dhamma-vision
should be cultivated by the wise,
remembering the Buddhas' instruction."

AN 7.6

Này các Tỷ-kheo, đây gọi là bảy tài sản.

Tín lực và giới tài,
Tàm tài và quư tài,
Văn tài và thí tài,
Và tuệ tài thứ bảy;
Ai có những tài này,
Nữ nhân hay nam nhân,
Được gọi không nghèo khổ,
Mạng sống không trống rỗng,
Do vậy tín và giới,
Tịnh tín và thấy pháp,
Bậc trí chuyên chú tâm,
Ức niệm lời Phật dạy.

AN 7.6

Kamma Neither Dark nor Bright

§71.

[Uttara the deva's son:]

"Life is swept along,
next-to-nothing its span.
For one swept on by aging
	no shelters exist.
Perceiving this danger in death,
one should do deeds of merit
	that bring about bliss."

[The Buddha:]

"Life is swept along,
next-to-nothing its span.
For one swept on by aging
	no shelters exist.
Perceiving this danger in death,
one should drop the world's bait
	and look for peace."

SN 2.19

Nghiệp không đen không trắng

§71.

[Uttara the deva's son:]

Mạng sống bị dắt dẫn,
Tuổi thọ chẳng là bao,
Bị dẫn đến già nua,
Không có nơi dừng bước. 
Ai đem tâm quán tưởng, 
Sợ hăi tử vong này, 
Hăy làm các công đức, 
Đưa đến chơn an lạc.

[The Buddha:]

Mạng sống bị dắt dẫn, 
Tuổi thọ chẳng là bao,
Bị dẫn đến già nua, 
Không có nơi dừng bước. 
Ai đem tâm quán tưởng, 
Sợ hăi tử vong này,
Hăy bỏ mọi thế lợi,
Tâm hướng cầu tịch tịnh. 

SN 2.19

§72. "Now what, monks, is the Noble Eightfold Path? Right view, right resolve, right speech, right action, right livelihood, right effort, right mindfulness, right concentration.

§72. "Này các Tỷ-kheo, thế nào là con đường Thánh đạo Tám ngành? Tức là: Chánh Tri kiến, Chánh Tư duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh tấn, Chánh Niệm, Chánh Định.

"And what is right view? Knowledge with regard to stress, knowledge with regard to the origination of stress, knowledge with regard to the stopping of stress, knowledge with regard to the way of practice leading to the stopping of stress: This, monks, is called right view.

"Và này các Tỷ-kheo, thế nào là chánh tri kiến ? Này các Tỷ-kheo, chính là trí về khổ, trí về khổ tập, trí về khổ diệt, trí về con đường đưa đến khổ diệt. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là chánh tri kiến.

"And what is right resolve? Being resolved on renunciation, on freedom from ill will, on harmlessness: This, monks, is called right resolve.

"Và này các Tỷ-kheo, thế nào là chánh tư duy ? Này các Tỷ-kheo, chính là xuất ly tư duy, vô sân tư duy, vô hại tư duy. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là chánh tư duy.

"And what is right speech? Abstaining from lying, abstaining from divisive speech, abstaining from abusive speech, abstaining from idle chatter: This, monks, is called right speech.

"Và này các Tỷ-kheo, thế nào là chánh ngữ? Này các Tỷ-kheo, chính là từ bỏ nói láo, từ bỏ nói hai lưỡi, từ bỏ nói lời độc ác, từ bỏ nói lời phù phiếm. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là chánh ngữ.

"And what is right action? Abstaining from taking life, abstaining from stealing, abstaining from unchastity: This, monks, is called right action.

"Và này các Tỷ-kheo, thế nào là chánh nghiệp ? Này các Tỷ-kheo, chính là từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ phi Phạm hạnh. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là chánh nghiệp.

"And what is right livelihood? There is the case where a disciple of the noble ones, having abandoned dishonest livelihood, keeps his life going with right livelihood: This, monks, is called right livelihood.

"Và này các Tỷ-kheo, thế nào là chánh mạng? Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử đoạn trừ tà mạng, nuôi sống với chánh mạng. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là chánh mạng.

"And what is right effort? (i) There is the case where a monk generates desire, endeavors, activates persistence, upholds & exerts his intent for the sake of the non-arising of evil, unskillful qualities that have not yet arisen. (ii) He generates desire, endeavors, activates persistence, upholds & exerts his intent for the sake of the abandonment of evil, unskillful qualities that have arisen. (iii) He generates desire, endeavors, activates persistence, upholds & exerts his intent for the sake of the arising of skillful qualities that have not yet arisen. (iv) He generates desire, endeavors, activates persistence, upholds & exerts his intent for the maintenance, non-confusion, increase, plenitude, development, & culmination of skillful qualities that have arisen: This, monks, is called right effort.

"Và này các Tỷ-kheo, thế nào là chánh tinh tấn ? (i)Ở đây, này các Tỷ-kheo, với mục đích khiến cho các ác, bất thiện pháp từ trước chưa sanh không cho sanh khởi, (ii)khởi lên ư muốn, cố gắng, tinh tấn, sách tấn, tŕ tâm; với mục đích khiến cho các ác, bất thiện pháp đă sanh được trừ diệt, (iii)khởi lên ư muốn, cố gắng, tinh tấn, sách tấn, tŕ tâm; với mục đích khiến cho các thiện pháp từ trước chưa sanh nay được sanh khởi,(iv)khởi lên ư muốn, cố gắng, tinh tấn, sách tấn, tŕ tâm; với mục đích khiến cho các thiện pháp đă được sanh có thể duy tŕ, không có lu mờ, được tăng trưởng, được quảng đại, được tu tập, được viên măn, Này các Tỷ-kheo, đây gọi là chánh tinh tấn

"And what is right mindfulness? (i) There is the case where a monk remains focused on the body in & of itself — ardent, aware, & mindful — putting away greed & distress with reference to the world. (ii) He remains focused on feelings in & of themselves — ardent, aware, & mindful — putting away greed & distress with reference to the world. (iii) He remains focused on the mind in & of itself — ardent, aware, & mindful — putting away greed & distress with reference to the world. (iv) He remains focused on mental qualities in & of themselves — ardent, aware, & mindful — putting away greed & distress with reference to the world. This, monks, is called right mindfulness.

"Và này các Tỷ-kheo, thế nào là chánh niệm ? (i)Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo sống quán thân trên thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, với mục đích điều phục tham ưu ở đời; (ii)Tỷ-kheo sống quán thọ trên các thọ, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm với mục đích điều phục tham ưu ở đời; (iii)Tỷ-kheo sống quán tâm trên tâm, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm với mục đích điều phục tham ưu ở đời; (iv)Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm với mục đích điều phục tham ưu ở đời. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là chánh niệm.

"And what is right concentration? (i) There is the case where a monk — quite withdrawn from sensuality, withdrawn from unskillful (mental) qualities — enters & remains in the first jhana: rapture & pleasure born from withdrawal, accompanied by directed thought & evaluation. (ii) With the stilling of directed thought & evaluation, he enters & remains in the second jhana: rapture & pleasure born of concentration, unification of awareness free from directed thought & evaluation — internal assurance. (iii) With the fading of rapture, he remains in equanimity, mindful & alert, and physically sensitive of pleasure. He enters & remains in the third jhana, of which the Noble Ones declare, 'Equanimous & mindful, he has a pleasurable abiding.' (iv) With the abandoning of pleasure & pain — as with the earlier disappearance of elation & distress — he enters & remains in the fourth jhana: purity of equanimity & mindfulness, neither pleasure nor pain. This, monks, is called right concentration."

SN 45.8

"Và này các Tỷ-kheo, thế nào là chánh định ? (i)Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ly dục, ly pháp bất thiện, chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ. (ii)Làm cho tịnh chỉ tầm và tứ, chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm, không tứ, nội tỉnh, nhất tâm. (iii)Vị ấy ly hỷ trú xả, chánh niệm, tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và trú Thiền thứ ba. (iv)Xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đă cảm thọ trước, chứng và trú Thiền thứ tư, không khổ không lạc, xả niệm thanh tịnh. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là chánh định.

SN 45.8

 Chủ biên và điều hành: TT Thích Giác Đẳng.

 Những đóng góp dịch thuật xin gửi về TT Thích Giác Đẳng tại giacdang@phapluan.com
Cập nhập ngày: Thứ Sáu 08-11-2006

Kỹ thuật tŕnh bày: Minh Hạnh & Thiện Pháp

 | trở về đầu trang | Home page |