§ 80. {Iti 3.31; Iti 72} [go up]

This was said by the Blessed One, said by the Arahant, so I have heard: "There are these three kinds of unskillful thinking. Which three? Thinking concerned with not wanting to be despised; thinking concerned with gains, offerings, & tribute; thinking concerned with an empathy for others.1 There are three kinds of unskillful thinking."

	Fettered
to not wanting to be despised;
to gains, offerings, respect;
to delight in companions:
	you're far from the ending of fetters.
But whoever here,
having abandoned
	sons,
	cattle,
	marriage,
	intimates:
		he's capable
		— a monk like this — 
	of touching superlative
self-awakening.

Note

1. According to the Commentary, this refers to a monk's tendency to be overly intimate with lay people, overly susceptible to the rises and falls in their fortunes, "happy when they are happy, sad when they are sad, busying himself with their affairs."

§ 80. {Iti 3.31; Iti 72} [go up]

Điều này đă được Thế Tôn nói đến, đă được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đă được nghe: "Này các Tỷ-kheo, có ba tầm tư bất thiện này. Thế nào là ba? Tầm tư liên hệ đến tự đề cao ḿnh; tầm tư liên hệ đến lợi dưỡng, cung kính, danh vọng; tầm tư liên hệ đến lo lắng cho người khác. Này các Tỷ-kheo, có ba tầm tư bất thiện này. Thế Tôn đă nói lên ư nghĩa này. Ở đây, điều này được nói đến."

Ai có sự liên hệ,
Tự đề cao chính ḿnh,
Liên hệ đến lợi dưỡng
Cung kính và tôn trọng,
Ai ưa thích, vui thích,
Làm thân, làm bạn hữu,
Những vị ấy đứng xa
Diệt tận các kiết sử.
Ai từ bỏ con cái,
Từ bỏ các loài vật,
Từ bỏ các lễ cưới
Bỏ cất chứa tài sản
Tỷ-kheo ấy có thể,
Chứng Bồ-đề vô thượng.
Ư nghĩa này được Thế Tôn nói đến, và tôi đă được nghe.

§ 81. {Iti 3.32; Iti 73} [go up]

This was said by the Blessed One, said by the Arahant, so I have heard:
"I have seen beings conquered by receiving offerings — their minds overwhelmed — at the break-up of the body, after death, reappearing in the plane of deprivation, the bad destination, the lower realms, in hell.
I have seen beings conquered by not receiving offerings — their minds overwhelmed — at the break-up of the body, after death, reappearing in the plane of deprivation, the bad destination, the lower realms, in hell.
I have seen beings conquered both by receiving offerings & by not receiving offerings — their minds overwhelmed — at the break-up of the body, after death, reappearing in the plane of deprivation, the bad destination, the lower realms, in hell."

§ 81. {Iti 3.32; Iti 73} [go up]

Điều này đă được Thế Tôn nói đến, đă được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đă được nghe:
"Này các Tỷ-kheo, Ta đă thấy các chúng sanh bị cung kính chinh phục, bị tâm cung kính xâm chiếm, sau khi thân hoại mạng chung, bị sanh vào cơi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.
Này các Tỷ-kheo, Ta đă thấy các chúng sanh bị không cung kính chinh phục, tâm bị không cung kính xâm chiếm, sau khi thân hoại mạng chung, bị sanh vào cơi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.
Này các Tỷ-kheo, Ta đă thấy các chúng sanh khi tâm bị chinh phục, bị xâm chiếm bởi cả hai cung kính và không cung kính, sau khi thân hoại mạng chung, bị sanh vào cơi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.

"It's not through having heard it from other priests or contemplatives that I say, 'I have seen beings conquered by receiving offerings — their minds overwhelmed — at the break-up of the body, after death, reappearing in the plane of deprivation, the bad destination, the lower realms, in hell.

I have seen beings conquered by not receiving offerings — their minds overwhelmed — at the break-up of the body, after death, reappearing in the plane of deprivation, the bad destination, the lower realms, in hell.
I have seen beings conquered both by receiving offerings & by not receiving offerings — their minds overwhelmed — at the break-up of the body, after death, reappearing in the plane of deprivation, the bad destination, the lower realms, in hell.'

Này các Tỷ-kheo, sau khi không nghe một Sa-môn hay Bà-la-môn nào khác nói lên, Ta nói lên lời nói này: "Này các Tỷ-kheo, Ta đă thấy các chúng sanh, bị cung kính chinh phục, tâm bị cung kính xâm chiếm, sau khi thân hoại mạng chung, bị sanh vào cơi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.
Này các Tỷ-kheo, Ta đă thấy các chúng sanh, khi bị không cung kính chinh phục, tâm bị không cung kính xâm chiếm, sau khi thân hoại mạng chung, bị sanh vào cơi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.
Này các Tỷ-kheo, Ta đă thấy các chúng sanh khi bị chinh phục, tâm bị xâm chiếm bởi cả hai cung kính và không cung kính, sau khi thân hoại mạng chung, bị sanh vào cơi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục".

"Instead, it's from having known it myself, seen it myself, observed it myself that I say,
I have seen beings conquered by receiving offerings — their minds overwhelmed — at the break-up of the body, after death, reappearing in the plane of deprivation, the bad destination, the lower realms, in hell.
I have seen beings conquered by not receiving offerings — their minds overwhelmed — at the break-up of the body, after death, reappearing in the plane of deprivation, the bad destination, the lower realms, in hell.
I have seen beings conquered both by receiving offerings & by not receiving offerings — their minds overwhelmed — at the break-up of the body, after death, reappearing in the plane of deprivation, the bad destination, the lower realms, in hell.'"

Và này các Tỷ-kheo, v́ rằng Ta tự ḿnh biết, tự ḿnh thấy, tự ḿnh t́m ra nên Ta tuyên bố rằng:
"Này các Tỷ-kheo, ta đă thấy các chúng sanh, khi bị cung kính chinh phục, tâm bị cung kính xâm chiếm, sau khi thân hoại mạng chung, bị sanh vào cơi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.
Này các Tỷ-kheo, Ta đă thấy các chúng sanh, khi bị không cung kính chinh phục, tâm bị không cung kính xâm chiếm, sau khi thân hoại mạng chung bị sanh vào cơi dữ, ác thú, đoạ xứ, địa ngục.
Này các Tỷ-kheo, Ta đă thấy các chúng sanh, khi bị chinh phục, tâm bị xâm chiếm bởi cả hai cung kính và không cung kính, sau khi thân hoại mạng chung bị sanh vào cơi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục".

Both when receiving offerings
	& not:
his concentration
	won't waver,
he remains
heedful:
he — continually absorbed in jhana,
subtle in view & clear-seeing,
enjoying the ending of clinging — 
	is called a man
	of integrity.

Ai khi được cung kính,
Khi không được cung kính,
Trong cả hai trường hợp,
Tâm định không lay chuyển.
Sống hạnh không phóng dật,
Tâm thường nhập thiền tư,
Với tâm tưởng tế nhị,
Chánh quán các sở kiến,
Ưa thích chấp thủ diệt,
Được gọi bậc chân nhân.

§ 82. {Iti 3.33; Iti 75} [go up]

[Alternate translation: Ireland]

This was said by the Blessed One, said by the Arahant, so I have heard: "These three divine sounds sound forth among the devas on appropriate occasions. Which three? When a disciple of the noble ones, shaving off his hair & beard, clothing himself in the ochre robe, makes up his mind to go forth from the home life into homelessness, on that occasion the divine sound sounds forth among the devas: 'This disciple of the noble ones has made up his mind to do battle with Mara.' This is the first divine sound that sounds forth among the devas on appropriate occasions.

§ 82. {Iti 3.33; Iti 75} [go up]

[Alternate translation: Ireland]

Điều này đă được Thế Tôn nói đến, đă được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đă được nghe: "Này các Tỷ-kheo, giữa chư Thiên, có ba tiếng chư Thiên này thỉnh thoảng được vang lên, tuỳ thời được khởi lên. Thế nào là ba? Này các Tỷ-kheo, khi nào bậc Thánh đệ tử cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, nghĩ đến xuất gia, từ bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh; trong khi ấy, này các Tỷ-kheo, tiếng chư Thiên được vang lên: "Vị Thánh đệ tử này nghĩ đến chiến đấu với Ác ma". Này các Tỷ-kheo, đây là tiếng chư Thiên thứ nhất, thỉnh thoảng được vang lên giữa chư Thiên, tùy thời được khởi lên."

"When a disciple of the noble ones lives devoted to developing the seven [sets of] qualities that are wings to Awakening,1 on that occasion the divine sound sounds forth among the devas: 'This disciple of the noble ones is doing battle with Mara.' This is the second divine sound that sounds forth among the devas on appropriate occasions.

Lại nữa, này các Tỷ-kheo, khi nào bậc Thánh đệ tử sống chuyên tâm tu tập về Bảy Bồ-đề phần; trong khi ấy, này các Tỷ-kheo, tiếng chư Thiên được vang lên: "Vị Thánh đệ tử này chiến đấu với Ác ma". Này các Tỷ-kheo, đây là tiếng chư Thiên thứ hai, thỉnh thoảng được vang lên giữa chư Thiên, tùy thời được khởi lên.

"When a disciple of the noble ones, through the ending of fermentations dwells in the awareness-release & discernment-release that are free from fermentation, having known & made them manifest for himself right in the present life, on that occasion the divine sound sounds forth among the devas: 'This disciple of the noble ones has won the battle. Having been in the front lines of the battle, he now dwells victorious.' This is the third divine sound that sounds forth among the devas on appropriate occasions.

Lại nữa, này các Tỷ-kheo, khi nào bậc Thánh đệ tử, với sự diệt tận các lậu hoặc, ngay trong hiện tại, tự ḿnh với thắng trí chứng ngộ, chứng đạt và an trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát, trong khi ấy, này các Tỷ-kheo, tiếng chư Thiên vang lên: "Vị Thánh đệ tử này đă chiến thắng trong chiến trận. Đứng đầu trong chiến trận, sau khi chiến thắng, vị ấy an trú". Này các Tỷ-kheo, đây là tiếng chư Thiên thứ ba, thỉnh thoảng được vang lên giữa chư Thiên, tùy thời được khởi lên.

"These are the three divine sounds that sound forth among the devas on appropriate occasions."

Seeing he's won the battle
	— the disciple of the Rightly
	Self-awakened One — 
even the devas pay homage
to this great one, thoroughly mature.
"Homage to you, O thoroughbred man — 
you who have won the hard victory,
defeating the army of Death,
unhindered in
			emancipation."
Thus they pay homage, the devas,
to one who has reached the heart's goal,
for they see in him no means
that would bring him under Death's sway.

Note

1. The wings to Awakening are the four frames of reference, the four right exertions, the four bases for power, the five faculties, the five strengths, the seven factors for Awakening, and the noble eightfold path.

"Này các Tỷ-kheo, giữa chư Thiên có tiếng chư Thiên này, thỉnh thoảng được vang lên, tuỳ thời được khởi lên."

Thấy đệ tử chánh giác
Chiến thắng trong chiến trận,
Chư Thiên cũng đảnh lễ,
Bậc vĩ đại như vậy,
Bậc trí tuệ chín muồi.
Chúng tôi đảnh lễ Ngài,
Người được luyện thuần thục,
V́ Ngài đă chiến thắng,
Trận đánh rất khó thắng.
Ngài đă chiến thắng được
Quân đội của thần chết,
Không c̣n trở ngại ǵ,
Nhờ giải thoát của Ngài.
Như vậy các Thiên nhân,
Đảnh lễ vị như vậy,
Vị đạt được mục đích,
Chắc chắn các Thiên nhân,
Đảnh lễ trong vị ấy,
Pháp ǵ giúp thoát được,
Khỏi thần chết chi phối.

§ 83. {Iti 3.34; Iti 76} [go up]

This was said by the Blessed One, said by the Arahant, so I have heard:

"When a deva is about to pass away from the company of devas, five omens appear: his garlands wither, his clothes get soiled, sweat comes out of his armpits, a dullness descends on his body, he no longer delights in his own deva-seat. The devas, knowing from this that 'This deva-son is about to pass away,' encourage him with three sayings: 'Go from here, honorable sir, to a good destination. Having gone to a good destination, gain the gain that is good to gain. Having gained the gain that is good to gain, become well-established.'"

§ 83. {Iti 3.34; Iti 76} [go up]

Điều này đă được Thế Tôn nói đến, đă được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đă được nghe:

"Này các Tỷ-kheo, khi nào một Thiên nhân mệnh chung từ bỏ thân chư Thiên, có năm tướng xuất hiện ra trước: "Các ṿng hoa héo úa, áo quần bị uế nhiễm, mồ hôi chảy ra từ nách, thân sắc trở thành xấu xí, Thiên nhân không hoan hỷ tại chỗ ngồi chư Thiên". Này các Tỷ-kheo, chư Thiên sau khi biết Thiên tử này mệnh chung, nói ba lời để cổ vũ: "Từ đây, Hiền giả hăy đi đến cơi lành! Sau khi đi đến cơi lành, hăy nhận được những ǵ khéo nhận được. Sau khi nhận được những ǵ khéo nhận, hăy khéo an trú"

When this was said, a certain monk said to the Blessed One, -"What, lord, is the devas' reckoning of going to a good destination? What is their reckoning of the gain that is good to gain? What is their reckoning of becoming well-established?"

Được nghe nói vậy, một Tỷ-kheo bạch Thế Tôn: - Bạch Thế Tôn, thế nào được gọi là đi đến cơi lành của chư Thiên? Bạch Thế Tôn, thế nào được gọi là nhận được những ǵ khéo nhận được của chư Thiên? Bạch Thế Tôn, thế nào được gọi là khéo an trú của chư Thiên?

"The human state, monks, is the devas' reckoning of going to a good destination. Having become a human being, acquiring conviction in the Dhamma-&-Vinaya taught by the Tathagata: this is the devas' reckoning of the gain that is good to gain. When that conviction is settled within one — rooted, established, & strong, not to be destroyed by any priest or contemplative; deva, Mara, or Brahma; or anyone else in the world: this is the devas' reckoning of becoming well-established."

Này các Tỷ-kheo, được địa vị làm người được gọi là đi đến cơi lành của chư Thiên. Khi được địa vị làm người, được ḷng tin trong Pháp và Luật do Như Lai thuyết giảng, này các Tỷ-kheo, đây được gọi là nhận được những ǵ khéo nhận được của chư Thiên. Khi ḷng tin được nhập vào, được an trú thành gốc rễ, kiên tŕ, không bị làm tan nát bởi Sa-môn, Bà-la-môn, Thiên nhân, Ác ma, Phạm thiên hay bất cứ ai ở đời th́ được gọi là khéo an trú của chư Thiên.

When a deva passes away
from the company of devas
through his life-span's ending,
three sounds sound forth
	— the devas' encouragement.

	'Go from here,
	honorable sir,
to a good destination,
to companionship
with human beings.
On becoming a human being,
acquire a conviction
unsurpassed
	in True Dhamma.
That conviction of yours
in True Dhamma, well-taught,
should be	settled,
		rooted,
		established,
— undestroyed
as long as you live.
Having abandoned
	bodily misconduct,
	verbal misconduct,
	mental misconduct,
and whatever else is flawed;
having done with the body what's skillful,
and much that is skillful with speech,
having done what's skillful
with a heart without limit,
	with no acquisitions,
then — having made much
of that basis of merit
through giving — 
establish other mortals
in	True Dhamma &
	the holy life.'

With this sympathy, the devas — 
when they know a deva is passing away — 
encourage him:
		'Come back, deva,
		again & again.'

Khi nào vị Thiên nhân,
Từ bỏ thân chư Thiên,
V́ thọ mạng đă hết,
Ba tiếng được thốt lên,
Do chư Thiên an ủi,
Cổ vũ khiến hoan hỷ.

Từ đây, này Hiền giả,
Hăy đi đến cơi lành,
Cộng trú với loài Người.
Khi đă được làm người,
Trong Chánh pháp vi diệu,
Hăy lấy được ḷng tin,
Ḷng tin ấy vô thượng.
Hiền giả hăy thâm nhập,
Vào trong ḷng tin ấy,
An trú thành gốc rễ,
Cho đến trọn sanh mạng,
Không bị làm tan nát,
Trong điệu pháp khéo giảng.
Từ bỏ thân làm ác,
Từ bỏ lời nói ác,
Từ bỏ ư nghĩ ác,
Và mọi hành động khác,
Được xem là thuộc ác.
Thân làm các hạnh lành,
Làm nhiều lời nói lành,
Sau khi ư nghĩ lành,
Vô lượng, không sanh y.
Rồi làm các công đức
Cho sanh y đời sau
Làm xong nhiều công đức
Với bố thí rộng răi,
Rồi an trú người khác,
Bị tử vong chi phối,
Trong đời sống Phạm hạnh,
Trong Chánh pháp vi diệu.
Với ḷng từ mẫn này,

Chư Thiên khi biết được.
Một Thiên nhân mệnh chung,
Liền nói lời cổ vũ.
Thiên nhân hăy đến đây,
Hăy đến lại nhiều lần.

§ 84. {Iti 3.35; Iti 78} [go up]

SuttaReadings.net icon   [Alternate translation: Ireland]

This was said by the Blessed One, said by the Arahant, so I have heard: "These three persons, appearing in the world, appear for the benefit of many, the happiness of many, in sympathy for the world — for the welfare, the benefit, the happiness of beings human & divine. Which three?

§ 84. {Iti 3.35; Iti 78} [go up]

SuttaReadings.net icon   [Alternate translation: Ireland]

Điều này đă được Thế Tôn nói đến, đă được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đă được nghe: "Có ba hạng người này xuất hiện ở đời, xuất hiện đem lại hạnh phúc cho nhiều người, an lạc cho nhiều người, v́ ḷng thương tưởng cho đời, v́ lợi ích, v́ hạnh phúc, v́ an lạc cho chư Thiên và loài Người. Thế nào là ba?

"There is the case where a Tathagata appears in the world, worthy & rightly self-awakened, consummate in clear knowing & conduct, well-gone, an expert with regard to the cosmos, unsurpassed trainer of tamable people, teacher of beings human & divine, awakened, blessed. He teaches the Dhamma admirable in its beginning, admirable in its middle, admirable in its end. He proclaims the holy life both in its particulars & in its essence, entirely perfect, surpassingly pure. This is the first person who, appearing in the world, appears for the benefit of many, the happiness of many, in sympathy for the world — for the welfare, the benefit, the happiness of beings human & divine.

Ở đây, này các Tỷ-kheo, Như Lai xuất hiện ở đời, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Ngài thuyết pháp sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, có nghĩa, có văn, tŕnh bày Phạm hạnh hoàn toàn viên măn thanh tịnh. Này các Tỷ-kheo, đây là hạng người thứ nhất xuất hiện ở đời, xuất hiện đem lại hạnh phúc cho nhiều người, an lạc cho nhiều người, v́ ḷng thương tưởng cho đời, v́ lợi ích, v́ hạnh phúc, v́ an lạc, cho chư Thiên và loài Người.

"Furthermore, there is the disciple of that Teacher who is a worthy one, his mental fermentations ended, who has reached fulfillment, done the task, laid down the burden, attained the true goal, totally destroyed the fetter of becoming, and who is released through right gnosis. He teaches the Dhamma admirable in its beginning, admirable in its middle, admirable in its end. He proclaims the holy life both in its particulars & in its essence, entirely perfect, surpassingly pure. This is the second person who, appearing in the world, appears for the benefit of many, the happiness of many, in sympathy for the world — for the welfare, the benefit, the happiness of beings human & divine.

Lại nữa này các Tỷ-kheo, đệ tử của bậc Đạo Sư ấy, bậc A-la-hán, các lậu hoặc đă đoạn tận, Phạm hạnh đă thành tựu, việc cần làm đă làm, gánh nặng đă đặt xuống, mục đích của ḿnh đă đạt được, hữu kiết sử đă đoạn tận, đă giải thoát nhờ chánh trí. Vị ấy thuyết pháp sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, có nghĩa, có văn, tŕnh bày Phạm hạnh hoàn toàn viên măn thanh tịnh. Này các Tỷ-kheo, đây là hạng người thứ hai xuất hiện ở đời, xuất hiện đem đến hạnh phúc cho nhiều người, an lạc cho nhiều người v́ ḷng thương tưởng cho đời, v́ lợi ích, v́ hạnh phúc, v́ an lạc cho chư Thiên và loài Người.

"Furthermore, there is the disciple of that Teacher who is a learner, following the way, erudite, endowed with [good] practices & principles. He, too, teaches the Dhamma admirable in its beginning, admirable in its middle, admirable in its end. He proclaims the holy life both in its particulars & in its essence, entirely perfect, surpassingly pure. This is the third person who, appearing in the world, appears for the benefit of many, the happiness of many, in sympathy for the world — for the welfare, the benefit, the happiness of beings human & divine.

Lại nữa, này các Tỷ-kheo, đệ tử bậc Đạo Sư ấy là bậc hữu học, đang đi trên con đường, vị nghe nhiều, giới cấm được ǵn giữ. Vị ấy cũng thuyết pháp sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, có nghĩa, có văn, tŕnh bày Phạm hạnh hoàn toàn viên măn thanh tịnh. Này các Tỷ-kheo, đây là hạng người thứ ba xuất hiện ở đời, xuất hiện đem đến hạnh phúc cho nhiều người, an lạc cho nhiều người, v́ ḷng thương tưởng cho đời, v́ lợi ích, v́ hạnh phúc, v́ an lạc cho chư Thiên và loài Người. Này các Tỷ-kheo, có ba hạng người xuất hiện ở đời, xuất hiện đem đến hạnh phúc cho nhiều người, an lạc cho nhiều người, v́ ḷng thương tưởng cho đời, v́ lợi ích, v́ hạnh phúc, v́ an lạc cho chư Thiên và loài Người.

"These are the three persons who, appearing in the world, appear for the benefit of many, the happiness of many, in sympathy for the world — for the welfare, the benefit, the happiness of beings human & divine."

	The Teacher,
	Great Seer,
is first in the world;
following him, the disciple
	composed;
and then the learner,
erudite, following the way,
endowed with good	virtue,
			practices.

These three, chief
among beings divine & human,
giving light, proclaiming the Dhamma,
	throw open the door to the Deathless,
	release many from bondage.
Those who follow the path,
well-taught by the Caravan Leader
	unsurpassed,
will put an end to stress
	right here — 
those heeding the message
of the One Well-gone.

"Có ba hạng người này xuất hiện ở đời, xuất hiện đem lại hạnh phúc cho nhiều người, an lạc cho nhiều người, v́ ḷng thương tưởng cho đời, v́ lợi ích, v́ hạnh phúc, v́ an lạc cho chư Thiên và loài Người."

	Bậc Đạo Sư ở đời,
Đại ẩn sĩ thứ nhất,
Tiếp nối theo vị ấy
Là đệ tử Đạo Sư,
Đă tu tập tự ngă,
Tiếp đến bậc hữu học,
Đang đi trên con đường,
Bậc nghe nhiều học nhiều,
Bậc giới cấm đầy đủ.


Ba vị tối thượng này,
Giữa chư Thiên, loài Người,
Bậc tác thành hào quang,
Bậc tuyên bố Chánh pháp
Mở toang cửa bất tử,
Đă giúp đỡ nhiều người.
Thoát ly khỏi ách nạn.


Những ai tùy bước theo,
Con đường khéo thuyết giảng,
Bởi bậc Vô Thượng Sĩ,
Bậc cầm đầu lữ hành,
Vị ấy tại đời này,
Chấm dứt mọi khổ đau,
Những vị không phóng dật,
Trong giáo lư Thiện Thệ.

§ 85. {Iti 3.36; Iti 80} [go up]

This was said by the Blessed One, said by the Arahant, so I have heard: "Remain focused, monks, on the foulness of the body. Have mindfulness of in-&-out breathing well established to the fore within you. Remain focused on the inconstancy of all fabrications. For one who remains focused on the foulness of the body, the obsession with passion for the property of beauty is abandoned. For one who has mindfulness of in-&-out breathing well established to the fore within oneself, annoying external thoughts & inclinations don't exist. For one who remains focused on the inconstancy of all fabrications, ignorance is abandoned, clear knowing arises."

Focusing on foulness
	in the body,
mindful
	of in & out breathing,
seeing
	the stilling of all fabrications
		— ardent
			always:
	he is a monk
who's seen rightly.

From that he is there set free.
	A master of direct knowing,
	at peace,
		he is a sage
		gone beyond bonds.

§ 85. {Iti 3.36; Iti 80} [go up]

Điều này đă được Thế Tôn nói đến, đă được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đă được nghe: "Này các Tỷ-kheo, hăy sống tuỳ quán bất tịnh trên thân, hăy khéo an trú niệm hơi thở vô hơi thở ra, đặt niệm trước mặt, hướng về nội tâm; hăy sống tùy quán vô thường trong tất cả các hành. Này các Tỷ-kheo, khi sống tùy quán bất tịnh trên thân tham tùy miên đối với tịnh giới được đoạn trừ; khi khéo an trú niệm hơi thở vô hơi thở ra, đặt niệm trước mặt, hướng về nội tâm, thời các tâm hướng ngoại, dự phần vào tổn hại không có; khi sống tùy quán vô thường trong tất cả hành, thời vô minh trừ diệt, minh được khởi lên."

Quán bất tịnh trên thân,
Niệm thở vô thở ra,
Tịnh chỉ tất cả hành,
Thường nhiệt tâm, chánh kiến,
Vị Tỷ-kheo như vậy,
Đă thấy rất chơn chánh,
Từ đấy ở nơi đây,
Vị ấy được giải thoát,
Thắng trí được thành tựu,
Lắng dịu thật an tịnh,
Vị ẩn sĩ như vậy,
Chắc vượt khỏi ách nạn.


§ 86. {Iti 3.37; Iti 81} [go up]

This was said by the Blessed One, said by the Arahant, so I have heard: "With reference to a monk who practices the Dhamma in accordance with the Dhamma, it is this way of according with the Dhamma that he should be described as practicing the Dhamma in accordance with the Dhamma. When speaking, he speaks Dhamma and not non-Dhamma. When thinking, he thinks about Dhamma and not about non-Dhamma. Avoiding both these things, he stays equanimous, mindful, alert."

Dhamma his dwelling,
Dhamma his delight,
a monk pondering Dhamma,
	calling Dhamma to mind,
doesn't fall away
from true Dhamma.

Whether	walking,
		standing,
		sitting, or
		lying down
— his mind inwardly restrained — 
	he arrives
	right at peace.

§ 86. {Iti 3.37; Iti 81} [go up]

Điều này đă được Thế Tôn nói đến, đă được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đă được nghe: "Với vị Tỷ-kheo hành tŕ tùy pháp đúng pháp, đây là cách thức đúng đắn để giải thoát những chữ: "Thực hành tùy pháp đúng pháp". Khi vị ấy nói vị ấy nói đúng pháp không phải phi pháp; khi vị ấy suy tư, vị ấy suy tư với suy tư đúng pháp, không phải suy tư phi pháp. Do từ bỏ hai điều ấy, vị ấy trú xả, chánh niệm tỉnh giác. "

Thích pháp, hân hoan pháp,
Suy tư trên Chánh pháp,
Tỷ-kheo tùy niệm pháp,
Chánh pháp không tổn giảm,

Khi đi hoặc khi đứng,
Khi ngồi hoặc khi nằm,
Nội tâm được chế ngự
Vị ấy đạt an tịnh.

§ 87. {Iti 3.38; Iti 82} [go up]

This was said by the Blessed One, said by the Arahant, so I have heard: "There are these three kinds of unskillful thinking that produce blindness, produce lack of vision, produce lack of knowledge, lead to the cessation of discernment, side with vexation, and are not conducive to Unbinding. Which three? Thinking imbued with sensuality... Thinking imbued with ill-will... Thinking imbued with harmfulness produces blindness, produces lack of vision, produces lack of knowledge, leads to the cessation of discernment, sides with vexation, and is not conducive to Unbinding. These are the three kinds of unskillful thinking that produce blindness, produce lack of vision, produce lack of knowledge, lead to the cessation of discernment, side with vexation, and are not conducive to Unbinding.

§ 87. {Iti 3.38; Iti 82} [go up]

Điều này đă được Thế Tôn nói đến, đă được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đă được nghe: "Này các Tỷ-kheo, có ba tầm bất thiện này, tác thành mù, tác thành không mắt, tác thành không trí, đưa đến tuệ đoạn diệt, dự phần vào tổn hại, không đưa đến Niết-bàn. Thế nào là ba? Này các Tỷ-kheo, dục tầm tác thành mù, tác thành không mắt, tác thành không trí, đưa đến tuệ đoạn diệt, dự phần vào tổn hại, không đưa đến Niết-bàn. Này các Tỷ-kheo, sân tầm tác thành mù, tác thành không mắt, tác thành không trí, đưa đến tuệ đoạn diệt, dự phần vào tổn hại, không đưa đến Niết-bàn. Này các Tỷ-kheo, hại tầm tác thành mù, tác thành không mắt, tác thành không trí, đưa đến tuệ đoạn diệt, dự phần vào tổn hại, không đưa đến Niết-bàn. Này các Tỷ-kheo, có ba tầm bất thiện này, tác thành mù, tác thành không mắt, tác thành không trí, đưa đến tuệ đoạn diệt, dự phần vào tổn hại, không đưa đến Niết-bàn.

"There are these three kinds of skillful thinking that produce non-blindness, produce vision, produce knowledge, foster discernment, side with non-vexation, and are conducive to Unbinding. Which three? Thinking imbued with renunciation... Thinking imbued with non-ill-will... Thinking imbued with harmlessness produces non-blindness, produces vision, produces knowledge, fosters discernment, sides with non-vexation, and is conducive to Unbinding. These are the three kinds of skillful thinking that produce non-blindness, produce vision, produce knowledge, foster discernment, side with non-vexation, and are conducive to Unbinding."






Three skillful thoughts
should be thought,
three unskillful thoughts
rejected.
Whoever stills sustained thoughts
— as rain would, a cloud of dust — 
through an awareness with thinking stilled,
	attains right here
	the state
	of peace.

"Này các Tỷ-kheo, có ba thiện tầm này, tác thành không mù, tác thành mắt, tác thành trí, làm tăng trưởng trí tuệ, không dự vào phần tổn hại, đưa đến Niết-bàn. Thế nào là ba? An ổn tầm, này các Tỷ-kheo, tác thành không mù, tác thành mắt, tác thành trí, làm tăng trưởng trí tuệ, không dự phần làm tổn hại, đưa đến Niết-bàn. Vô sân tầm, này các Tỷ-kheo, tác thành không mù, tác thành mắt, tác thành trí, làm tăng trưởng trí tuệ, không dự phần vào tổn hại, đưa đến Niết-bàn. Vô hại tầm, này các Tỷ-kheo, tác thành không mù, tác thành mắt, tác thành trí, làm tăng trưởng trí tuệ, không dự phần vào tổn hại, đưa đến Niết-bàn. Này các Tỷ-kheo, có ba thiện tầm này, tác thành không mù, tác thành mắt, tác thành trí, làm tăng trưởng trí tuệ, không dự phần vào tổn hại, đưa đến Niết-bàn.

Hăy suy tư, suy tầm,
Ba tầm thuộc chánh thiện,
Đối ba tư duy ác,
Hăy từ bỏ, lánh xa.
Vị ấy chăc chế ngự,
Hành tướng các tư duy,

— Như cơn mưa dẹp sạch,
Các bụi bậm chất chứa.— 

Vị ấy thật chắc chắn
An tịnh tầm với tâm.
Ở đây vị ấy đạt,
Con đường an tịnh đạo.

§ 88. {Iti 3.39; Iti 83} [go up]

This was said by the Blessed One, said by the Arahant, so I have heard: "There are these three inside stains, inside enemies, inside foes, inside murderers, inside adversaries. Which three? Greed is an inside stain, inside enemy, inside foe, inside murderer, inside adversary. Aversion is an inside stain... Delusion is an inside stain, inside enemy, inside foe, inside murderer, inside adversary. These are the three inside stains, inside enemies, inside foes, inside murderers, inside adversaries."

§ 88. {Iti 3.39; Iti 83} [go up]

Điều này đă được Thế Tôn nói đến, đă được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đă được nghe: "Này các Tỷ-kheo, có ba nội uế, nội thù này, nội đối thủ, nội sát nhân, nội thù địch này. Thế nào là ba? Tham, này các Tỷ-kheo, là nội uế, nội thù, nội đối thủ, nội sát thủ, nội sát nhân, nội thù địch. Sân, này các Tỷ-kheo, là nội uế, nội thù, nội đối thủ, nội sát nhân, nội thù địch. Si, này các Tỷ-kheo, là nội uế, nội thù, nội đối thủ, nội sát nhân, nội thù địch. Này các Tỷ-kheo, có ba nội uế, nội thù, nội đối thủ, nội sát nhân, nội thù địch này.

Greed causes harm.
Greed provokes the mind.
People don't realize it
as a danger born from within.
A person, when greedy,
doesn't know his own welfare;
	when greedy,
doesn't see Dhamma.
Overcome with greed,
he's in the dark, blind.
But when one, abandoning greed,
feels no greed
for what would merit greed,
greed gets shed from him — 
	like a drop of water
	off a lotus leaf.

Aversion causes harm.
Aversion provokes the mind.
People don't realize it
as a danger born from within.
A person, when aversive,
doesn't know his own welfare;
	when aversive,
doesn't see Dhamma.
Overcome with aversion
he's in the dark, blind.
But when one, abandoning aversion,
feels no aversion
for what would merit aversion,
aversion drops away from him — 
	like a palm leaf from its stem.

Delusion causes harm.
Delusion provokes the mind.
People don't realize it
as a danger born from within.
A person, when deluded,
doesn't know his own welfare;
	when deluded,
doesn't see Dhamma.
Overcome with delusion
he's in the dark, blind.
But when one, abandoning delusion,
feels no delusion
for what would merit delusion,
he disperses all delusion — 
	as the rising of the sun, the dark.

Tham sanh ra bất hạnh,
Tham làm tâm dao động,
Tham chính là sợ hăi,
Sanh ra từ bên trong,
Loài Người không rơ biết
Loại tham đặc biệt ấy.
Người tham không biết rơ
Đâu chính là lợi ích,
Người tham không thấy được
Đâu chính là Chánh pháp.
Mù ḷa và tối tăm,
Sẽ xuất hiện, có mặt,
Ở nơi một người nào,
Có tham cùng chung sống.
Ai đoạn trừ được tham,
Không tham vật đáng tham,
Với ai tham đoạn trừ
Như giọt nước lá sen.

Sân sanh ra bất hạnh,
Sân làm tâm dao động.
Sân chính là sợ hăi,
Sanh ra từ bên trong
Loài Người không rơ biết,
Ḷng sân đặc biệt ấy.
Người sân không biết rơ
Đâu chính là lợi ích,
Người sân không thấy được
Đâu chính là Chánh pháp,
Mù ḷa và tối tăm,
Sẽ xuất hiện, có mặt,
Ở nơi sân người nào,
Có sân cùng chung sống.
Ai đoạn trừ được sân,
Không sân việc đáng sân,
Với ai, sân đoạn trừ,
Như lá cây ta-la
Được chặt đứt khỏi cành.

Si sanh ra bất hạnh,
Si làm tâm dao động,
Si chính là sợ hăi,
Sanh ra từ bên trong,
Loài Người không rơ biết
Ḷng si đặc biệt ấy
Người si không rơ biết
Đâu chính là lợi ích,
Người si không thấy được
Đâu chính là Chánh pháp,
Mù ḷa và tối tăm
Sẽ xuất hiện, có mặt,
Ở nơi một người nào,
Có si cùng chung sống.
Ai đoạn trừ được si,
Không si việc đáng si,
Vị ấy quét sạch được
Tất cả mọi si ám,
Như mặt trời mọc lên,
Quét sạch mọi tăm tối.

§ 89. {Iti 3.40; Iti 85} [go up]

This was said by the Blessed One, said by the Arahant, so I have heard: "Conquered by three forms of false Dhamma — his mind overwhelmed — Devadatta1 is incurably doomed to deprivation, to hell, for an aeon. Which three? Conquered by evil desires — his mind overwhelmed — Devadatta is incurably doomed to deprivation, to hell, for the duration of an aeon. Conquered by friendship with evil people — his mind overwhelmed — Devadatta is incurably doomed to deprivation, to hell, for the duration of an aeon. And, there being something further to be done, he nevertheless stopped halfway with a lower modicum of distinctive attainment. Conquered by these three forms of false Dhamma — his mind overwhelmed — Devadatta is incurably doomed to deprivation, to hell, for an aeon."

§ 89. {Iti 3.40; Iti 85} [go up]

Điều này đă được Thế Tôn nói đến, đă được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đă được nghe: "Này các Tỷ-kheo, bị chinh phục bởi ba phi diệu pháp, với tâm bị chúng xâm chiếm, Devadatta bị rơi vào đọa xứ, bị rơi vào địa ngục, trú cả kiếp ở đây, không thể cứu chữa. Thế nào là ba? Bị chinh phục bởi ác dục tâm bị ác dục xâm chiếm, Devadatta bị rơi vào đoạ xứ, bị rơi vào địa ngục, trú cả kiếp ở đấy, không thể cứu chữa. Bị chinh phục bởi ác bằng hữu, với tâm bị ác bằng hữu xâm chiếm, Devadatta bị rơi vào đọa xứ, bị rơi vào địa ngục, trú cả kiếp ở đấy, không thể cứu chữa. Dầu cho c̣n có những thượng pháp cần phải làm, do đạt được những chứng đắc đặc biệt, nhưng chỉ có giá trị tầm thường, Devadatta đă dừng lại giữa đường. Này các Tỷ-kheo, bị chinh phục bởi ba phi diệu pháp này, với tâm bị chúng xâm chiếm, Devadatta bị rơi vào đọa xứ, bị rơi vào địa ngục, trú cả kiếp ở đấy, không thể cứu chữa.

May no one in the world
ever be reborn
with evil desire.
Know that,
through that
evil desire,
his destination's that
of all who have evil desires.

I've heard how Devadatta,
— regarded as wise, composed,
incandescent with honor — 
in the thrall of heedlessness
assaulted the Tathagata
and fell to the four-gated, fearful place:
	Avici, unmitigated hell.

Whoever plots against
one free of corruption
who's done no evil deed:
that evil touches him himself,
	corrupted in mind,
	disrespectful.

Whoever might think
of polluting the ocean
with a pot of poison,
couldn't succeed,
for the mass of water is great.
		So it is
when anyone attacks with abuse
	the Tathagata
	— rightly-gone,
	of peaceful mind — 
for abuse doesn't grow on him.
A wise person should make friends,
	should associate,
with a person like him — 
whose path		a monk can pursue
	and reach the ending
	of suffering & stress.

Note

1. Devadatta, one of the Buddha's cousins, plotted to take over the Sangha, and ended up causing a schism. His story is told in Cv VII. [See also §18.] His "lower modicum of distinctive attainment" was his mastery of psychic powers.

Người khởi lên ác dục,
Không được sanh đời này,
Hăy biết nhờ điểm này,
Sanh thú người ác dục.

Ta được nghe như sau
 Về Đề-va-đát-ta,
—Được biết là Hiền trí,
Được nhận có tự ngă,
Đă đứng, được chói sáng,
Chói sáng với danh vọng.
Tự xem ḿnh bằng Ngài
Đă chống lại Như Lai,
Do vậy, bị rơi vào,
Cơi địa ngục A-tỳ,
Với bốn cửa đóng chặt,
Đầy đủ những sợ hăi.
Chắc chắn ai xâm phạm,
Vị không có ác tâm,
Vị không làm điều ác,
Phải cảm xúc ác ấy,
V́ tâm bị uế nhiễm,
Không có biết tôn trọng.
Ai nghĩ làm ô nhiễm,
Toàn cả bể đại dương,
Với các ghè đựng đầy,
Đầy cả với thuốc độc.
Không thể ô nhiễm được,
V́ đại dương quá lớn.
Cũng vậy đối với Như Lai,
Ai lấy lời làm hại,
Vị đường đi chơn chánh,
Vị có tâm an tịnh,
Lời nói không dùng tới,
Bậc chứng ngộ như vậy.
Bậc trí cần làm bạn
Với một người như vậy,
Cần phải gần thân cận,
Với người được như vậy,
Tỷ-kheo cùng đi theo,
Một tuyến đường người ấy,
Vị ấy sẽ đạt đến,
Sự đoạn diệt khổ đau.

§ 90. {Iti 3.41; Iti 87} [go up]

[Alternate translation: Ireland]

This was said by the Blessed One, said by the Arahant, so I have heard: "There are these three supreme objects of confidence. Which three?

§ 90. {Iti 3.41; Iti 87} [go up]

[Alternate translation: Ireland]

Điều này đă được Thế Tôn nói đến, đă được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đă được nghe: "Này các Tỷ-kheo, có ba tín thành tối thượng này. Thế nào là ba?

"Among whatever beings there may be — footless, two-footed, four-footed, many footed; with form or formless; percipient, non-percipient, neither percipient nor non-percipient — the Tathagata, worthy & rightly self-awakened, is considered supreme. Those who have confidence in the Awakened One have confidence in what is supreme; and for those with confidence in the supreme, supreme is the result.

Này các Tỷ-kheo, so sánh các chúng sanh, không chân, hai chân, bốn chân hay nhiều chân, có sắc hay không có sắc, có tưởng, không có tưởng, hay không có tưởng không không có tưởng. Như Lai được xem là tối thượng đối với chúng, tức là bậc A-la-hán, Chánh đẳng Chánh giác. Này các Tỷ-kheo, những ai có ḷng tin thành với đức Phật, những vị ấy có ḷng tín thành nơi tối thượng. Với những ai có ḷng tín thành nơi tối thượng, quả dị thục là quả tối thượng.

"Among whatever qualities there may be, fabricated or unfabricated, the quality of dispassion — the subduing of intoxication, the elimination of thirst, the uprooting of attachment, the breaking of the round, the destruction of craving, dispassion, cessation, the realization of Unbinding — is considered supreme. Those who have confidence in the quality of dispassion have confidence in what is supreme; and for those with confidence in the supreme, supreme is the result.

Này các Tỷ-kheo, so sánh các pháp hữu vi hay vô vi, ly tham được xem là tối thượng đối với họ, tức là kiêu mạn bị nhiếp phục, khát ái bị chế ngự, chấp nhận được nhổ lên, lưu chuyển bị cắt đứt, ái diệt, ly tham, đoạn diệt, Niết-bàn. Này các Tỷ-kheo, những ai có ḷng tín thành nơi ly tham, những vị ấy có ḷng tín thành nơi tối thượng; với những ai có ḷng tin nơi tối thượng, quả dị thục là quả tối thượng.

"Among whatever fabricated qualities there may be, the Noble Eightfold Path — right view, right resolve, right speech, right action, right livelihood, right effort, right mindfulness, right concentration — is considered supreme. Those who have confidence in the Noble Eightfold Path have confidence in what is supreme; and for those with confidence in the supreme, supreme is the result.

Này các Tỷ-kheo, đối với các pháp hữu vi , thánh đạo tám ngành được xem là tối thượng , tức là chánh tri kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định. Này các Tỷ-kheo, những ai có ḷng tín thành nơi thánh đạo tám ngành, những vị ấy có ḷng tín thành nơi tối thượng; với những ai có ḷng tin nơi tối thượng, quả dị thục là quả tối thượng.

"Among whatever communities or groups there may be, the Sangha of the Tathagata's disciples is considered supreme — i.e., the four [groups of noble disciples] when taken as pairs, the eight when taken as persons.1 Those who have confidence in the Sangha have confidence in what is supreme; and for those with confidence in the supreme, supreme will be the result.

Này các Tỷ-kheo, so sánh Tăng chúng hay hội chúng, Tăng chúng đệ tử của Như Lai được xem là tối thượng, tức là bốn đôi, tám vị. Chúng đệ tử này của Thế Tôn là đáng cung kính, đáng tôn trọng, đáng cúng dường, đáng chắp tay, là ruộng phước vô thượng ở đời. Này các Tỷ-kheo, những ai có ḷng tín thành nơi Tăng chúng, những vị ấy có ḷng tín thành nơi tối thượng. Với những ai có ḷng tín thành nơi tối thượng, này các Tỷ-kheo có ba quả dị thục là quả tối thượng.

"These, monks, are the three supreme objects of confidence."

With
confidence,
	realizing the supreme Dhamma
	to be supreme,
confidence in the supreme Buddha,
	unsurpassed
	in deserving offerings;
confidence in the supreme Dhamma,
	the stilling of dispassion,
	bliss;
confidence in the supreme Sangha,
	unsurpassed
	as a field of merit;
having given gifts to the supreme,
	one develops supreme merit,
	supreme long life & beauty,
	status, honor,
bliss, & strength.

Having given to the supreme,
	the wise person, centered
	in supreme Dhamma,
whether becoming a divine or human being,
	rejoices,
having attained the supreme.

Note

1. The four groups of noble disciples when taken as pairs are those who have attained (1) the path to stream-entry and the fruition of stream-entry; (2) the path to once-returning and the fruition of once-returning; (3) the path to non-returning and the fruition of non-returning; and (4) the path to arahantship and the fruition of arahantship. Taking each attainment singly gives eight "individuals."

"Này các Tỷ-kheo, có ba tín thành tối thượng này."

Những ai có ḷng tin,
Ḷng tín nơi tối thượng,
Chính là sự rơ biết,
Biết Chánh pháp tối thượng.
Những ai có ḷng tin,
Nơi đức Phật tối thượng,
Bậc Vô thượng xứng đáng,
Xứng đáng được cúng dường.
Những ai có ḷng tin,
Nơi Chánh pháp tối thượng,
Những pháp rời bỏ tham,
An tịnh, thật tịnh lạc.
Những ai có ḷng tin,
Nơi Tăng chúng tối thượng.
Những ruộng phước công đức,
Vô thượng không ǵ hơn.

Những ai đă bố thí,
Với đối tượng tối thượng,
Công đức được tăng trưởng,
Tăng trưởng đến tối thượng.
Thọ mạng được tối thượng,
Dung sắc cũng tối thượng,
Danh vọng, tiếng đồn tốt,
An lạc và sức mạnh.
Bậc trí có bố thí,
Bố thí vị tối thượng,
Vị định tĩnh, thiền định,
Trong Chánh pháp tối thượng,
Chư Thiên hay loài Người,
Đạt được sự tối thượng,
Họ sung sướng hân hoan.

§ 91. {Iti 3.42; Iti 89} [go up]

This was said by the Blessed One, said by the Arahant, so I have heard: "This is a lowly means of livelihood, alms gathering. It's a form of abuse in the world [to say], 'You go around as an alms gatherer with a bowl in your hand!' Yet sensible young men of good families have taken it up for a compelling reason. They have not been forced into it by kings or robbers, nor through debt, through fear, nor through the loss of their livelihood, but through the thought: 'We are beset by birth, aging, & death, by sorrows, lamentations, pains, distresses, & despairs, beset by stress, overcome with stress. O, that the end of this entire mass of suffering & stress might be known!' But this young man of good family, having gone forth in this way, may be greedy for sensual pleasures, strong in his passions, malevolent in mind, corrupt in his resolves, his mindfulness muddled, unalert, uncentered, his mind scattered, & his faculties uncontrolled. Just as a firebrand from a funeral pyre — burning at both ends, covered with excrement in the middle — is used as fuel neither in a village nor in the wilderness: I tell you that this is a simile for this person. He has missed out on the householder's enjoyments and does not fulfill the purpose of the contemplative life."

	




      He's missed out
on the householder's enjoyment
& the purpose of the contemplative life
	— unfortunate man!
Ruining it, he throws it away,
	perishes
like a firebrand used at a funeral.
Better to eat an iron ball
— glowing, aflame — 
than that, unprincipled &
	unrestrained,
he should eat the alms of the country.

See also: SN 22.80

§ 91. {Iti 3.42; Iti 89} [go up]

Điều này đă được Thế Tôn nói đến, đă được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đă được nghe: "Này các Tỷ-kheo, nghĩa này là nghề tận cùng trong các nghề nuôi sống, tức là đi bát khất thực; Này các Tỷ-kheo, danh từ nhiếc mắng ở trong đời là nói rằng: "Ông là kẻ đi bát, với bát cầm tay, ông đi khắp mọi nơi". Tuy vậy chính nghề nuôi sống này được các thiện gia nam tử chấp nhận, những người sống v́ lư tưởng, v́ duyên sống với lư tưởng, không bị thúc đẩy làm nghề ấy v́ sợ vua, v́ sợ ăn trộm, v́ mắc nợ, v́ sợ hăi, không phải v́ mất nghề nuôi sống; nhưng v́ nghĩ rằng: "Nay ta bị rơi vào sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, năo, bị khổ tràn đầy, bị khổ chinh phục. Rất có thể, một số phương pháp chấm dứt toàn bộ khổ uẩn này có thể tŕnh bày". Này các Tỷ-kheo, thiện nam tử này xuất gia như vậy, tham ái trong các dục, với ḷng tham sắc xảo, với tâm sân hận, ư tư duy nhiễm ác, thất niệm, không tỉnh giác, không định tĩnh, tâm tán loạn, với các căn hoang dại. Này các Tỷ-kheo, như một que lửa lấy từ chỗ thiêu xác, cả hai đầu đều cháy đỏ, ở giữa lại lắm phân, không hoàn thành được mục đích làm que củi ở trong làng hay ở trong rừng. Này các Tỷ-kheo, Ta nói người này như ví dụ như vậy, dầu cho bỏ tài sản gia đ́nh nhưng không làm viên măn mục đích Sa-môn hạnh."

Tài sản ở gia đ́nh,
Được đoạn tận từ bỏ,
Nhưng khó dự phần được,
Mục đích Sa-môn hạnh,
Tự đưa đến tổn hại,
Và đưa đến tán loạn,
Giống que lửa thiêu xác,
Đi đến chỗ hoại vong.
Tốt hơn nuốt ḥn sắt,
Chảy đỏ, một cục lửa,
Nếu kẻ hành ác giới,
Ăn đồ ăn quốc độ,
Không biết có chế ngự.

§ 92. {Iti 3.43; Iti 91} [go up]

This was said by the Blessed One, said by the Arahant, so I have heard: "Even if a monk, taking hold of my outer cloak, were to follow right behind me, placing his feet in my footsteps, yet if he were to be greedy for sensual pleasures, strong in his passions, malevolent in mind, corrupt in his resolves, his mindfulness muddled, unalert, uncentered, his mind scattered, & his faculties uncontrolled, then he would be far from me, and I from him. Why is that? Because he does not see the Dhamma. Not seeing the Dhamma, he does not see me.

§ 92. {Iti 3.43; Iti 91} [go up]

Điều này đă được Thế Tôn nói đến, đă được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đă được nghe: "Này các Tỷ-kheo, nếu một Tỷ-kheo nắm lấy viền áo Tăng-già lê đi theo sau lưng Ta, chân bước theo chân, nhưng vị ấy có tham ái trong các dục, với ḷng sắc xảo, với tâm sân hận, ư tư duy nhiễm ác, thất niệm, không tỉnh giác, không định tĩnh, tâm tán loạn, với các căn hoang dại, vị ấy xa hẳn Ta và Ta xa vị ấy. V́ cớ sao? Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy không thấy Pháp. Do không thấy Pháp nên không thấy Ta.

"But even if a monk were to live one hundred leagues away, yet if he were to have no greed for sensual objects, were not strong in his passions, not malevolent in mind, uncorrupt in his resolves, his mindfulness established, alert, centered, his mind at singleness, & his faculties well-restrained, then he would be near to me, and I to him. Why is that? Because he sees the Dhamma. Seeing the Dhamma, he sees me."

Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo sống xa đến một trăm do-tuần và vị ấy không có tham ái trong các dục, với ḷng tham không sắc xảo, tâm không sân hận, ư tư duy không nhiễm ác, chánh niệm tỉnh giác, định tĩnh nhất tâm, các căn được chế ngự, vị ấy gần hẳn Ta và Ta gần vị ấy. V́ cớ sao? Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy thấy Pháp. Do thấy Pháp nên thấy Ta.

Though following right behind,
	full of desire, vexation:
see how far he is! — 
the perturbed
	from the unperturbed,
the bound
	from the Unbound,
the greedy one
	from the one with no greed.

But the wise person who, through
	direct knowledge of Dhamma,
	gnosis of Dhamma,
grows still & unperturbed
like a lake unruffled by wind:
see how close he is! — 
the unperturbed to the unperturbed,
the Unbound to the Unbound,
the greedless one
to the one with no greed.

Nếu có thể bước theo,
Nhưng nhiều dục bực phiền.
Hăy xem người như vậy,
Thật là xa, rất xa,
Xa giữa người ái dục
Và người không ái dục,
Xa giữa người lắng dịu
Và người không lắng dịu,
Xa giữa người tham ái
Và người đă trừ ái.
Sau khi thắng tri Pháp,
Bậc Hiền trí biết Pháp,
Như ao không gió thổi,
Không dao động, tịnh chỉ.
Hăy xem người như vậy,
Thật là gần, rất gần,
Gần giữa người không ái,
Và người không có ái,
Gần giữa người lắng dịu,
Và người được lắng dịu,
Gần giữa người không tham,
Và người trừ tham ái.

§ 93. {Iti 3.44; Iti 92} [go up]

This was said by the Blessed One, said by the Arahant, so I have heard: "Monks, there are these three fires. Which three? The fire of passion, the fire of aversion, the fire of delusion. These, monks, are the three fires."




The fire of passion burns in a mortal
	excited, smitten
with sensual desires;
the fire of aversion, in a malevolent person
	taking life;
the fire of delusion, in a bewildered person
	ignorant
	of the noble teaching.
Not understanding these fires, people
	— fond of self-identity — 
	unreleased from Mara's shackles,
swell the ranks of hell,
	the wombs of common animals, demons,
	the realm of the hungry shades.

While those who, day & night,
are devoted
to the teachings
	of the rightly self-awakened,
put out the fire of passion,
	constantly perceiving the foul.
They, superlative people,
put out the fire of aversion
		with good will,
and the fire of delusion
	with the discernment leading
	to penetration.
They, the masterful, by night & day,
	having put out [the fires],
having,	without remainder,
	comprehended stress,
are,		without remainder,
	totally unbound.
They, the wise, with an attainer-of-wisdom's
		noble vision,
		right gnosis,
directly knowing
the ending of birth,
	come to no further becoming.

§ 93. {Iti 3.44; Iti 92} [go up]

Điều này đă được Thế Tôn nói đến, đă được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đă được nghe: "Này các Tỷ-kheo, có ba loại lửa này. Thế nào là ba? Lửa tham, lửa sân, lửa si. Này các Tỷ-kheo, có ba loại lửa này."

Lửa tham đốt cháy người,
Say mê trong các dục,
C̣n lửa sân đốt cháy,
Những người có sân hận,
Những người giết, sát hại,
Các loại có sanh mạng.
C̣n lửa si đốt cháy,
Những kẻ bị mê muội,
Những kẻ không tinh luyện,
Trong giáo pháp bậc Thánh,
Do không được biết rơ
Các loại lửa như vậy,
Nên loài Người ưa thích,
Vui thích với có thân.
Họ làm cảnh địa ngục,
Được lớn mạnh tăng trưởng,
Kể cả giới bàng sanh,
Chỗ sanh xứ súc vật,
Cùng với A-tu-la,
Với cảnh giới quỷ đói,

Họ không được thoát khỏi,
Trói buộc của Ác ma.
Nhưng ai ngày và đêm,
Chú tâm vào, chuyên học,
Học những lời giảng dạy,
Bậc Chánh đẳng Chánh giác.
Họ làm cho lắng dịu
Ngọn lửa của ḷng tham,
Luôn luôn ư thức được,
Tánh bất tịnh sự vật.
Với ḷng thương, từ mẫn,
Những hạng người tối thượng,
Làm lắng dịu, chỉ tịnh,
Ngọn lửa của sân hận.
C̣n ngọn lửa si mê,
Với trí tuệ dập tắt,
Trí tuệ này đưa đến
Thể nhập vào chân lư,
Bậc thận trọng sáng suốt,
Ngày đêm làm lắng dịu
Các loại lửa như vậy,
Không có biết mệt mỏi,
Họ làm cho lắng dịu,
Không một chút dư tàn,
Những bậc Thánh đă thấy,
Bậc trí tuệ hiểu biết,
Là những bậc Hiền trí,
Thấy được nhờ chánh trí
Do họ thắng tri được,
Sự diệt tận của sanh,
Nên họ không đi đến,
Sanh đi rồi sanh lại.

§ 94. {Iti 3.45; Iti 93} [go up]

This was said by the Blessed One, said by the Arahant, so I have heard: "A monk should investigate in such a way that — his consciousness neither externally scattered & diffused, nor internally fixated — he is, from lack of clinging/sustenance, unagitated, and there is no seed for the origination of future birth, aging, death, or stress."

For a monk who has abandoned
	seven attachments
and cut the guide:1

the wandering-on in birth
	is finished,
there is
no further becoming.

Note

1. The "seven attachments" are passion, aversion, delusion, views, conceit, defilement, & misconduct. The "guide" is craving, which leads to becoming.

§ 94. {Iti 3.45; Iti 93} [go up]

Điều này đă được Thế Tôn nói đến, đă được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đă được nghe: "Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo cần phải quán sát một cách như thế nào, như thế nào, do quán sát như vậy, thức của vị ấy đối với ngoại trần không có tán loạn, không có tản rộng, tâm không trú trước nội trần, không chấp thủ, không bị khủng bố, sẽ không có sự sanh khởi, sự tập khởi của khổ về sanh ǵa, chết, trong tương lai."

Tỷ-kheo đă đoạn tận,
Cả bảy loại trói buộc:1

Đă chấm dứt sợi dây,
Ṿng sanh tử luân chuyển,
Đă đoạn tận chặn đứng,
Vị ấy không tái sanh.

Note

1. Bảy kiết sử là tham, sân, si, tà kiến, ngă mạn, phóng dật, trạo hối. Tham ái dẫn chúng sanh luân hồi.

§ 95. {Iti 3.46; Iti 94} [go up]

This was said by the Blessed One, said by the Arahant, so I have heard: "There are these three ways of obtaining sensual pleasures. Which three? Those whose sensual pleasures are already provided, those who delight in creating, those with control over what is created by others.1 These are the three ways of obtaining sensual pleasures."

Devas whose pleasures are already provided,
	those with control,
	those who delight in creation,
and any others enjoying sensual pleasures
in this state here
or anywhere else,
	don't go beyond
	the wandering-on.
Knowing this drawback
in sensual pleasures, the wise
should abandon all sensual desires,
	whether human
		or divine.
Having cut the flow of greed
for lovely, alluring forms
so hard to transcend,
having,	without remainder,
	comprehended stress,
they are,	without remainder,
	totally unbound.
They, the wise, with an attainer-of-wisdom's
		noble vision,
		right gnosis,
directly knowing the ending of birth,
	come to no further becoming.

Note

1. As the verse makes clear, these three categories denote three levels of devas in the heavens of sensual pleasure. "Those in control" are at the highest of these levels.

§ 95. {Iti 3.46; Iti 94} [go up]

Điều này đă được Thế Tôn nói đến, đă được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đă được nghe: "Này các Tỷ-kheo, có ba sanh khởi của dục. Thế nào là ba? Dục đối với sự vật hiện tại, sự thích thú đối với sự vật ḿnh tạo ra, sự chấp nhận sự vật do người khác tạo ra. Này các Tỷ-kheo, có ba sanh khởi này của dục."

Những ai có ḷng dục,
Đối sự vật hiện tại,
Và các loại chư Thiên,
Chi phối các sự vật
Do người khác tạo ra,
Chư thiên ưa thích thú,
Đối sự vật ḿnh tạo,
Cùng các chúng sanh khác,
Thọ dụng các loại dục.
Thái độ người Hiền trí,
Đối thọ dụng các dục,
Trong đời này đời khác,
Từ bỏ tất cả dục,
Dầu thuộc về chư Thiên
Và dục thuộc loài Người.
Những ai được chặt đứt
Ḍng nước khó vượt qua,
Sự say đắm sự vật,
Thân ái và tốt đẹp,
Họ làm cho lắng dịu,
Không có vật dư thừa,
Họ vượt qua đau khổ,
Không c̣n chút dư tàn,
Những bậc Thánh đă thấy.
Bậc trí tuệ hiểu biết,
Là những bậc Hiền trí,
Thấy được nhờ chánh trí.
Do họ thắng tri được
Sự diệt tận của sanh,
Nên họ không đi đến,
Sanh đi rồi sanh lại.

§ 96. {Iti 3.47; Iti 95} [go up]

This was said by the Blessed One, said by the Arahant, so I have heard: "Tied by the yoke of sensuality & the yoke of becoming, one is a returner, returning to this state. Untied from the yoke of sensuality but tied by the yoke of becoming, one is a non-returner, not returning to this state. Untied from [both] the yoke of sensuality & from the yoke of becoming, one is an arahant whose fermentations are ended."







Tied by both
	the yoke of sensuality
&	the yoke of becoming,
beings go to the wandering-on
	leading to birth
	& death.
Those who've abandoned the sensual
without reaching the ending of fermentations,
are tied		by the yoke of becoming,
are said to be		non-returners.
While those who've cut off doubt
	have no more conceit
		or further becoming.
They who have reached
	the ending of fermentations,
while in the world
	have gone		
			beyond.

§ 96. {Iti 3.47; Iti 95} [go up]

Điều này đă được Thế Tôn nói đến, đă được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đă được nghe: "Này các Tỷ-kheo, những ai bị trói buộc bởi trói buộc của dục, những ai bị trói buộc bởi trói buộc của hữu là những bậc đến lại, đi đến lại có mặt ở đây. Những ai chế ngự được sự trói buộc của dục, này các Tỷ-kheo, nhưng c̣n bị trói buộc bởi trói buộc của hữu, những vị ấy là hạng Bất lai, không trở lui lại có mặt ở đây. Những ai chế ngự được sự trói buộc của dục, chế ngự được sự trói buộc của hữu, những vị ấy là bậc A-la-hán, đă đoạn tận các lậu hoặc."

Những ai bị nhiếp phục,
Bởi trói buộc của dục,
Bởi trói buộc của hữu,
Bởi trói buộc cả hai,
Chúng sanh ấy đi đến,
Luân chuyển trong luân hồi,
Họ đi đến sanh tử.
Những ai đoạn tận dục,
Nhưng chưa đạt thành được,
Sự diệt tận lậu hoặc,
Họ c̣n bị nhiếp phục,
Bởi trói buộc của hữu,
Họ được gọi Bất lai.
Những ai chặt đứt được,
Mọi nghi hoặc phân vân,
Đoạn tận được kiêu mạn,
Đoạn tận được tái sanh,
Chắc chắn trong đời này,
Họ đi đến bờ kia,
V́ họ đă đạt tới,
Sự đoạn diệt lậu hoặc.

§ 97. {Iti 3.48; Iti 96} [go up]

This was said by the Blessed One, said by the Arahant, so I have heard: "A monk who has admirable virtue, admirable qualities, & admirable discernment is called, in this Dhamma-&-Vinaya, one who is complete, fulfilled, a superlative person.

§ 97. {Iti 3.48; Iti 96} [go up]

Điều này đă được Thế Tôn nói đến, đă được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đă được nghe: "Này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo, có giới tốt lành, có pháp tốt lành, có tuệ tốt lành được gọi trong Pháp và Luật này là vị toàn hảo.

"And how is a monk a person with admirable virtue? There is the case where a monk is virtuous. He dwells restrained in accordance with the Patimokkha, consummate in his behavior & sphere of activity. He trains himself, having undertaken the training rules, seeing danger in the slightest faults. In this way a monk is a person with admirable virtue. Thus he is of admirable virtue.

Này các Tỷ-kheo, thế nào là Giới tốt lành? Ở đây này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo giữ giới, sống chế ngự với sự chế ngự của giới bổn Patimokkha, đầy đủ oai nghi chánh hạnh, thấy sợ hăi trong những lỗi nhỏ nhặt, chấp nhận và học tập trong các học pháp. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là vị Tỷ-kheo có giới tốt lành.

"And how is a monk a person with admirable qualities? There is the case where a monk lives devoted to developing the seven [sets of] qualities that are wings to Awakening.1 In this way a monk is a person with admirable qualities. Thus he is of admirable virtue & admirable qualities.

Và thế nào là có Pháp tốt lành? Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo sống chuyên tâm chuyên chú tu tập Bảy pháp giác chi. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là vị có pháp tốt lành. Như vậy là giới tốt lành và pháp tốt lành.

"And how is a monk a person with admirable discernment? There is the case where a monk, through the ending of fermentations, dwells in the awareness-release & discernment-release that are free from fermentation, having known & made them manifest for himself right in the present life. In this way a monk is a person with admirable discernment. Thus he is of admirable virtue, admirable qualities, admirable discernment. In this Dhamma-&-Vinaya he is called one who is complete, fulfilled, a superlative person."

Và thế nào là Tuệ tốt lành? Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo do diệt trừ các lậu hoặc, ngay trong hiện tại, tự ḿnh với thắng trí chứng ngộ chứng đạt và an trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là vị Tỷ-kheo có tuệ tốt lành. Như vậy, một người có giới tốt lành, có pháp tốt lành, có tuệ tốt lành được gọi trong Pháp và Luật là vị toàn hảo.

Devoid of wrong-doing
in thought, word, or deed,
he's called a person of admirable virtue:
	the monk conscientious.
Well-developed in the qualities
that go to the attainment of self-awakening,
he's called a person of admirable qualities:
	the monk unassuming.
Discerning right here for himself,
			in himself,
the ending of stress
he's called a person of admirable discernment:
	the monk with no fermentation.
Consummate in
these things,
untroubled, with doubt cut away,
unattached in all the world,
	he's said to have abandoned
		the All.

Note

1. See the note to §82.

Ai với thân, với lời,
Với ư, không làm ác,
Vị ấy giới tốt lành,
Được gọi là Tỷ-kheo
Có được ḷng xấu hổ,
Ai, pháp khéo tu tập,
Những pháp giúp đạt đến,
Chứng được quả Bồ-đề,
Vị ấy pháp tốt lành,
Được gọi là Tỷ-kheo
Không có dục trào ra.
Ai quán tri đau khổ,
Ở đây, diệt trừ khổ,
Vị ấy tuệ tốt lành,
Được gọi là Tỷ-kheo
Không có các lậu hoặc,
Đầy đủ những pháp ấy,
Thoát khỏi sự phiền muộn
Chặt đứt mọi nghi ngờ,
Không luyến ái tham đắm
Mọi sự vật ở đời,
Vị ấy được xưng gọi
Vị đoạn tận tất cả.

§ 98. {Iti 3.49; Iti 98} [go up]

This was said by the Blessed One, said by the Arahant, so I have heard: "There are these two kinds of gifts: a gift of material things & a gift of the Dhamma. Of the two, this is supreme: a gift of the Dhamma. There are these two kinds of sharing: sharing of material things & sharing of the Dhamma. Of the two, this is supreme: sharing of the Dhamma. There are these two kinds of assistance: assistance with material things & assistance with the Dhamma. Of the two, this is supreme: help with the Dhamma."

The gift he describes
as foremost & unsurpassed,
the sharing the Blessed One has extolled:
who — confident in the supreme field of merit,
	wise, discerning — 
wouldn't give it at appropriate times?
Both for those who proclaim it
and those who listen,
confident in the message of the One Well-gone:
it purifies their foremost benefit — 
	those heeding the message
	of the One Well-gone.

§ 98. {Iti 3.49; Iti 98} [go up]

Điều này đă được Thế Tôn nói đến, đă được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đă được nghe: "Này các Tỷ-kheo, có hai loại bố thí: Bố thí tài vật và bố thí Pháp. Này các Tỷ-kheo, đây là bố thí tối thượng trong hai loại bố thí này, tức là bố thí Pháp. Này các Tỷ-kheo, có hai sự phân phát này: Phân phát tài vật và phân phát Pháp. Đây là phân phát tối thượng trong hai loại phân phát này, tức là phân phát Pháp. Này các Tỷ-kheo, có hai loại nhiêu ích này, nhiêu ích tài vật và nhiêu ích Pháp. Này các Tỷ-kheo, đây là nhiêu ích tối thượng trong hai loại nhiêu ích này, tức là nhiêu ích Pháp."

Điều được gọi bố thí,
Thù thắng và vô thượng,
Và sự phân phát nào,
Được Thế Tôn tán thán,
Với tâm tư tín thành,
Trong ruộng phước tối thượng,
Bậc trí rơ biết vậy,
Ai lại không cúng dường,
Ai làm được cả hai,
Nói lên và lắng nghe,
Với tâm tư tịnh tín,
Trong lời dạy Thiện Thệ,
Lợi ích ấy của họ,
Là tối thắng thanh tịnh,
Những ai không phóng dật,
Trong lời dạy Thiện Thệ.

§ 99. {Iti 3.50; Iti 98} [go up]

This was said by the Blessed One, said by the Arahant, so I have heard: "It's on the strength of Dhamma that I describe [a person as] a brahman with threefold knowledge, and not another as measured by citing & reciting. And how is it on the strength of Dhamma that I describe [a person as] a brahman with threefold knowledge, and not another as measured by citing & reciting?

§ 99. {Iti 3.50; Iti 98} [go up]

Điều này đă được Thế Tôn nói đến, đă được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đă được nghe: "Điều này đă được Thế Tôn nói đến, đă được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đă được nghe:

Này các Tỷ-kheo, Ta tuyên bố rằng: "Một Bà-la-môn có được ba minh, một cách đúng pháp, không phải người nào khác được gọi vậy chỉ v́ người này bập bẹ nói lên". Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Ta tuyên bố rằng một Bà-la-môn có được ba minh một cách đúng pháp, không phải người nào khác được gọi vậy chỉ v́ người này bập bẹ nói lên?

"There is the case where a monk recollects his manifold past lives, i.e., one birth, two... five, ten... fifty, a hundred, a thousand, a hundred thousand, many aeons of cosmic contraction, many aeons of cosmic expansion, many aeons of cosmic contraction & expansion: 'There I had such a name, belonged to such a clan, had such an appearance. Such was my food, such my experience of pleasure & pain, such the end of my life. Passing away from that state, I re-arose there. There too I had such a name, belonged to such a clan, had such an appearance. Such was my food, such my experience of pleasure & pain, such the end of my life. Passing away from that state, I re-arose here.' Thus he recollects his manifold past lives in their modes & details.

Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo nhớ đến người đời quá khứ, ví như một đời, hai đời, ba đời, bốn đời, năm đời, mười đời, hai mươi đời, ba mươi đời, bốn mươi đời, năm mươi đời, một trăm đời, hai trăm đời, một ngàn đời, một trăm ngàn đời, nhiều thành kiếp, nhiều hoại kiếp, nhiều thành hoại kiếp. Vị ấy nhớ rằng: "Tại chỗ kia ta có tên như thế này, ḍng họ như thế này, giai cấp như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ kia, ta được sanh ra tại chỗ nọ. Tại chỗ ấy ta có tên như thế này, ḍng họ như thế này, giai cấp như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ nọ, ta được sanh ra ở đây". Như vậy, Tỷ-kheo nhớ đến nhiều đời sống quá khứ cùng với các nét đại cương và các chi tiết.

"This is the first knowledge he has attained. Ignorance has been destroyed; knowledge has arisen; darkness has been destroyed; light has arisen — as happens in one who is heedful, ardent, & resolute.

Đây là minh thứ nhất, vị ấy chứng đạt; vô minh diệt, minh sanh; tối tăm diệt, ánh sáng sanh, do vị ấy sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần.

"Then again, the monk sees — by means of the divine eye, purified & surpassing the human — beings passing away & re-appearing, and I discerned how they are inferior & superior, beautiful & ugly, fortunate & unfortunate in accordance with their actions: 'These beings — who were endowed with bodily misconduct, verbal misconduct, & mental misconduct; who reviled noble ones, held wrong views and undertook actions under the influence of wrong views — at the break-up of the body, after death, have re-appeared in the plane of deprivation, the bad destination, the lower realms, in hell. But these beings — who were endowed with bodily good conduct, verbal good conduct, & mental good conduct; who did not revile noble ones, who held right views and undertook actions under the influence of right views — at the break-up of the body, after death, have re-appeared in the good destinations, in the heavenly world.' Thus — by means of the divine eye, purified & surpassing the human — he sees beings passing away & re-appearing, and discerns how they are inferior & superior, beautiful & ugly, fortunate & unfortunate in accordance with their actions.

Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo với Thiên nhăn thuần tịnh siêu nhân, thấy sự sống và chết của chúng sanh. Vị ấy biết rơ rằng, chúng sanh người hạ liệt, kẻ cao sang, người đẹp đẽ, kẻ thô xấu, người may mắn, kẻ bất hạnh, đều do hạnh nghiệp của chúng. Các vị chúng sanh này làm những ác hạnh về thân, về lời, về ư, phỉ báng các bậc Thánh theo tà kiến, tạo các nghiệp theo tà kiến. Những người này sau khi thân hoại mạng chung, phải sanh vào cơi dữ, ác thú, đoạ xứ, địa ngục. C̣n những vị chúng sanh này làm những thiện hạnh về thân, về lời, về ư, không phỉ báng các bậc Thánh, theo chánh kiến, tạo các nghiệp theo chánh kiến. Những người này, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên thiện thú, Thiên giới, cơi đời này. Như vậy với Thiên nhăn thuần tịnh siêu nhân, thấy sự sống và chết của chúng sanh. Vị ấy biết rơ rằng chúng sanh, người hạ liệt, kẻ cao sang, người đẹp đẽ, kẻ thô xấu, người may mắn, kẻ bất hạnh, đều do hạnh nghiệp của chúng.

"This is the second knowledge he has attained. Ignorance has been destroyed; knowledge has arisen; darkness has been destroyed; light has arisen — as happens in one who is heedful, ardent, & resolute.

Đây là minh thứ hai vị ấy chứng đạt; vô minh diệt, minh sanh; tối tăm diệt, ánh sáng sanh, do vị ấy sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần.

"Then again, the monk — with the ending of fermentations — remains in the fermentation-free awareness-release & discernment-release, having directly known and made it manifest for himself right in the present life.

Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo do diệt tận các lậu hoặc, ngay trong hiện tại, tự ḿnh với thắng trí, chứng ngộ, chứng đạt và an trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát.

"This is the third knowledge he has attained. Ignorance has been destroyed; knowledge has arisen; darkness has been destroyed; light has arisen — as happens in one who is heedful, ardent, & resolute.

Đây là minh thứ ba, vị ấy chứng đạt, vô minh diệt, minh sanh; tối tăm diệt, ánh sáng sanh, do vị ấy sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần.

"It's in this way that, on the strength of Dhamma, I describe [a person as] a brahman with threefold knowledge, and not another as measured by citing & reciting."

He knows	his former lives.
He sees	heavens & states of woe,
has attained	the ending of birth,
is a sage	who has mastered full-knowing.

By means of these three knowledges
he becomes a three-knowledge brahman.1
He's what I call a three-knowledge man — 
	not another,
	citing, reciting.

Note

1. In the brahmanical religion, a "three-knowledge man" was one who had memorized the three Vedas. This verse takes the brahmanical term and gives it a new, Buddhist meaning.

See also: MN 4; Dhp 423.

"Như vậy, này các Tỷ-kheo, Ta tuyên bố rằng một Bà-la-môn có được ba minh một cách đúng pháp, không phải người nào khác được gọi vậy chỉ v́ người này bập bẹ nói lên."

Ai biết được đời trước,
Với Thiên giới đọa xứ,
Người ấy, Ta tuyên bố,
Là vị Bà-la-môn,
Chớ không phải ai khác,
Chỉ mở miệng bập bẹ.
Ai biết được đời trước,
Thấy Thiên giới, đọa xứ,
Vị ấy đạt sanh diệt,
Thật là bậc ẩn sĩ,
Đă thành tựu thắng trí.
Ba minh này thành tựu,
Là Phạm chí ba minh,
Ta gọi vị như vậy,
Chính là bậc Ba minh,
Chớ không phải ai khác,
Do nói lời bập bẹ.

 Chủ biên và điều hành: TT Thích Giác Đẳng.

 Những đóng góp dịch thuật xin gửi về TT Thích Giác Đẳng tại giacdang@phapluan.com
Cập nhập ngày: Thứ Sáu 08-11-2006

Kỹ thuật tŕnh bày: Minh Hạnh & Thiện Pháp

 | trở về đầu trang | Home page |