I have heard that on one occasion, when the Blessed One was newly Awakened — staying at Uruvela by the banks of the Nerañjara River in the shade of the Bodhi tree, the tree of Awakening — he sat in the shade of the Bodhi tree for seven days in one session, sensitive to the bliss of release. At the end of seven days, after emerging from that concentration, he surveyed the world with the eye of an Awakened One. As he did so, he saw living beings burning with the many fevers and aflame with the many fires born of passion, aversion, and delusion. Then, on realizing the significance of that, he on that occasion exclaimed:


Như vầy tôi nghe: Một thời Thế Tôn trú ở Uruvelà, trên bờ sông Neranjara, dưới gốc cây Bồ-đề, khi mới thành Chánh giác. Lúc bấy giờ Thế Tôn trong bảy ngày ngồi một thế ngồi kiết già, hưởng thọ giải thoát lạc. Rồi Thế Tôn, sau bảy ngày ấy, từ định ấy xuất khởi, nhìn đời với Phật nhãn, thấy các chúng sanh bị thiêu đốt với nhiều loại thiêu đốt, bị nhiệt não bởi nhiều loại nhiệt não, bởi tham, bởi sân, bởi si. Rồi Thế Tôn, sau khi biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này:

 

This world is burning.
Afflicted by contact,
it calls disease a "self."
By whatever it construes [things],
that's always otherwise.
Becoming otherwise,
the world is
	held by becoming
	afflicted by becoming
and yet delights
	in that very becoming.
Where there's delight,
	there is fear.
What one fears
	is stressful.
This holy life is lived
for the abandoning of becoming.

Ðời này bị thiêu đốt,
Chi phần bởi cảm xúc,
Tự mình nói rõ lên,
Chứng bệnh của chính mình,
Bởi vì nó nghĩ đến,
Do đó bị đổi khác,
Bị đổi khác vì hữu,
Bị lệ thuộc vì hữu,
Ðời này hữu chi phối,
Lại hoan hỷ với hữu,
Khi nào có hoan hỷ,
Ở đấy có sợ hãi,
Với ai có sợ hãi,
Ðấy tức là đau khổ,
Chính do đoạn diệt hữu,
Phạm hạnh này được sống.

 

"Whatever priests or contemplatives say that liberation from becoming is by means of becoming, all of them are not released from becoming, I say.

Những Sa-môn hay Bà-la-môn nào đã tuyên bố rằng sự giải thoát khỏi hữu là do hữu. Ta nói rằng tất cả những vị ấy không giải thoát khỏi hữu.

 

"And whatever priests or contemplatives say that escape from becoming is by means of non-becoming, all of them have not escaped from becoming, I say.

Những Sa môn hay những Bà-la-môn nào đã tuyên bố rằng sự xuất ly khỏi hữu là do phi hữu, tất cả những vị ấy, Ta tuyên bố rằng chúng không nương tựa nơi hữu.

 

This stress comes into play
in dependence on all acquisitions.
With the ending of all clinging/sustenance,
there's no stress coming into play.
Look at this world:
Beings, afflicted with thick ignorance,
are unreleased
from delight in what has come to be.
All levels of becoming,
	anywhere,
	in any way,
are inconstant, stressful, subject to change.
Seeing this — as it's actually present — 
with right discernment,
one abandons craving for becoming,
without delighting in non-becoming.
From the total ending of craving
comes fading & cessation without remainder:
	Unbinding.
For the monk unbound,
through lack of clinging/sustenance,
there's no further becoming.
He has vanquished Mara,
	won the battle.
Having gone beyond all levels of being,
	he's Such.

Do duyên sanh y, 
Khổ này được sanh khởi.
Chính do đoạn diệt tất cả sanh y, 
Khổ không có hiện hữu.
Hãy xem đời rộng này,
Bị vô minh chi phối,
Các sanh loại được sanh,
Ưa thích được sanh khởi,
Không thoát được sanh hữu.
Với ai đốt sanh hữu,
Tất cả mọi thời, xứ,
Tất cả sanh hữu này,
Vô thường khổ biến hoại,
Như vậy, thấy như thật,
Với chơn chánh trí tuệ,
Hữu ái được đoạn tận,
Phi hữu ái hoan hỷ
Ðoạn diệt ái hoàn toàn,
Ly tham, diệt, hoàn toàn,
Như vậy là Niết Bàn,
Tỷ-kheo ấy mát lạnh,
Không chấp thủ tái sanh,
Nhiếp phục được ma vương,
Trận chiến đã chiến thắng,
Vị Tỷ-kheo như vậy,
Vượt qua mọi sanh hữu.

 Chủ biên và điều hành: TT Thích Giác Đẳng.

 Những đóng góp dịch thuật xin gửi về TT Thích Giác Đẳng tại giacdang@phapluan.com
Cập nhập ngày: Thứ Sáu 08-11-2006

Kỹ thuật trình bày: Minh Hạnh & Thiện Pháp

 | trở về đầu trang | Home page |