I have heard that on one occasion the Blessed One was staying in Savatthi at the Eastern Monastery, the palace of Migara's mother. Now at that time the Blessed One, having emerged from his seclusion in the late afternoon, was sitting outside the doorway. Then King Pasenadi Kosala went to the Blessed One and, on arrival, having bowed down to him, sat to one side. Then seven coiled-hair ascetics, seven Jain ascetics, seven naked ascetics, seven one-cloth ascetics, and seven wanderers — their nails grown long, their body-hair grown long — walked past not far from the Blessed One. King Pasenadi Kosala saw the seven coiled-hair ascetics, seven Jain ascetics, seven naked ascetics, seven one-cloth ascetics, and seven wanderers — their nails grown long, their body-hair grown long — walking past not far from the Blessed One. On seeing them, he arranged his upper robe over one shoulder, knelt down with his right knee on the ground, saluted the ascetics with his hands before his heart, and announced his name to them three times: "I am the king, venerable sirs, Pasenadi Kosala. I am the king, venerable sirs, Pasenadi Kosala. I am the king, venerable sirs, Pasenadi Kosala." Then not long after the ascetics had passed, he returned to the Blessed One and, on arrival, having bowed down to him, sat to one side. As he was sitting there he said to the Blessed One, "Of those in the world who are arahants or on the path to arahantship, are these among them?"


Như vầy tôi nghe: Một thời Thế Tôn ở Sàvatthi, tại Đông Viên, lâu đài mẹ của Migàra. Lúc bấy giờ Thế Tôn vào buổi chiều, từ độc cư thiền tịnh đứng dậy và đến ngồi tại một ngôi nhà nhỏ phía cửa ngoài. Rồi vua Pasenadi nước Kosala đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn và ngồi xuống một bên. Lúc bấy giờ bảy vị bện tóc, bảy vị Ni-kiền Tử, bảy vị lơa thể, bảy vị mặc một y và bảy vị du sĩ, với nách đầy lông, với móng tay dài, mang các dụng cụ khất sĩ, đă đi ngang qua Thế Tôn không xa bao nhiêu. Rồi vua Pasenadi nước Kosala, từ chỗ ngồi đứng dậy, đắp y một bên vai, quỳ xuống trên đầu gối tay mặt, chấp tay hướng về bảy vị bện tóc, bảy vị Ni-kiền Tử, bảy vị lơa thể, bảy vị mặc một y và bảy vị du sĩ ấy, nói lên ba lần tên của ḿnh: "Thưa chư Tôn giả, con là vua Pasenadi nước Kosala!". Rồi vua Pasenadi nước Kosala, khi bảy vị bện tóc, bảy vị Ni-kiền Tử, bảy vị Ni-kiền Tử, bảy vị lơa thể, bảy vị mặc một y, và bảy vị du sĩ ấy đă đi ngang qua không bao lâu, liền đi đến Thế Tôn, đảnh lễ Ngài và ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, vua Pasenadi nước Kosala bạch Thế Tôn: - Bạch Thế Tôn, có phải những Tôn giả ấy là những vị A-la-hán trên đời này, hay là những vị đang đi trên con đường hướng đến đạo quả A-la-hán?

 

"Your majesty, as a layman enjoying sensuality; living crowded with wives and children; using Kasi fabrics and sandalwood; wearing garlands, scents, and creams; handling gold and silver, it is hard for you to know whether these are arahants or on the path to arahantship.

- Thưa Đại vương, khi Đại vương c̣n là cư sĩ trong khi c̣n sống với gia đ́nh, thọ hưởng dục lạc, bị vợ con trói buộc, quen dùng các loại chiên đàn ở xứ Kàsi, trang sức với ṿng hoa, hương thơm, dầu sáp, thọ hưởng vàng và bạc thời Đại vương thật khó biết được các vị ấy là bậc A-la-hán hay là bậc đang đi con đường hướng đến A-la-hán quả.

 

"It is through living together that a person's virtue may be known, and then only after a long period, not a short period; by one who is attentive, not by one who is inattentive; by one who is discerning, not by one who is not discerning.

Thưa Đại vương, chính phải cộng trú mới biết được giới đức của một người và như vậy phải trong một thời gian dài không thể ít ngày được, phải có tác ư không phải không có tác ư; phải có trí tuệ không phải với ác tuệ.

 

"It is through dealing with a person that his purity may be known, and then only after a long period, not a short period; by one who is attentive, not by one who is inattentive; by one who is discerning, not by one who is not discerning.

Thưa Đại vương, chính phải có liên hệ mới biết được sự thanh liêm của một người, phải trong một thời gian dài không thể ít ngày được, phải có tác ư, không phải không có tác ư, phải có trí tuệ không phải với ác tuệ.

 

"It is through adversity that a person's endurance may be known, and then only after a long period, not a short period; by one who is attentive, not by one who is inattentive; by one who is discerning, not by one who is not discerning.

Thưa Đại vương, chính trong thời gian bất hạnh biết được sự trung kiên của một người, phải trong một thời gian dài không thể ít ngày được; phải có tác ư, không phải không tác ư; phải có trí tuệ, không phải với ác tuệ.

 

"It is through discussion that a person's discernment may be known, and then only after a long period, not a short period; by one who is attentive, not by one who is inattentive; by one who is discerning, not by one who is not discerning."

Thưa Đại vương, chính phải đàm luận biết được trí tuệ của một người, và như vậy phải trong một thời gian dài không thể ít ngày được; phải có tác ư, không phải không tác ư, phải có trí tuệ, không phải với ác tuệ.

 

"How amazing, lord! How awesome! How well that was put by the Blessed One! 'Your majesty, as a layman enjoying sensuality; living crowded with wives and children; using Kasi fabrics and sandalwood; wearing garlands, scents, and creams; handling gold and silver, it is hard for you to know whether these are arahants or on the path to arahantship.

- Thật là hy hữu, bạch Thế Tôn! Thật là kỳ diệu, bạch Thế Tôn, khi Thế Tôn đă khéo nói như sau: "Thưa Đại vương, khi Đại vương c̣n là cư sĩ trong khi c̣n sống với gia đ́nh, thọ hưởng dục lạc, bị vợ con trói buộc, quen dùng các loại chiên đàn ở xứ Kàsi, trang sức với ṿng hoa, hương thơm, dầu sáp, thọ hưởng vàng và bạc thời Đại vương thật khó biết được các vị ấy là bậc A-la-hán hay là bậc đang đi con đường hướng đến A-la-hán quả.

 

"'It is through living together that a person's virtue may be known, and then only after a long period, not a short period; by one who is attentive, not by one who is inattentive; by one who is discerning, not by one who is not discerning.

Thưa Đại vương, chính phải cộng trú mới biết được giới đức của một người và như vậy phải trong một thời gian dài không thể ít ngày được, phải có tác ư không phải không có tác ư; phải có trí tuệ không phải với ác tuệ.

 

"'It is through dealing with a person that his purity may be known, and then only after a long period, not a short period; by one who is attentive, not by one who is inattentive; by one who is discerning, not by one who is not discerning.

Thưa Đại vương, chính phải có liên hệ mới biết được sự thanh liêm của một người, phải trong một thời gian dài không thể ít ngày được, phải có tác ư, không phải không có tác ư, phải có trí tuệ không phải với ác tuệ.

 

"'It is through adversity that a person's endurance may be known, and then only after a long period, not a short period; by one who is attentive, not by one who is inattentive; by one who is discerning, not by one who is not discerning.

Thưa Đại vương, chính trong thời gian bất hạnh biết được sự trung kiên của một người, phải trong một thời gian dài không thể ít ngày được; phải có tác ư, không phải không tác ư; phải có trí tuệ, không phải với ác tuệ.

 

"'It is through discussion that a person's discernment may be known, and then only after a long period, not a short period; by one who is attentive, not by one who is inattentive; by one who is discerning, not by one who is not discerning.'

Thưa Đại vương, chính phải đàm luận biết được trí tuệ của một người, và như vậy phải trong một thời gian dài không thể ít ngày được; phải có tác ư, không phải không tác ư, phải có trí tuệ, không phải với ác tuệ.

 

"These men, lord, are my spies, my scouts, returning after going out through the countryside. They go out first, and then I go. Now, when they have scrubbed off the dirt and mud, are well-bathed and well-perfumed, have trimmed their hair and beards, and have put on white clothes, they will go about endowed and provided with the five strings of sensuality."

Bạch Thế Tôn, có những trinh thám này của con những người trinh sát sau khi đi trinh sát mặt nước, chúng đến con. Trước hết họ báo cáo rồi con mới đúc kết. Bạch Thế Tôn, ở đây những người ấy sau khi tẩy sạch bụi và nhớp, sau khi tắm rửa và xoa dầu, sau khi chải sạch râu tóc, mặc áo vải trắng, chúng được hầu hạ săn sóc và cho thọ hưởng năm dục công đức.

Then, on realizing the significance of that, the Blessed One on that occasion exclaimed:

Rồi Thế Tôn sau khi hiểu biết ư nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên bài kệ này:

 

One should not make an effort everywhere.
One should not be another's hireling.
One should not live dependent on another.
One should not make the Dhamma a trade.

Phải siêng năng cố gắng,
Tại bất cứ chỗ nào,
Chớ trở thành là người
Thuộc vào con người khác,
Chớ có sống ỷ lại,
Nương tựa vào ngựi khác,
Chớ sống nghề buôn bán,
Đem pháp để kiếm lời.
 Chủ biên và điều hành: TT Thích Giác Đẳng.

 Những đóng góp dịch thuật xin gửi về TT Thích Giác Đẳng tại giacdang@phapluan.com
Cập nhập ngày: Thứ Sáu 08-11-2006

Kỹ thuật tŕnh bày: Minh Hạnh & Thiện Pháp

 | trở về đầu trang | Home page |