Virtue [go up]

There are these five gifts, five great gifts — original, long-standing, traditional, ancient, unadulterated, unadulterated from the beginning — are not open to suspicion, will never be open to suspicion, and are unfaulted by knowledgeable contemplatives and priests. Which five?


Có năm bố thí này, là đại bố thí, được biết là tối sơ, được biết là lâu ngày, được biết là truyền thống cổ xưa, trước không tạp loạn, hiện tại không tạp loạn, tương lai không tạp loạn, không bị những Sa-môn, những Bà-la-môn có trí khinh thường. Thế nào là năm ?

There is the case where a noble disciple, abandoning the taking of life, abstains from taking life. In doing so, he gives freedom from danger, freedom from animosity, freedom from oppression to limitless numbers of beings. In giving freedom from danger, freedom from animosity, freedom from oppression to limitless numbers of beings, he gains a share in limitless freedom from danger, freedom from animosity, and freedom from oppression...

Ở đây, Thánh đệ tử đoạn tận sát sanh. Này các Tỷ-kheo, Thánh đệ tử từ bỏ sát sanh, đem cho không sợ hãi cho vô lượng chúng sanh, đem cho không hận thù cho vô lượng chúng sanh, đem cho không hại cho vô lượng chúng sanh ; sau khi cho vô lượng chúng sanh, không sợ hãi, không hận thù, không hại, vị ấy sẽ được san sẽ vô lượng không sợ hãi, không hận thù, không hại.

Abandoning taking what is not given (stealing), he abstains from taking what is not given...

Abandoning illicit sex, he abstains from illicit sex...

Abandoning lying, he abstains from lying...

Abandoning the use of intoxicants, he abstains from taking intoxicants. In doing so, he gives freedom from danger, freedom from animosity, freedom from oppression to limitless numbers of beings. In giving freedom from danger, freedom from animosity, freedom from oppression to limitless numbers of beings, he gains a share in limitless freedom from danger, freedom from animosity, and freedom from oppression... This is the fifth gift, the fifth great gift — original, long-standing, traditional, ancient, unadulterated, unadulterated from the beginning — that is not open to suspicion, will never be open to suspicion, and is unfaulted by knowledgeable contemplatives and priests.

A VIII.39

Thánh đệ tử đoạn tận lấy của không cho, từ bỏ lấy của không cho ... Thánh đệ tử đoạn tận tà hạnh trong các dục, từ bỏ tà hạnh trong các dục ... Thánh đệ tử đoạn tận nói láo, từ bỏ nói láo... Thánh đệ tử đoạn tận đắm say rượu men, rượu nấu, đem cho không sợ hãi cho vô lượng chúng sanh, đem cho không hận thù cho vô lượng chúng sanh, đem cho không hại cho vô lượng chúng sanh ; sau khi cho vô lượng chúng sanh, không sợ hãi, không hận thù, không hại, vị ấy sẽ được san sẽ vô lượng không sợ hãi, không hận thù, không hại... Đây là bố thí thứ năm, là đại bố thí, được biết là tối sơ, được biết là lâu ngày, được biết là truyền thống cổ xưa, trước không tạp loạn, hiện tại không tạp loạn, tương lai không tạp loạn, không bị những Sa-môn, những Bà-la-môn có trí khinh thường.

Cleansing with regard to the body, Cunda, is threefold; cleansing with regard to speech is fourfold; and cleansing with regard to the mind, threefold. And how is cleansing with regard to the body threefold? There is the case where a certain person, abandoning the taking of life, abstains from the taking of life. He dwells with his rod laid down, his knife laid down, scrupulous, merciful, compassionate for the welfare of all living beings. Abandoning the taking of what is not given, he abstains from taking what is not given. He does not take the ungiven property of another, whether in a village or in the wilderness, with thievish intent. Abandoning sensual misconduct, he abstains from sensual misconduct. He does not get sexually involved with those who are protected by their mothers, their fathers, their brothers, their sisters, their relatives, or their Dhamma; those with husbands, those who entail punishments, or even those crowned with flowers by another man. This is how cleansing with regard to the body is threefold.

Này Cunda, tịnh hạnh về thân có ba, tịnh hạnh về lời có bốn, tịnh hạnh về ý có ba. Này Cunda, thế nào là tịnh hạnh về thân có ba ? Ở đây, này Cunda, có người đoạn tận sát sanh, từ bỏ sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc tất cả chúng sanh, và loài hữu tình. Đoạn tận lấy của không cho, từ bỏ lấy của không cho ; bất cứ vật gì của người khác, hoặc tại thôn làng, hoặc tại rừng núi, không có người ấy, người ấy không lấy với ý niệm trộm cắp. Đoạn tận tà hạnh trong các dục, từ bỏ tà hạnh trong các dục, với hạng nữ nhân có mẹ che chở, có cha che chở, có anh che chở, có chị che chở, có bà con che chở, có pháp che chở, đã có chồng, được hình phạt gậy gộc bảo vệ, cho đến những nữ nhân được trang sức bằng vòng hoa (đám cưới). Như vậy, này Cunda, tịnh hạnh về thân có ba.

And how is cleansing with regard to speech fourfold? There is the case where a certain person, abandoning false speech, abstains from false speech. When he has been called to a town meeting, a group meeting, a gathering of his relatives, his guild, or of the royalty [i.e., a court proceeding], if he is asked as a witness, 'Come and tell, good man, what you know': If he doesn't know, he says, 'I don't know.' If he does know, he says, 'I know.' If he hasn't seen, he says, 'I haven't seen.' If he has seen, he says, 'I have seen.' Thus he doesn't consciously tell a lie for his own sake, for the sake of another, or for the sake of any reward. Abandoning divisive speech, he abstains from divisive speech. What he has heard here he does not tell there to break those people apart from these people here. What he has heard there he does not tell here to break these people apart from those people there. Thus reconciling those who have broken apart or cementing those who are united, he loves concord, delights in concord, enjoys concord, speaks things that create concord. Abandoning abusive speech, he abstains from abusive speech. He speaks words that are soothing to the ear, that are affectionate, that go to the heart, that are polite, appealing & pleasing to people at large. Abandoning idle chatter, he abstains from idle chatter. He speaks in season, speaks what is factual, what is in accordance with the goal, the Dhamma, and the Vinaya. He speaks words worth treasuring, seasonable, reasonable, circumscribed, connected with the goal. This is how cleansing with regard to speech is fourfold.

Và này Cunda, thế nào là tịnh hạnh về lời có bốn ? Ở đây, này Cunda có người đoạn tận nói láo, từ bỏ nói láo, đến chỗ tập hội hay đến chỗ chúng hội, hay đến giữa các thân tộc, hay đến giữa các tổ hợp, hay đến giữa các vương tộc, khi bị dẫn xuất làm chứng và được hỏi : "Này người kia, hãy nói những gì người biết". Nếu không biết, người ấy nói : "Tôi không biết". Nếu biết, người ấy nói : "Tôi biết". Hay nếu không thấy, người ấy nói : "Tôi không thấy". Nếu thấy, người ấy nói : "Tôi thấy". Như vậy lời nói của người ấy không trở thành cố ý vọng ngữ, hoặc nguyên nhân vì mình, hoặc nguyên nhân vì người, hoặc nguyên nhân vì một vài quyền lợi gì. Đoạn tận nói hai lưỡi, từ bỏ nói hai lưỡi, nghe điều gì ở chỗ này, không đi đến chỗ kia nói, để sanh chia rẽ ở những người này ; nghe điều gì ở chỗ kia, không đi nói với những người này, để sanh chia rẽ ở những người kia. Như vậy người ấy sống hòa hợp những kẻ ly gián, tăng trưởng những kẻ hòa hiệp, thích thú hòa hợp, nói những lời đưa đến hòa hợp. Đoạn tận lời nói độc ác, từ bỏ lời nói độc ác, những lời nói nhu hòa, êm tai, dễ thương, thông cảm đến tâm, tao nhã, đẹp lòng nhiều người, vui ý nhiều người, người ấy nói những lời như vậy. Đoạn tận lời nói phù phiếm, nói đúng thời, nói chân thật, nói có ý nghĩa, nói Pháp, nói Luật, nói những gì đáng được gìn giữ. Vì nói hợp thời, nên lời nói thuận lý, có mạch lạc, hệ thống, lợi ích. Như vậy, này Cunda, tịnh hạnh về lời nói có bốn.

And how is cleansing with regard to the mind threefold? There is the case where a certain person is not covetous. He does not covet the property of another, thinking, "O, if only what belongs to another were mine!" He is not malevolent at heart or destructive in his resolves. He thinks, "May these beings — free from animosity, free from oppression, and free from trouble — look after themselves with ease." He has right views and an unperverted outlook. He believes, "There is what is given, what is offered, what is sacrificed. There are fruits and results of good and bad actions. There is this world and the next world. There is mother and father. There are spontaneously reborn beings; there are priests and contemplatives who, living rightly and practicing rightly, proclaim this world and the next after having directly known and realized it for themselves." This is how cleansing with regard to the mind is threefold.

A X.176

Và này Cunda, thế nào là tịnh hạnh về ý có ba ? Ở đây, này Cunda, có người không tham ái, không tham lam tài vật kẻ khác, không nghĩ rằng : "Ôi ! Mong rằng mọi tài vật của người khác trở thành của mình". Không có sân tâm, khởi lên hại ý, hại niệm, nhưng nghĩ rằng : "Mong rằng những loài hữu tình này sống lo tự ngã, không thù hận, không nhiễm loạn, được an lạc". Có chánh kiến, không có tư tưởng điên đảo : "Có bố thí, có cúng thí, có tế lễ, các hành vi thiện ác, có kết quả dị thục, có đời này, có đời sau, có mẹ, có cha, có các loại hóa sanh, trong đời có các Sa-môn, Bà-la-môn chân chánh hành trì, chân chánh thành tựu, sau khi tự tri, tự chứng, lại tuyên bố cho đời này và cho đời sau". Như vậy, này Cunda, tịnh hạnh về ý có ba.

There are these five benefits in being virtuous, in being consummate in virtue. Which five? There is the case where a virtuous person, consummate in virtue, through not being heedless in his affairs amasses a great quantity of wealth... His good name is spread about... When approaching an assembly of nobles, priests, householders, or contemplatives, he does so unabashed and with assurance... He dies without becoming delirious... With the break-up of the body, after death, he reappears in a good destination, in the heavenly world. These are the five benefits in being virtuous, in being consummate in virtue.

D 16

Có năm sự lợi ích cho những ai giữ giới, sống theo giới luật. Thế nào là năm ?
Ở đây, người giữ giới, sống theo giới luật sẽ có tiền của dồi dào rất nhiều vì sống không phóng dật. Đó là sự lợi ích thứ nhất cho những ai giữ giới, sống theo giới luật.
Lại nữa, người giữ giới, sống theo giới luật được tiếng tốt đồn xa. Đó là sự lợi ích thứ hai cho những ai giữ giới, sống theo giới luật.
Lại nữa, người giữ giới, sống theo giới luật khi đi vào hội chúng nào, hoặc Sát Đế Lỵ, hoặc Bà-la-môn, hoặc gia chủ, hoặc Sa-môn, người ấy đi vào với tâm thần không sợ hãi, không bối rối. Đó là sự lợi ích thứ ba cho những ai giữ giới, sống theo giới luật.
Lại nữa, người giữ giới, sống theo giới luật sẽ chết với tâm hồn không rối loạn. Đó là sự lợi ích thứ tư cho những ai giữ giới, sống theo giới luật.
Lại nữa, người giữ giới, sống theo giới luật sau khi thân hoại mạng chung, sẽ được sanh vào thiện thú, thiên giới. Đó là sự lợi ích thứ năm cho những ai giữ giới, sống theo giới luật.

This is to be done by one skilled in aims
who wants to break through to the state of peace:
Be capable, upright, and straightforward,
easy to instruct, gentle, and not proud,
content and easy to support,
with few duties, living lightly,
with peaceful faculties, masterful,
modest, and no greed for supporters.

Do not do the slightest thing
that the wise would later censure.

Think: Happy and secure,
may all beings be happy at heart.
Whatever beings there may be,
weak or strong, without exception,
	long, large,
	middling, short,
	subtle, blatant,
	seen & unseen,
	near & far,
	born & seeking birth:
May all beings be happy at heart.

Let no one deceive another
or despise anyone anywhere,
or through anger or irritation
wish for another to suffer.

As a mother would risk her life
to protect her child, her only child,
even so should one cultivate
	a limitless heart
with regard to all beings.
With good will for the entire cosmos,
cultivate a limitless heart:
above, below, & all around,
unobstructed, without enmity or hate.
Whether standing, walking,
sitting, or lying down,
as long as one is alert,
one should be resolved on this mindfulness.
This is called a sublime abiding here & now.

Not taken with views,
but virtuous & consummate in vision,
having subdued desire for sensual pleasures,
	one never again will lie in the womb.

Sn 1.8

Vị thiện xảo mục đích,
Cần phải làm như sau:
Sau khi hiểu thông suốt,
Con đường an tịnh ấy,
Có khả năng, trực tánh,
Thật sự, khéo chân trực,
Dễ nói và nhu hòa,
Không có gì cao mạn.

Sống cảm thấy vừa đủ,
Nuôi sống thật dễ dàng,
Ít có sự rộn ràng,
Sống đạm bạc giản dị.
Các căn được tịnh lạc,
Khôn ngoan và thật trọng,
Không xông xáo gia đình,
Không tham ái, tham vọng.

Các sở hành của mình,
Không nhỏ nhen vụn vặt,
Khiến người khác có trí,
Có thể sanh chỉ trích.
Mong mọi loài chúng sanh,
Ðược an lạc, an ổn,
Mong họ chứng đạt được,
Hạnh phúc và an lạc.

Mong tất cả những ai,
Hữu tình có mạng sống,
Kẻ yếu hay kẻ mạnh,
Không bỏ sót một ai,
Kẻ dài hay kẻ lớn,
Trung, thấp, loài lớn, nhỏ.

Loài được thấy, không thấy,
Loài sống xa, không xa,
Các loài hiện đang sống,
Các loài sẽ được sanh,
Mong mọi loài chúng sanh
Sống hạnh phúc an lạc.

Mong rằng không có ai,
Lường gạt lừa dối ai,
Không có ai khinh mạn,
Tại bất cứ chỗ nào.
Không vì giận hờn nhau,
Không vì tưởng chống đối.
Lại có người mong muốn,
Làm đau khổ cho nhau.

Như tấm lòng người mẹ,
Ðối với con của mình,
Trọn đời lo che chở,
Con độc nhất mình sanh.
Cũng vậy, đối tất cả
Các hữu tình chúng sanh,
Hãy tu tập tâm ý,
Không hạn lượng rộng lớn.

Hãy tu tập từ tâm,
Trong tất cả thế giới,
Hãy tu tập tâm ý,
Không hạn lượng rộng lớn.
Phía trên và phía dưới,
Cũng vậy, cả bề ngang,
Không hạn chế, trói buộc,
Không hận, không thù địch.

Khi đứng, hay khi đi,
Khi ngồi, hay khi nằm,
Lâu cho đến khi nào,
Khi đang còn tỉnh thức,
Hãy an trú niệm này,
Nếp sống này như vậy,
Ðược đời đề cập đến,
Là nếp sống tối thượng.

Ai từ bỏ tà kiến,
Giữ giới, đủ chánh kiến,
Nhiếp phục được tham ái,
Ðối với các dục vọng,
Không còn phải tái sanh,
Ði đến thai tạng nữa.

Heaven [go up]

Blinded this world —
how few here see clearly!
Just as birds that have escaped from a net are
	few, few
are the people who make it to heaven.

Dhp 174

^^^^^

The Buddha: "Suppose that a Universal Monarch possessed the seven treasures [the treasure of a divine wheel, the treasure of an ideal jewel, the treasure of an ideal elephant, the treasure of an ideal horse, the treasure of an ideal wife, the treasure of an ideal steward, and the treasure of an ideal counselor] and the four forms of prowess [he is surpassingly attractive, he has a surpassingly long life, he is surpassingly free from illness, and he loves his subjects and is loved by them]. Now what do you think? Would he... experience pleasure and joy?"

The monks: "Yes, lord."

^^^^^

Then, taking a small stone, the size of his hand, the Blessed One said, "What do you think? Which is larger, this small stone that I have taken, the size of my hand, or the Himalayas, king of mountains?"

^^^^^

"It is minuscule, the small stone... It does not count beside the Himalayas, the king of mountains. It is not even a small fraction. There is no comparison."

^^^^^

<

"In the same way, the pleasure and joy that the Universal Monarch experiences on account of his seven treasures and four forms of prowess do not count beside the pleasures of heaven. They are not even a small fraction. There is no comparison."

— M 129

^^^^^

Drawbacks [go up]

Now what is the allure of sensuality? There are, monks, these five strings of sensuality. Which five? Forms cognizable via the eye — agreeable, pleasing, charming, endearing, fostering desire, enticing. Sounds cognizable via the ear... Aromas cognizable via the nose... Flavors cognizable via the tongue... Tactile sensations cognizable via the body — agreeable, pleasing, charming, endearing, fostering desire, enticing. Now whatever pleasure or joy arises in dependence on these five strings of sensuality, that is the allure of sensuality.

Sự nguy hiểm. Thế nào là vị ngọt các dục? Này các Tỷ-kheo, có năm pháp tăng trưởng dục này: Các sắc pháp do nhãn căn nhận thức, khả ái, khả lạc, khả ý, khả hỷ, tương ứng với dục, hấp dẫn, các tiếng do nhĩ căn nhận thức... các hương do tỷ căn nhận thức... các vị do thiệt căn nhận thức... các xúc do thân căn nhận thức, khả ái, khả lạc, khả ý, khả hỷ, tương ứng với dục, hấp dẫn. Này các Tỷ-kheo, có năm pháp tăng trưởng dục như vậy. Này các Tỷ-kheo, y cứ vào năm pháp tăng trưởng dục này, có lạc hỷ khởi lên, như vậy là vị ngọt các dục.

And what is the drawback of sensuality? There is the case where, on account of the occupation by which a clansman makes a living — whether checking or accounting or calculating or plowing or trading or cattle tending or archery or as a king's man, or whatever the occupation may be — he faces cold; he faces heat; being harassed by mosquitoes, flies, wind, sun, and creeping things; dying from hunger and thirst.

Và thế nào là sự nguy hiểm các dục? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có thiện nam tử nuôi sống với nghề nghiệp, như đếm ngón tay, như tính toán, như ước toán, như làm ruộng, như buôn bán, như chăn bò, như bắn cung, như làm công cho vua, như làm một nghề nào khác. Người ấy phải chống đỡ lạnh, phải chống đỡ nóng, phải chịu đựng sự xúc chạm của ruồi, muỗi, gió, sức nóng, mặt trời, các loài bò sát, bị chết đói chết khát.

Now this drawback in the case of sensuality, this mass of stress visible here and now, has sensuality for its reason, sensuality for its source, sensuality for its cause, the reason being simply sensuality.

Này các Tỷ-kheo, như vậy là sự nguy hiểm các dục, thiết thực hiện tại, thuộc khổ uẩn, lấy dục làm nhân, lấy dục làm duyên, là nguồn gốc của dục, là nguyên nhân của dục.

If the clansman gains no wealth while thus working and striving and making effort, he sorrows, grieves and laments, beats his breast, becomes distraught: 'My work is in vain, my efforts are fruitless!' Now this drawback too in the case of sensuality, this mass of stress visible here and now, has sensuality for its reason...

Nếu thiện nam tử ấy nỗ lực như vậy, tinh cần như vậy, tinh tấn như vậy, nhưng các tài sản ấy không được đến tay mình, vị ấy than vãn, buồn phiền khóc than, đấm ngực, mê man bất tỉnh: "Ôi! Sự nỗ lực của ta thật sự là vô ích, sự tinh cần của ta thật sự không kết quả". Này các Tỷ-kheo, như vậy, là sự nguy hiểm các dục, thiết thực hiện tại, thuộc khổ uẩn, lấy dục làm nhân, lấy dục làm duyên, là nguồn gốc của dục, là nguyên nhân của dục.

If the clansman gains wealth while thus working and striving and making effort, he experiences pain and distress in protecting it: 'How shall neither kings nor thieves make off with my property, nor fire burn it, nor water sweep it away nor hateful heirs make off with it?' And as he thus guards and watches over his property, kings or thieves make off with it, or fire burns it, or water sweeps it away, or hateful heirs make off with it. And he sorrows, grieves and laments, beats his breast, becomes distraught: 'What was mine is no more!' Now this drawback too in the case of sensuality, this mass of stress visible here and now, has sensuality for its reason...

Nếu thiện nam tử ấy nỗ lực như vậy, tinh cần như vậy, tinh tấn như vậy, và các tài sản ấy được đến tay mình, vì phải hộ trì các tài sản ấy, vị ấy cảm thọ sự đau khổ, ưu tư: "Làm sao các vua chúa khỏi cướp đoạt chúng, làm sao trộm cướp khỏi cướp đoạt chúng, làm sao lửa khỏi đốt cháy, nước khỏi cuốn trôi, hay các kẻ thừa tự không xứng đáng khỏi cướp đoạt chúng?" Dầu vị ấy hộ trì như vậy, giữ gìn như vậy, vua chúa vẫn cướp đoạt các tài sản ấy, trộm cướp vẫn cướp đoạt, lửa vẫn đốt cháy, nước vẫn cuốn trôi hay các kẻ thừa tự không xứng đáng vẫn cướp đoạt chúng. Vị ấy than vãn, buồn phiền, khóc than, đấm ngực, mê man bất tỉnh: "Cái đã thuộc của ta, nay ta không có nữa". Này các Tỷ-kheo, như vậy là sự nguy hiểm các dục, thiết thực hiện tại, thuộc khổ uẩn, lấy dục làm nhân, lấy dục làm duyên, là nguồn gốc của dục, là nguyên nhân của dục.

Furthermore, it is with sensuality for the reason, sensuality for the source, sensuality for the cause, the reason being simply sensuality, that kings quarrel with kings, nobles with nobles, priests with priests, householders with householders, mother with child, child with mother, father with child, child with father, brother with brother, sister with sister, brother with sister, sister with brother, friend with friend. And then in their quarrels, brawls, and disputes, they attack one another with fists or with clods or with sticks or with knives, so that they incur death or deadly pain. Now this drawback too in the case of sensuality, this mass of stress visible here and now, has sensuality for its reason...

Lại nữa, do dục làm nhân, do dục làm duyên, do dục làm nguyên nhân, do chính dục làm nhân, vua tranh đoạt với vua, Sát-đế-lỵ tranh đoạt với Sát-đế-lỵ, Bà-la-môn tranh đoạt với Bà-la-môn, gia chủ tranh đoạt với gia chủ, mẹ tranh đoạt với con, con tranh đoạt với mẹ, cha tranh đoạt với con, con tranh đoạt với cha, anh em tranh đoạt với anh em, anh tranh đoạt với chị, chị tranh đoạt với anh, bạn bè tranh đoạt với bạn bè. Khi họ đã dấn mình vào tranh chấp, tranh luận, tranh đoạt; họ công phá nhau bằng tay; họ công phá nhau bằng đá; họ công phá nhau bằng gậy; họ công phá nhau bằng kiếm. Ở đây họ đi đến tử vong, đi đến sự đau khổ gần như tử vong. Này các Tỷ-kheo, như vậy là sự nguy hiểm các dục, thiết thực hiện tại, thuộc khổ uẩn, lấy dục làm nhân, lấy dục làm duyên, là nguồn gốc của dục, thiết thực hiện tại, thuộc khổ uẩn, lấy dục làm nhân, lấy dục làm duyên, là nguồn gốc của dục, là nguyên nhân của dục.

Furthermore, it is with sensuality for the reason, sensuality for the source... that (men), taking swords and shields and buckling on bows and quivers, charge into battle massed in double array while arrows and spears are flying and swords are flashing; and there they are wounded by arrows and spears, and their heads are cut off by swords, so that they incur death or deadly pain. Now this drawback too in the case of sensuality, this mass of stress visible here and now, has sensuality for its reason...

Lại nữa, do dục làm nhân, do dục làm duyên, do dục làm nguyên nhân, do chính dục làm nhân, họ cầm mâu và thuẫn, họ đeo cung và tên, họ dàn trận hai mặt, và tên được nhắm bắn nhau, đao được quăng ném nhau, kiếm được vung chém nhau. Họ bắn đâm nhau bằng tên, họ quăng đâm nhau bằng đao, họ chặt đầu nhau bằng kiếm. Ở đây họ đi đến tử vong, đi đến sự đau khổ gần như tử vong. Này các Tỷ-kheo, như vậy là sự nguy hiểm các dục, thiết thực hiện tại, thuộc khổ uẩn, lấy dục làm nhân, lấy dục làm duyên, là nguồn gốc của dục, là nguyên nhân của dục.

Furthermore, it is with sensuality for the reason, sensuality for the source... that (men), taking swords and shields and buckling on bows and quivers, charge slippery bastions while arrows and spears are flying and swords are flashing; and there they are splashed with boiling cow dung and crushed under heavy weights, and their heads are cut off by swords, so that they incur death or deadly pain. Now this drawback too in the case of sensuality, this mass of stress visible here and now, has sensuality for its reason, sensuality for its source, sensuality for its cause, the reason being simply sensuality.

Lại nữa, này các Tỷ-kheo, do dục làm nhân, do dục làm duyên, do dục làm nguyên nhân, do chính dục làm nhân, họ cầm mâu và thuẩn, họ đeo cung và tên, họ công phá thành quách mới trét vôi hồ và tên được nhắm bắn nhau, đao được quăng ném nhau, kiếm được vung chém nhau. Ở đây, họ bắn đâm nhau bằng tên, họ quăng đâm nhau bằng đao, họ đổ nước phân sôi, họ đè bẹp nhau bằng đá, họ chặt đầu nhau bằng kiếm. Ở đây họ đi đến tử vong, đi đến sự đau khổ gần như tử vong. Này các Tỷ-kheo, như vậy là sự nguy hiểm các dục, thiết thực hiện tại, thuộc khổ uẩn, lấy dục làm nhân, lấy dục làm duyên, là nguồn gốc của dục, là nguyên nhân của dục.

And what is the emancipation from sensuality? Whatever is the subduing of passion and desire, the abandoning of passion and desire for sensuality, that is the emancipation from sensuality.

M 13

Này các Tỷ-kheo, thế nào là sự xuất ly các dục. Này các Tỷ-kheo, đây là sự điều phục dục tham đối với các dục, sự đoạn trừ dục tham, như vậy là sự xuất ly các dục.

Which do you think is greater: the tears you have shed while transmigrating and wandering this long time — crying and weeping from being joined with what is displeasing, from being separated from what is pleasing — or the water in the four great oceans?... This is the greater: The tears you have shed... Why is that? From an inconceivable beginning comes transmigration. A beginning point is not evident, although beings hindered by ignorance and fettered by craving are transmigrating and wandering on. Long have you thus experienced stress, experienced pain, experienced loss, swelling the cemeteries — long enough to become disenchanted with all conditioned things, enough to become dispassionate, enough to be released.

S XV.3

Này các Tỷ-kheo, cái gì là nhiều hơn? Dòng nước mắt tuôn chảy do các Ông than van, khóc lóc, phải hội ngộ với những gì không ưa, phải biệt ly với những gì mình thích, khi các Ông phải lưu chuyển luân hồi trong thời gian dài này hay là nước trong bốn biển lớn?... Cái này là nhiều hơn, này các Tỷ-kheo, tức là dòng nước mắt tuôn chảy... Vì sao? Vô thỉ là luân hồi này, này các Tỷ-kheo , khởi điểm không thể nêu rõ đối với sự lưu chuyển luân hồi của các chúng sanh bị vô minh che đậy, bị tham ái trói buộc. Cho đến như vậy, này các Tỷ-kheo, là vừa đủ để các Ông nhàm chán, là vừa đủ để các Ông từ bỏ, là vừa đủ để các Ông giải thoát đối với tất cả các hành.

Renunciation [go up]

Janussonin: I hold that there is no one who, subject to death, is not afraid or in terror of death.

Janussonin - Thưa Tôn giả Gotama, tôi nói như sau, tôi thấy như sau: "Không có một ai bản tánh bị chết mà không sợ hãi, không rơi vào run sợ, khi nghĩ đến chết".

The Buddha: There are those who, subject to death, are afraid and in terror of death. And there are those who, subject to death, are not afraid or in terror of death.

Đức Thế Tôn - Này Bà-la-môn, có người bản tánh bị chết, sợ hãi, rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết. Nhưng này Bà-la-môn, có người bản tánh bị chết, không sợ hãi, không rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết.

And who is the person who, subject to death, is afraid and in terror of death? There is the case of the person who has not abandoned passion, desire, fondness, thirst, fever, and craving for sensuality. When he comes down with a serious disease, the thought occurs to him, "O, those beloved sensual pleasures will be taken from me, and I will be taken from them!" He grieves and is tormented, weeps, beats his breast, and grows delirious...

Và này Bà-la-môn, thế nào là người bản tánh bị chết, sợ hãi, rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết? Ở đây, này Bà-la-môn, có người không ly tham đối với các dục, không ly ham muốn, không ly luyến ái, không ly khát ái, không ly nhiệt não, không ly tham ái. Rồi một chứng bệnh trầm trọng khởi lên cho người ấy. Người ấy suy nghĩ như sau: "Thật sự các dục khả ái sẽ bỏ ta", hay "Ta sẽ từ bỏ các dục khả ái". Người ấy sầu muộn, than vãn, khóc lóc, đập ngực, rơi vào bất tỉnh.

Furthermore, there is the case of the person who has not abandoned passion, desire, fondness, thirst, fever, and craving for the body. When he is touched by a serious disease, the thought occurs to him, "O, my beloved body will be taken from me, and I will be taken from my body!" He grieves and is tormented, weeps, beats his breast, and grows delirious...

Lại nữa, này Bà-la-môn, ở đây có người không ly tham đối với thân ... Rồi một chứng bệnh trầm trọng khởi lên cho người ấy. Người ấy suy nghĩ như sau: "Thật sự thân khả ái sẽ bỏ ta", hay "Ta sẽ từ bỏ thân khả ái". Người ấy sầu muộn, than vãn, khóc lóc, đập ngực, rơi vào bất tỉnh.

Furthermore, there is the case of the person who has not done what is good, has not done what is skillful, has not given protection to those in fear, and instead has done what is evil, savage, and cruel. When he comes down with a serious disease, the thought occurs to him, "...After death I am headed for the destination of those who have done what is evil, savage, and cruel." He grieves and is tormented, weeps, beats his breast, and grows delirious...

Lại nữa, này Bà-la-môn, ở đây có hạng người không làm điều lành, không làm điều thiện, không che chở kẻ sợ hãi, làm điều ác, làm điều hung bạo, làm điều phạm pháp. Rồi một chứng bệnh trầm trọng khởi lên cho người ấy. Người ấy suy nghĩ như sau: "... Tại sanh thú nào mà những người không làm điều lành, không làm điều thiện, không che chở kẻ sợ hãi, làm điều ác, làm điều hung bạo, làm điều phạm pháp, đi đến sau khi chết, ta đi đến sanh thú ấy ". Người ấy sầu muộn, than vãn, khóc lóc, đập ngực, rơi vào bất tỉnh.

Furthermore, there is the case of the person in doubt and perplexity, who has not arrived at certainty with regard to the True Dhamma. When he comes down with a serious disease, the thought occurs to him, "How doubtful and perplexed I am! I have not arrived at any certainty with regard to the True Dhamma!" He grieves and is tormented, weeps, beats his breast, and grows delirious. This is another person who, subject to death, is afraid and in terror of death.

Lại nữa, này Bà-la-môn, ở đây có hạng người nghi ngờ do dự, không đi đến kết luận đối với diệu pháp. Rồi một chứng bệnh trầm trọng khởi lên cho người ấy. Người ấy suy nghĩ như sau: "Thật sự ta có nghi ngờ do dự, không đi đến kết luận đối với diệu pháp". Người ấy sầu muộn, than vãn, khóc lóc, đập ngực, rơi vào bất tỉnh.

And who is the person who is not afraid or in terror of death? There is the case of the person who has abandoned passion, desire, fondness, thirst, fever, and craving for sensuality... who has abandoned passion, desire, fondness, thirst, fever, and craving for the body... who has done what is good, what is skillful, has given protection to those in fear, and has not done what is evil, savage, or cruel... who has no doubt or perplexity, who has arrived at certainty with regard to the True Dhamma. When he comes down with a serious disease... he does not grieve, is not tormented, does not weep or beat his breast or grow delirious. This is another person who, subject to death, is not afraid or in terror of death.

A IV.184

Và này Bà-la-môn, thế nào là người bản tánh bị chết, không sợ hãi, không rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết? Ở đây, này Bà-la-môn, có hạng người ly tham đối với các dục, ly ham muốn, ly luyến ái... ở đây có người ly tham đối với thân, ly ham muốn, ly luyến ái ... ở đây có hạng người không làm ác, không làm điều hung bạo, không làm điều phạm pháp, làm điều lành, làm điều thiện, có che chở kẻ sợ hãi... ở đây có hạng người không có nghi ngờ, không có do dự, đi đến kết luận đối với diệu pháp. Rồi một khi chứng bệnh trầm trọng khởi lên cho người ấy, người ấy không có sầu muộn, không có than vãn, không có khóc lóc, không có đập ngực, không rơi vào bất tỉnh. Này Bà-la-môn, đây là hạng người bản tánh bị chết, không sợ hãi, không rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết.

Now at that time, Ven. Bhaddiya Kaligodha, on going to a forest, to the foot of a tree, or to an empty dwelling, would repeatedly exclaim, "What bliss! What bliss!" Many monks heard him... repeatedly exclaim, "What bliss! What bliss!" and on hearing him, the thought occurred to them, "There's no doubt but that Ven. Bhaddiya Kaligodha is not enjoying the holy life, for when he was a householder he enjoyed royal pleasures, so that now, on recollecting them, he is exclaiming, "What bliss! What bliss!" They went to the Blessed One... and told him... and he told a certain monk, "Come, monk. In my name, call Bhaddiya, saying, "The Teacher calls you, my friend."

"Yes, lord," the monk answered...

Lúc bấy giờ, Tôn giả Bhaddiya, con của Kàligodha, đi đến khu rừng, đi đến gốc cây, đi đến ngôi nhà trống, và thường hay nói lên lời cảm hứng: "Ôi, an lạc thay! Ôi, an lạc thay! " Một số đông Tỳ-kheo nghe Tôn giả Bhaddiya, thường nói lên lời cảm hứng: "Ôi, an lạc thay! Ôi an lạc thay! ". Nghe vậy, các Tỷ-kheo ấy suy nghĩ: "Không gì nghi ngờ chư Hiền, Tôn giả Bhaddiya con của Kàlighodha sống Phạm hạnh không có hoan hỷ, vì trước khi còn ở gia đình được hưởng an lạc nhà vua, vì Tôn giả nhớ đến an lạc ấy, nên thường nói lên lời cảm hứng: "Ôi, an lạc thay! Ôi, an lạc thay! " Rồi một số đông Tỷ-kheo đi đến Thế Tôn, các Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn: - Bạch Thế Tôn, Tôn giả Bhaddiya con của Kàligodha nói lên lời cảm hứng: "Ôi, an lạc thay! Ôi, an lạc thay! "... không có nghi ngờ gì nữa.. sống Phạm hạnh không có hoan hỷ. Rồi Thế Tôn bảo một Tỳ-kheo: - Này Tỳ-kheo, hãy đi và nhân danh Ta nói với Bhaddiya: "Thưa hiền giả, bậc Ðạo sư gọi Hiền giả! ".

- Thưa vâng bạch Thế Tôn. Vị Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn.

Then Ven. Bhaddiya went to where the Blessed One was staying and, on arrival, having bowed down, sat to one side. As he was sitting there, the Blessed One said to him, "Is it true, Bhaddiya that, on going to a forest, to the foot of a tree, or to an empty dwelling, you repeatedly exclaim, "What bliss! What bliss!"

"Yes, lord."

Tôn giả Bhaddiya, đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói với Tôn giả Bhaddiya, con của Kàligodha, đang ngồi một bên: - Có thật chăng, này Bhaddiya, Thầy đi đến khu rừng, thường nói lên lời cảm hứng "... Ôi, an lạc thay! Ôi, an lạc thay! "?

- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

"What do you have in mind that you repeatedly exclaim, "What bliss! What bliss!"

"Before, when I was a householder, maintaining my reign, I had guards posted within and without the royal apartments, within and without the city, within and without the countryside. But even though I was thus guarded, thus protected, I dwelled in fear — agitated, distrustful, and afraid. But now, on going alone to a forest, to the foot of a tree, or to an empty dwelling, I dwell without fear, unagitated, confident, and unafraid — unconcerned, unruffled, my wants satisfied, with my mind like a wild deer. This is what I have in mind that I repeatedly exclaim, "What bliss! What bliss!"

Ud 2.10

- Do thấy mục đích gì Thầy đi đến khu rừng, thường nói lên lời cảm hứng "... Ôi, an lạc thay! Ôi, an lạc thay! "?

- Bạch Thế Tôn, thuở trước khi còn ở trong gia đình, được hưởng an lạc nhà vua, trong nội cung có đặt người khéo bảo vệ, ngoại nội cung có đặt người khéo bảo vệ; trong thành nội có đặt người khéo bảo vệ, ngoài thành có đặt người khéo bảo vệ. Bạch Thế Tôn, con được bảo vệ phòng giữ như vậy, nhưng con vẫn sống sợ hãi, hồi hộp, run sợ, hoảng sợ. Nhưng nay con đi đến khu rừng, đi đến gốc cây, đi đến ngôi nhà trống, con sống một mình, con sống không sợ hãi, không hồi hộp, không run sợ, không hoảng sợ, không rộn ràng, không hốt hoảng, lắng dịu, nhẹ nhàng, tâm như con thú rừng. Bạch Thế Tôn, do thấy mục đích như vậy, nên con khi đi đến khu rừng, con thường nói lên lời cảm hứng " Ôi an lạc thay! Ôi an lạc thay! ".

The Four Noble Truths [go up]

Now this, monks, is the noble truth of stress: Birth is stressful, aging is stressful, death is stressful; sorrow, lamentation, pain, distress, and despair are stressful; association with the unbeloved is stressful, separation from the loved is stressful, not getting what is wanted is stressful. In short, the five aggregates for sustenance are stressful.

Đây là Thánh đế về Khổ, này các Tỷ-kheo. Sanh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ, sầu, bi, khổ, ưu, não là khổ, oán gặp nhau là khổ, ái biệt ly là khổ, cầu không được là khổ. Tóm lại, năm thủ uẩn là khổ.

And this, monks, is the noble truth of the origination of stress: the craving that makes for further becoming — accompanied by passion and delight, relishing now here and now there — i.e., craving for sensual pleasure, craving for becoming, craving for non-becoming.

Đây là Thánh đế về Khổ tập, này các Tỷ-kheo, chính là ái này đưa đến tái sanh, câu hữu với hỷ và tham, tìm cầu hỷ lạc chỗ này chỗ kia. Tức là dục ái, hữu ái, phi hữu ái.

And this, monks, is the noble truth of the cessation of stress: the remainderless fading and cessation, renunciation, relinquishment, release and letting go of that very craving.

Đây là Thánh đế về Khổ diệt, này các Tỷ-kheo, chính là ly tham, đoạn diệt, không có dư tàn khát ái ấy, sự quăng bỏ, từ bỏ, giải thoát, không có chấp trước.

And this, monks, is the noble truth of the way leading to the cessation of stress: precisely this Noble Eightfold Path — right view, right intention, right speech, right action, right livelihood, right effort, right mindfulness, right concentration.

Đây là Thánh đế về Con Đường đưa đến Khổ diệt, này các Tỷ-kheo, chính là con đường Thánh đạo Tám ngành, tức là chánh tri kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định.

Vision arose, insight arose, discernment arose, knowledge arose, illumination arose within me with regard to things never heard before: 'This is the noble truth of stress'...'This noble truth of stress is to be comprehended'...'This noble truth of stress has been comprehended'...

Đây là Thánh đế về Khổ, này các Tỷ-kheo, đối với các pháp từ trước Ta chưa từng được nghe, nhãn sanh, trí sanh, tuệ sanh, minh sanh, quang sanh. Đây là Thánh đế về Khổ cần phải liễu tri, này các Tỷ-kheo, đối với các pháp, từ trước Ta chưa từng nghe, nhãn sanh, trí sanh, tuệ sanh, minh sanh, quang sanh. Đây là Thánh đế về Khổ đã được liễu tri, này các Tỷ-kheo, đối với các pháp từ trước Ta chưa từng được nghe, nhãn sanh, trí sanh, tuệ sanh, minh sanh, quang sanh.

'This is the noble truth of the origination of stress'...'This noble truth of the origination of stress is to be abandoned'...'This noble truth of the origination of stress has been abandoned'...

Đây là Thánh đế về Khổ tập, này các Tỷ-kheo, đối với các pháp từ trước Ta chưa từng được nghe, nhãn sanh, trí sanh, tuệ sanh, minh sanh, quang sanh. Đây là Thánh đế về Khổ tập cần phải liễu tri, này các Tỷ-kheo, đối với các pháp, từ trước Ta chưa từng nghe, nhãn sanh, trí sanh, tuệ sanh, minh sanh, quang sanh. Đây là Thánh đế về Khổ tập đã được liễu tri, này các Tỷ-kheo, đối với các pháp từ trước Ta chưa từng được nghe, nhãn sanh, trí sanh, tuệ sanh, minh sanh, quang sanh.

'This is the noble truth of the cessation of stress'...'This noble truth of the cessation of stress is to be directly experienced'...'This noble truth of the cessation of stress has been directly experienced'...

Đây là Thánh đế về Khổ diệt, này các Tỷ-kheo, đối với các pháp từ trước Ta chưa từng được nghe, nhãn sanh, trí sanh, tuệ sanh, minh sanh, quang sanh. Đây là Thánh đế về Khổ diệt cần phải liễu tri, này các Tỷ-kheo, đối với các pháp, từ trước Ta chưa từng nghe, nhãn sanh, trí sanh, tuệ sanh, minh sanh, quang sanh. Đây là Thánh đế về Khổ diệt đã được liễu tri, này các Tỷ-kheo, đối với các pháp từ trước Ta chưa từng được nghe, nhãn sanh, trí sanh, tuệ sanh, minh sanh, quang sanh.

'This is the noble truth of the way leading to the cessation of stress'...'This noble truth of the way leading to the cessation of stress is to be developed'...'This noble truth of the way leading to the cessation of stress has been developed.'

Đây là Thánh đế về Con Đường đưa đến khổ diệt, này các Tỷ-kheo, đối với các pháp từ trước Ta chưa từng được nghe, nhãn sanh, trí sanh, tuệ sanh, minh sanh, quang sanh. Đây là Thánh đế về Con Đường đưa đến khổ diệt cần phải liễu tri, này các Tỷ-kheo, đối với các pháp, từ trước Ta chưa từng nghe, nhãn sanh, trí sanh, tuệ sanh, minh sanh, quang sanh. Đây là Thánh đế về Con Đường đưa đến khổ diệt đã được liễu tri, này các Tỷ-kheo, đối với các pháp từ trước Ta chưa từng được nghe, nhãn sanh, trí sanh, tuệ sanh, minh sanh, quang sanh.

And, monks, as long as this knowledge and vision of mine — with its three rounds and twelve permutations concerning these four noble truths as they actually are — was not pure, I did not claim to have directly awakened to the unexcelled right self-awakening... But as soon as this knowledge and vision of mine — with its three rounds and twelve permutations concerning these four noble truths as they actually are — was truly pure, then did I claim to have directly awakened to the unexcelled right self-awakening... The knowledge and vision arose in me: 'Unshakable is my release. This is the last birth. There is now no further becoming.'

S LVI.11

Cho đến khi nào, này các Tỷ-kheo, trong bốn Thánh đế này, với ba chuyển và mười hai hành tướng như vậy, tri kiến như thật không khéo thanh tịnh ở nơi Ta; thời này các Tỷ-kheo, cho đến khi ấy, trong thế giới này với Thiên giới, Ma giới, Phạm thiên giới, với quần chúng Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên và loài Người, Ta không chứng tri đã chánh giác vô thượng Chánh Đẳng Giác. Và cho đến khi nào, này các Tỷ-kheo, trong bốn Thánh đến này, với ba chuyển và mười hai hành tướng như vậy, tri kiến như thật đã được khéo thanh tịnh ở nơi Ta; cho đến khi ấy, này các Tỷ-kheo, trong thế giới này với Thiên giới, Ma giới, Phạm thiên giới, với quần chúng Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên và loài Người, Ta mới chứng tri đã chánh giác vô thượng Chánh Đẳng Giác. Tri kiến khởi lên nơi Ta: "Bất động là tâm giải thoát của Ta. Đây là đời sống cuối cùng, nay không còn tái sanh nữa".

The First Truth

I have heard that on one occasion the Blessed One was staying at Varanasi, in the Game Refuge at Isipatana. There he addressed the group of five monks:

Tôi nghe như vầy: Một thời Thế Tôn ở Bàrànasi (Ba-la-nại), tại Isìpatana (Chư Tiên đọa xứ), vườn Lộc Uyển. Ở đây Thế Tôn nói với đoàn năm vị Tỷ-kheo:

'Physical form, monks, is not the self. If physical form were the self, this physical form (body) would not lend itself to dis-ease. One could get physical form to be like this and not be like that. But precisely because physical form is not the self, it lends itself to dis-ease. And one cannot get physical form to be like this and not be like that.

Sắc, này các Tỷ-kheo, là vô ngã. Này các Tỷ-kheo, nếu sắc là ngã, thời sắc không thể đi đến bệnh hoạn và có thể được các sắc như sau: "Mong rằng sắc của tôi là như thế này! Mong rằng sắc của tôi chẳng phải như thế này!" Và này các Tỷ-kheo, vì sắc là vô ngã. Do vậy sắc đi đến bệnh hoạn, và không thể có được các sắc: "Mong rằng sắc của tôi như thế này! Mong rằng sắc của tôi chẳng phải như thế này!"

'Feeling is not the self... Perception is not the self... Mental fabrications are not the self...

-Thọ, này các Tỷ-kheo, là vô ngã... -Tưởng là vô ngã, ... -Các hành là vô ngã, ...

'Consciousness is not the self. If consciousness were the self, this consciousness would not lend itself to dis-ease. One could get consciousness to be like this and not be like that. But precisely because consciousness is not the self, it lends itself to dis-ease. And one cannot get consciousness to be like this and not be like that.

Thức là vô ngã, này các Tỷ-kheo, nếu thức là ngã, thời thức không thể đi đến bệnh hoạn, và có thể có được thức như sau: "Mong rằng thức của tôi như thế này! Mong rằng thức của tôi chẳng phải như thế này!" Và này các Tỷ-kheo, vì thức là vô ngã. Do vậy, thức đi đến bệnh hoạn, và không có thể có được thức: "Mong rằng thức của tôi như thế này! Mong rằng thức của tôi chẳng phải như thế này!"

'What do you think, monks — Is physical form constant or inconstant?' — 'Inconstant, Lord.' — 'And whatever is inconstant: Is it easeful or stressful?' — 'Stressful, Lord.' — 'And is it right to assume with regard to whatever is inconstant, stressful, subject to change, that "This is mine. This is my self. This is what I am"?' — 'No, Lord.'

Các ông nghĩ thế nào, này các Tỷ kheo, sắc là thường hay vô thường? - Là vô thường, bạch Thế Tôn. - Cái gì vô thường là khổ hay lạc? - Là khổ, bạch Thế Tôn. - Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, có hợp lý chăng khi quán cái ấy là: "Cái này là của tôi. Cái này là tôi. Cái này là tự ngã của tôi"? - Thưa không, bạch Thế Tôn.

'...Is feeling constant or inconstant?... Is perception constant or inconstant?... Are mental fabrications constant or inconstant?...

- "Thọ là thường hay vô thường?"... " Tưởng là thường hay vô thường?"... "Hành là thường hay vô thường?"....

'Is consciousness constant or inconstant?' — 'Inconstant, Lord.' — 'And whatever is inconstant: Is it easeful or stressful?' — 'Stressful, Lord.' — 'And is it right to assume with regard to whatever is inconstant, stressful, subject to change, that "This is mine. This is my self. This is what I am"?' — 'No, Lord.'

-"Thức là thường hay vô thường?" - "Là vô thường, bạch Thế Tôn." - "Cái gì vô thường là khổ hay lạc?" - "Là khổ, bạch Thế Tôn." - "Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, có hợp lý chăng khi quán cái ấy là: "Cái này là của tôi. Cái này là tôi. Cái này là tự ngã của tôi"? - "Thưa không, bạch Thế Tôn."

'Thus, monks, any physical form whatsoever — past, future, or present; internal or external; blatant or subtle, common or sublime, far or near: every physical form — is to be seen as it actually is with right discernment as: "This is not mine. This is not my self. This is not what I am."

Do vậy, này các Tỷ kheo , phàm có thân gì thuộc quá khứ, vị lai, hoặc hiện tại; hoặc liệt hay thắng; hoặc nội hay ngoại; hoặc thô hay tế; xa hay gần: Phàm thức phải được thấy như chơn: " Không phải là ta, không phải của ta, không phải tự ngã của ta."

'Any feeling whatsoever... Any perception whatsoever... Any mental fabrications whatsoever...

-Phàm xúc nào,..... -Phàm tưởng nào, .... -Phàm các hành .....

'Any consciousness whatsoever — past, future, or present; internal or external; blatant or subtle, common or sublime, far or near: every consciousness — is to be seen as it actually is with right discernment as: "This is not mine. This is not my self. This is not what I am."

Phàm có thức gì thuộc quá khứ, vị lai, hoặc hiện tại; hoặc liệt hay thắng; hoặc nội hay ngoại; hoặc thô hay tế; xa hay gần: Phàm thức phải được thấy như chơn: " Không phải là ta, không phải của ta, không phải tự ngã của ta."

'Seeing thus, the instructed noble disciple grows disenchanted with the body, disenchanted with feeling, disenchanted with perception, disenchanted with mental processes, and disenchanted with consciousness. Disenchanted, he grows dispassionate. Through dispassion, he is released. With release, there is the knowledge, "Released." He discerns that "Birth is ended, the holy life fulfilled, the task done. There is nothing further for this world."'

Do thấy vậy, vị Đa văn Thánh đệ tử yếm ly thân, yếm ly xúc, yếm ly tưởng, yếm ly các hành, yếm ly thức. Do yếm ly, vị ấy ly tham. Do ly tham, vị ấy giải thoát. Trong sự giải thoát là sự hiểu biết : "Ta đã được giải thoát ". Và vị ấy biết : "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, các việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa".

That is what the Blessed One said. Glad at heart, the group of five monks delighted at his words. And while this explanation was being given, the hearts of the group of five monks, through not clinging (not being sustained), were released from the mental fermentations.

S XXII.59

Thế Tôn thuyết như vậy. Nhóm năm vị Tỷ-kheo hoan hỷ, tín thọ lời Thế Tôn dạy. Trong khi lời dạy này được nói lên, tâm của nhóm năm vị Tỷ-kheo được giải thoát khỏi các lậu hoặc, không có chấp thủ.

The Second and Third Truths

If this sticky, uncouth craving
overcomes you in the world,
your sorrows grow like wild grass
	after rain.

If, in the world, you overcome
this sticky, uncouth craving,
sorrows roll off you,
	like water beads
	off a lotus.

Dhp 335-336

^^^^

If its root remains
undamaged and strong,
a tree, even if cut,
will grow back.
So too if latent craving
is not rooted out,
this suffering returns
	again
	&
	again.

Dhp 338

^^^^^

And what is the noble method that is rightly seen and rightly ferreted out by discernment? There is the case where a noble disciple notices:

When this is, that is.

When this is, that is.
From the arising of this comes the arising of that.
When this isn't, that isn't.
From the cessation of this comes the cessation of that.

Thế nào Thánh chánh lý được khéo thấy, khéo thể nhập với trí tuệ ? Ở đây, vị Thánh đệ tử quán sát như sau :

Do cái này có, cái kia có.

Do cái này sanh, cái kia sanh.

Do cái này không có, cái kia không có.

Do cái này diệt, cái kia diệt.

In other words:

From ignorance as a requisite condition come fabrications.
From fabrications as a requisite condition comes consciousness.
From consciousness as a requisite condition comes name-and-form.
From name-and-form as a requisite condition come the six sense media.
From the six sense media as a requisite condition comes contact.
From contact as a requisite condition comes feeling.
From feeling as a requisite condition comes craving.
From craving as a requisite condition comes clinging/sustenance.
From clinging/sustenance as a requisite condition comes becoming.
From becoming as a requisite condition comes birth.
From birth as a requisite condition, then old age and death, sorrow, lamentation, pain, distress, and despair come into play. Such is the origination of this entire mass of stress and suffering.

Tức là:

Do duyên vô minh, có các hành.
Do duyên các hành có thức.
Do duyên thức có danh sắc.
Do duyên danh sắc có sáu nhập.
Do duyên sáu nhập có xúc.
Do duyên xúc có thọ.
Do duyên thọ có ái.
Do duyên ái có thủ.
Do duyên thủ có hữu.
Do duyên hữu có sanh.
Do duyên sanh có già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não.
Như vậy, là sự tập khởi của toàn bộ khổ uẩn này.

Now from the remainderless fading and cessation of that very ignorance comes the cessation of fabrications. From the cessation of fabrications comes the cessation of consciousness. From the cessation of consciousness comes the cessation of name-and-form. From the cessation of name-and-form comes the cessation of the six sense media. From the cessation of the six sense media comes the cessation of contact. From the cessation of contact comes the cessation of feeling. From the cessation of feeling comes the cessation of craving. From the cessation of craving comes the cessation of clinging/sustenance. From the cessation of clinging/sustenance comes the cessation of becoming. From the cessation of becoming comes the cessation of birth. From the cessation of birth, then old age and death, sorrow, lamentation, pain, distress, and despair all cease. Such is the cessation of this entire mass of stress and suffering.

This is the noble method that is rightly seen and rightly ferreted out by discernment.

A X.92

Vì thế: Do vô minh diệt, nên các hành diệt. Do các hành diệt nên thức diệt. Do thức diệt nên danh sắc diệt. Do danh sắc diệt nên sáu nhập diệt. Do sáu nhập diệt nên xúc diệt. Do xúc diệt nên thọ diệt. Do thọ diệt nên ái diệt. Do ái diệt nên thủ diệt Do thủ diệt nên hữu diệt Do hữu diệt nên sanh diệt. Do sanh diệt nên già,chết,sầu,bi,khổ,ưu,não diệt. Như vậy là toàn bộ khổ uẩn này diệt. Đây là Thánh lý được khéo thấy và khéo thể nhập với trí tuệ.

Stress and suffering have birth as their prerequisite,
conviction has stress and suffering as its prerequisite,
joy has conviction as its prerequisite,
rapture has joy as its prerequisite,
serenity has rapture as its prerequisite,
pleasure has serenity as its prerequisite,
concentration has pleasure as its prerequisite,
knowledge and vision of things as they actually are present has concentration as its prerequisite,
disenchantment has knowledge and vision of things as they actually are present as its prerequisite,
dispassion has disenchantment as its prerequisite,
release has dispassion as its prerequisite,
knowledge of ending has release as its prerequisite.

S XII.23

Khổ do duyên sanh,
tín do duyên khổ,
hân hoan do duyên tín,
hỷ do duyên hân hoan,
khinh an do duyên hỷ,
lạc do duyên khinh an,
định do duyên lạc,
tri kiến như chân do duyên định,
yếm ly do duyên tri kiến như chân,
ly tham do duyên yếm ly,
giải thoát do duyên ly tham ,
trí về đoạn diệt do duyên giải thoát.

The Fourth Truth

Monks, what is the noble eightfold path? Right view, right resolve, right speech, right action, right livelihood, right effort, right mindfulness, right concentration.

Này các Tỷ-kheo, thế nào là con đường Thánh đạo Tám ngành ? Tức là: -Chánh Tri kiến, -Chánh Tư duy, -Chánh Ngữ, -Chánh Nghiệp, -Chánh Mạng, -Chánh Tinh tấn, -Chánh Niệm, -Chánh Định.

And what is right view? Knowledge with regard to stress, knowledge with regard to the origination of stress, knowledge with regard to the cessation of stress, knowledge with regard to the way of practice leading to the cessation of stress: This is called right view.

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là chánh tri kiến ? Này các Tỷ-kheo, chính là trí về khổ, trí về khổ tập, trí về khổ diệt, trí về con đường đưa đến khổ diệt. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là chánh tri kiến.

And what is right resolve? Being resolved on renunciation, on freedom from ill will, on harmlessness: This is called right resolve.

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là chánh tư duy ? Này các Tỷ-kheo, chính là xuất ly tư duy, vô sân tư duy, vô hại tư duy. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là chánh tư duy.

And what is right speech? Abstaining from lying, from divisive speech, from abusive speech, and from idle chatter: This is called right speech.

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là chánh ngữ? Này các Tỷ-kheo, chính là từ bỏ nói láo, từ bỏ nói hai lưỡi, từ bỏ nói lời độc ác, từ bỏ nói lời phù phiếm. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là chánh ngữ.

<

And what is right action? Abstaining from taking life, from stealing, and from unchastity. This is called right action.

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là chánh nghiệp ? Này các Tỷ-kheo, chính là từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ phi Phạm hạnh. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là chánh nghiệp.

And what is right livelihood? There is the case where a noble disciple, having abandoned dishonest livelihood, keeps his life going with right livelihood: This is called right livelihood.

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là chánh mạng? Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử đoạn trừ tà mạng, nuôi sống với chánh mạng. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là chánh mạng.

And what is right effort? There is the case where a monk generates desire, endeavors, arouses persistence, upholds and exerts his intent for the sake of the non-arising of evil, unskillful qualities that have not yet arisen... for the sake of the abandoning of evil, unskillful qualities that have arisen... for the sake of the arising of skillful qualities that have not yet arisen...(and) for the maintenance, non-confusion, increase, plenitude, development, and culmination of skillful qualities that have arisen: This is called right effort.

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là chánh tinh tấn ? Ở đây, này các Tỷ-kheo, với mục đích khiến cho các ác, bất thiện pháp từ trước chưa sanh không cho sanh khởi, Khởi lên ý muốn, cố gắng, tinh tấn, sách tấn, trì tâm; với mục đích khiến cho các ác, bất thiện pháp đã sanh được trừ diệt, Khởi lên ý muốn, cố gắng, tinh tấn, sách tấn, trì tâm; với mục đích khiến cho các thiện pháp từ trước chưa sanh nay được sanh khởi, Khởi lên ý muốn, cố gắng, tinh tấn, sách tấn, trì tâm; với mục đích khiến cho các thiện pháp đã được sanh có thể duy trì, không có lu mờ, được tăng trưởng, được quảng đại, được tu tập, được viên mãn, Khởi lên ý muốn, cố gắng, tinh tấn, sách tấn, trì tâm. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là chánh tinh tấn.

And what is right mindfulness? There is the case where a monk remains focused on the body in and of itself — ardent, alert, and mindful — putting aside greed and distress with reference to the world. He remains focused on feelings in and of themselves... the mind in and of itself... mental qualities in and of themselves — ardent, alert, and mindful — putting aside greed and distress with reference to the world. This is called right mindfulness.

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là chánh niệm ? -Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo sống quán thân trên thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, với mục đích điều phục tham ưu ở đời; -Tỷ-kheo sống quán thọ trên các thọ, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm với mục đích điều phục tham ưu ở đời; -Tỷ-kheo sống quán tâm trên tâm, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm với mục đích điều phục tham ưu ở đời; -Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm với mục đích điều phục tham ưu ở đời. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là chánh niệm

And what is right concentration? There is the case where a monk... enters and remains in the first jhana... the second jhana... the third jhana... the fourth jhana: purity of equanimity and mindfulness, neither pleasure nor pain. This is called right concentration.

S XLV.8

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là chánh định ? -Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ly dục, ly pháp bất thiện, chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ. -Làm cho tịnh chỉ tầm và tứ, chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm, không tứ, nội tỉnh, nhất tâm. -Vị ấy ly hỷ trú xả, chánh niệm, tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và trú Thiền thứ ba. -Xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú Thiền thứ tư, không khổ không lạc, xả niệm thanh tịnh. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là chánh định.

Right View

Then Anathapindika the householder went to where the wanderers of other persuasions were staying. On arrival he greeted them courteously. After an exchange of friendly greetings and courtesies, he sat to one side. As he was sitting there, the wanderers said to him, 'Tell us, householder, what views the contemplative Gotama has.'

Rồi Gia chủ Anàthapinidika đi đến các du sĩ đạo ấy, sau khi đến, nói lên với các du sĩ ngoại đạo ấy những lời chào đón hỏi thăm, sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, liền ngồi xuống một bên. Các du sĩ ngoại đạo ấy nói với Gia chủ Anàthapidika đang ngồi một bên: "Này Gia chủ, hãy nói lên Sa-môn Gatama có kiến gì"?

'Venerable sirs, I don't know entirely what views the Blessed One has.'

'Thưa các Tôn giả, tôi không biết tất cả kiến của Thế Tôn.'

'Well, well. So you don't know entirely what views the contemplative Gotama has. Then tell us what views the monks have.'

'Này Gia chủ, Gia chủ có thể không biết tất cả kiến của Sa-môn Gotama. Nhưng Gia chủ, hãy nói các Tỷ-kheo có kiến gì'?

'I don't even know entirely what views the monks have.'

'Thưa các Tôn giả, tôi không biết tất cả kiến của các Tỷ-kheo.'

'So you don't know entirely what views the contemplative Gotama has or even that the monks have. Then tell us what views you have.'

'Này Gia chủ, Gia chủ có thể không biết tất cả kiến của Sa-môn Gotama, Gia chủ có thể không biết tất cả kiến của các Tỷ-kheo. Vậy này Gia chủ, hãy nói về kiến của gia chủ.'

'It wouldn't be difficult for me to expound to you what views I have. But please let the venerable ones expound each in line with his position, and then it won't be difficult for me to expound to you what views I have.'

'Thưa các Tôn giả, thật không khó gì để chúng tôi trả lời về kiến của chúng tôi. Nhưng các Tôn giả hãy trả lời về kiến của các Tôn giả trước. Rồi sau thật không khó gì để chúng tôi trả lời về kiến của chúng tôi.'

When this had been said, one of the wanderers said to Anathapindika the householder, 'The cosmos is eternal. Only this is true; anything otherwise is worthless. This is the sort of view I have.'

Khi được nói vậy, một du sĩ ngoại đạo nói với gia chủ Anàthapindika : 'Thường còn là thế giới. Kiến này là sự thật. Kiến nào khác là hư vọng. Này Gia chủ, như vậy là kiến của tôi'.

Another wanderer said to Anathapindika, 'The cosmos is not eternal. Only this is true; anything otherwise is worthless. This is the sort of view I have.'

Một du sĩ ngoại đạo khác nói với gia chủ Anàthapindika : 'Vô thường là thế giới. Kiến này là sự thật. Kiến này khác là hư vọng. Như vậy là kiến của tôi.'

Another wanderer said, 'The cosmos is finite...'...'The cosmos is infinite...'...'The soul and the body are the same...'...'The soul is one thing and the body another...'...'After death a Tathagata exists...'...'After death a Tathagata does not exist...'...'After death a Tathagata both does and does not exist...'...'After death a Tathagata neither does nor does not exist. Only this is true; anything otherwise is worthless. This is the sort of view I have.'

Một du sĩ ngoại đạo khác nói với gia chủ Anàthapindika : 'Có biên tế là thế giới...'...'Không có biên tế là thế giới...'...'Mạng sống và thân thể là một...'...'Mạng sống và thân thể là khác...'...'Như Lai có tồn tại sau khi chết...'...'Như Lai không có tồn tại sau khi chết...'...'Như Lai có tồn tại và không có tồn tại sau khi chết...'...'Như Lai không có tồn tại và không tồn tại sau khi chết. Kiến này là sự thật. Kiến nào khác là hư vọng. Này Gia chủ, như vậy là kiến của tôi".

When this had been said, Anathapindika the householder said to the wanderers, 'As for the venerable one who says, "The cosmos is eternal. Only this is true; anything otherwise is worthless. This is the sort of view I have," his view arises from his own inappropriate attention or in dependence on the words of another. Now this view has been brought into being, is fabricated, willed, dependently originated. Whatever has been brought into being, is fabricated, willed, dependently originated, that is inconstant. Whatever is inconstant is stress. This venerable one thus adheres to that very stress, submits himself to that very stress.' (Similarly for the other positions.)

Khi nghe nói vậy, gia chủ Anàthapindika nói với các du sĩ ngoại đạo ấy : 'Thưa các Tôn giả, Tôn giả nào nói như sau : "Thường còn là thế giới. Kiến này là sự thật. Kiến nào khác là hư vọng. Này Gia chủ, như vậy là kiến của tôi". Kiến này của Tôn giả ấy, hoặc nhân tự mình tác ý không hợp lý, hay do duyên nghe tiếng người khác nói. Kiến ấy như vậy được sanh được tác thành (hữu vi) do tâm suy tư, do duyên khởi lên. Và cái gì được sanh, được tác thành, do tâm suy tư, do duyên khởi lên, cái ấy là vô thường ; cái gì vô thường, cái ấy là khổ ; cái (khổ) ấy, Tôn giả chấp trước (dính vào) ; cái (khổ) ấy, Tôn giả chấp nhận.' Thưa các Tôn giả, Tôn giả nào nói như sau : 'Vô thường là thế giới... Có biên tế là thế giới... Không có biên tế là thế giới... Mạng sống và thân thể là một... Mạng sống và thân thể là khác Như Lai có tồn tại sau khi chết... Như Lai không tồn tại sau khi chết... Như Lai có tồn tại và không có tồn tại sau khi chết.. "Như Lai không có tồn tại và không tồn tại sau khi chết. Kiến này là sự thật. Kiến nào khác là hư vọng. Này Gia chủ, như vậy là kiến của tôi". Kiến này của Tôn giả ấy, hoặc nhân tự mình tác ý không hợp lý, hoặc do duyên nghe tiếng người khác nói. kiến như vậy được sanh, được tác thành, do tâm suy tư, do duyên khởi lên. Và cái gì được sanh, được tác thành, do tâm suy tư, do duyên khởi lên, cái ấy là vô thường ; cái gì vô thường, cái ấy là khổ ; cái (khổ) ấy, Tôn giả chấp trước ; cái khổ ấy Tôn giả chấp nhận.'

When this had been said, the wanderers said to Anathapindika the householder, 'We have each and every one expounded to you in line with our own positions. Now tell us what views you have.'

Khi được nói vậy, các du sĩ ngoại đạo ấy nói với gia chủ Anàthapindika : - Này Gia chủ, tất cả kiến của chúng tôi đã được nói lên. Này Gia chủ, hãy nói lên kiến của gia chủ là gì?

'Whatever has been brought into being, is fabricated, willed, dependently originated, that is inconstant. Whatever is inconstant is stress. Whatever is stress is not me, is not what I am, is not my self. This is the sort of view I have.'

'Thưa các Tôn giả, phàm cái gì được sanh, được tác thành do tâm suy tư, do duyên được khởi lên, cái ấy là vô thường. Cái gì vô thường, cái ấy là khổ. Cái gì là khổ, cái ấy là "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi." Tôi có kiến như vậy, thưa các Tôn giả.'

'So, householder, whatever has been brought into being, is fabricated, willed, dependently originated, that is inconstant. Whatever is inconstant is stress. You thus adhere to that very stress, submit yourself to that very stress.'

'Này Gia chủ, phàm cái gì được sanh, được tác thành, do tâm suy tư, do duyên được khởi lên, cái ấy là vô thường. Cái gì vô thường, cái ấy là khổ. Cái gì là khổ, cái ấy, này Gia chủ, Gia chủ lại chấp trước, cái ấy, này Gia chủ, Gia chủ lại chấp nhận.'

'Venerable sirs, whatever has been brought into being, is fabricated, willed, dependently originated, that is inconstant. Whatever is inconstant is stress. Whatever is stress is not me, is not what I am, is not my self. Having seen this well with right discernment as it actually is present, I also discern the higher escape from it as it actually is present.'

'Thưa các Tôn giả, phàm cái gì được sanh, được tác thành, do tâm suy tư, do duyên được khởi lên, cái ấy là vô thường. Cái gì vô thường, cái ấy là khổ. Cái gì khổ, cái ấy là : "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi". Như vậy là như thật khéo thấy với chánh trí tuệ. Và tự nơi khổ ấy, tôi như thật rõ biết sự xuất ly hơn thế nữa.'

When this had been said, the wanderers fell silent, abashed, sitting with their shoulders drooping, their heads down, brooding, at a loss for words. Anathapindika the householder, perceiving that the wanderers were silent, abashed... at a loss for words, got up and left.

A X.93

Khi nghe nói như vậy, các du sĩ ngoại đạo ấy ngồi im lặng, hoang mang, thụt vai, cúi đầu, sững sờ, không nói lên lời. Rồi gia chủ Anàthapinika, sau khi biết các du sĩ ngoại đạo ấy im lặng, hoang mang, thụt vai, cúi đầu, sững sờ, không nói lên lời, từ chỗ ngồi đứng dậy và rời khỏi nơi ấy.

There is the case where an uninstructed, run-of-the-mill person... does not discern what ideas are fit for attention, or what ideas are unfit for attention. This being so, he does not attend to ideas fit for attention, and attends instead to ideas unfit for attention... This is how he attends inappropriately: 'Was I in the past? Was I not in the past? What was I in the past? How was I in the past? Having been what, what was I in the past? Shall I be in the future? Shall I not be in the future? What shall I be in the future? How shall I be in the future? Having been what, what shall I be in the future?' Or else he is inwardly perplexed about the immediate present: 'Am I? Am I not? What am I? How am I? Where has this being come from? Where is it bound?'

^^^^^

As this person attends inappropriately in this way, one of six kinds of view arises in him: The view I have a self arises in him as true and established, or the view I have no self... or the view It is by means of self that I perceive self... or the view It is by means of self that I perceive not-self... or the view It is by means of not-self that I perceive self arises in him as true and established, or else he has a view like this: This very self of mine — the knower that is sensitive here and there to the ripening of good and bad actions — is the self of mine that is constant, everlasting, eternal, not subject to change, and will endure as long as eternity. This is called a thicket of views, a wilderness of views, a contortion of views, a writhing of views, a fetter of views. Bound by a fetter of views, the uninstructed run-of-the-mill person is not freed from birth, aging, and death, from sorrow, lamentation, pain, distress, and despair. He is not freed from stress, I say.

^^^^^

The well-taught noble disciple... discerns what ideas are fit for attention, and what ideas are unfit for attention. This being so, he does not attend to ideas unfit for attention, and attends instead to ideas fit for attention... He attends appropriately, This is stress... This is the origin of stress... This is the cessation of stress... This is the way leading to the cessation of stress. As he attends appropriately in this way, three fetters are abandoned in him: identity-view, doubt, and grasping at precepts and practices.

M 2

^^^^^

Kaccayana: 'Lord, "Right view, right view," it is said. To what extent is there right view?'

Kaccayana:' "Chánh kiến, chánh kiến", bạch Thế Tôn được nói đến như vậy. Bạch Thế Tôn, cho đến như thế nào là chánh kiến?'

The Buddha: 'By and large, Kaccayana, this cosmos is supported by (takes as its object) a polarity, that of existence and non-existence. But when one sees the origination of the cosmos as it actually is with right discernment, "non-existence" with reference to the cosmos does not occur to one. When one sees the cessation of the cosmos as it actually is with right discernment, "existence" with reference to the cosmos does not occur to one.

Thế Tôn : 'Này Kaccàyana, thế giới này phần lớn y chỉ vào hai cực đoan này: có và không có. Này Kaccàyana, ai với chánh trí tuệ thấy như chơn thế giới tập khởi, vị ấy không chấp nhận thế giới là không có. Này Kaccàyana, ai với chánh trí tuệ thấy như chơn thế giới đoạn diệt, vị ấy không chấp nhận thế giới là có.'

'By and large, Kaccayana, this cosmos is in bondage to attachments, clingings (sustenances), and biases. But one such as this does not get involved with or cling to these attachments, clingings, fixations of awareness, biases, and latent tendencies; nor is he resolved on "my self." He has no uncertainty or doubt that, when there is arising, only stress is arising; and that when there is passing away, stress is passing away. In this, one's knowledge is independent of others. It is to this extent, Kaccayana, that there is right view.'

S XII.15

'Này Kaccàyana, chấp thủ phương tiện và bị thiên kiến trói buộc, phần lớn thế giới này là vậy. Và ai với tâm không trú trước, chấp thủ phương tiện ấy, không chấp thủ thiên chấp tùy miên ấy, không có chấp trước, không trú trước, vị ấy không có nghĩ: "Đây là tự ngã của tôi". Khi khổ sanh thời xem là sanh, khi khổ diệt thời xem là diệt; vị ấy không có nghi ngờ, không có phân vân, không duyên vào ai khác, trí ở đây là của vị ấy. Cho đến như vậy, này Kaccàyana là chánh tri kiến.'

Right Mindfulness & Concentration

Visakha: Now what is concentration, what qualities are its themes, what qualities are its requisites, and what is its development?

Visakha:Như thế nào là định, thế nào là định tướng, thế nào là định tư cụ, thế nào là định tu tập?

Sister Dhammadinna: Singleness of mind is concentration; the four frames of reference [ = the objects of right mindfulness] are its themes; the four right exertions [ = right effort] are its requisites; and any cultivation, development, and pursuit of these qualities is its development.

M 44

Ni sư Dhammadinna: Hiền giả Visakha, nhất tâm là định, Bốn Niệm Xứ là định tướng, Bốn Tinh cần là định tư cụ, sự luyện tập, sự tu tập, sự tái tu tập của những pháp ấy là định tu tập ở đây vậy.

Mindfulness of in-and-out breathing, when developed and pursued, brings the four frames of reference to their culmination. The four frames of reference, when developed and pursued, bring the seven factors for Awakening to their culmination. The seven factors for Awakening, when developed and pursued, bring clear knowing and release to their culmination.

Nhập tức xuất tức niệm, được tu tập, làm cho sung mãn, khiến cho bốn niệm xứ được viên mãn. Bốn niệm xứ được tu tập, làm cho sung mãn, khiến cho bảy giác chi được viên mãn. Bảy giác chi được tu tập, làm cho sung mãn, khiến cho minh giải thoát (vijjavimutti) được viên mãn.

Now how is mindfulness of in-and-out breathing developed and pursued so as to bring the four frames of reference to their culmination?

Và như thế nào, này các Tỷ-kheo, là nhập tức xuất tức niệm được tu tập ? Như thế nào, làm cho sung mãn, khiến bốn niệm xứ được viên mãn ?

There is the case where a monk, having gone to the wilderness, to the shade of a tree, or to an empty building, sits down folding his legs crosswise, holding his body erect, and setting mindfulness to the fore. Always mindful, he breathes in; mindful he breathes out.

Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đi đến khu rừng, đi đến gốc cây, hay đi đến ngôi nhà trống, và ngồi kiết-già, lưng thẳng và trú niệm trước mặt. Chánh niệm, vị ấy thở vô; chánh niệm, vị ấy thở ra.

(1) Breathing in long, he discerns that he is breathing in long; or breathing out long, he discerns that he is breathing out long. (2) Or breathing in short, he discerns that he is breathing in short; or breathing out short, he discerns that he is breathing out short. (3) He trains himself to breathe in sensitive to the entire body, and to breathe out sensitive to the entire body. (4) He trains himself to breathe in calming bodily fabrication, and to breathe out calming bodily fabrication.

Thở vô dài, vị ấy biết : "Tôi thở vô dài". Hay thở ra dài, vị ấy biết : "Tôi thở ra dài". (2) Hay thở vô ngắn, vị ấy biết : "Tôi thở vô ngắn". Hay thở ra ngắn, vị ấy biết : "Tôi thở ra ngắn". (3) "Cảm giác cả toàn thân, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Cảm giác cả toàn thân, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. (4) "An tịnh thân hành, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập."An tịnh thân hành, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập.

(5) He trains himself to breathe in sensitive to rapture, and to breathe out sensitive to rapture. (6) He trains himself to breathe in sensitive to pleasure, and to breathe out sensitive to pleasure. (7) He trains himself to breathe in sensitive to mental fabrication, and to breathe out sensitive to mental fabrication. (8) He trains himself to breathe in calming mental fabrication, and to breathe out calming mental fabrication.

(5) Cảm giác hỷ thọ, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Cảm giác hỷ thọ, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập.
(6) "Cảm giác lạc thọ, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Cảm giác lạc thọ, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập.
(7) "Cảm giác tâm hành, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Cảm giác tâm hành, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập.
(8) "An tịnh tâm hành, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "An tịnh tâm hành, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập.

(9) He trains himself to breathe in sensitive to the mind, and to breathe out sensitive to the mind. (10) He trains himself to breathe in satisfying the mind, and to breathe out satisfying the mind. (11) He trains himself to breathe in steadying the mind, and to breathe out steadying the mind. (12) He trains himself to breathe in releasing the mind, and to breathe out releasing the mind.

(9) Cảm giác về tâm, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập."Cảm giác về tâm, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. (10) "Với tâm hân hoan, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập."Với tâm hân hoan, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. (11) "Với tâm định tĩnh, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Với tâm định tĩnh, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. (12) "Với tâm giải thoát, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Với tâm giải thoát, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập.

(13) He trains himself to breathe in focusing on inconstancy, and to breathe out focusing on inconstancy. (14) He trains himself to breathe in focusing on dispassion (literally, fading), and to breathe out focusing on dispassion. (15) He trains himself to breathe in focusing on cessation, and to breathe out focusing on cessation. (16) He trains himself to breathe in focusing on relinquishment, and to breathe out focusing on relinquishment.

(13) "Quán vô thường, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Quán vô thường, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. (14) "Quán ly tham, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Quán ly tham, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập.
(15) "Quán đoạn diệt, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Quán đoạn diệt, tôi sẽ thở ra, vị ấy tập. (16) "Quán từ bỏ, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Quán từ bỏ, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập.

Now, on whatever occasion a monk breathing in long discerns that he is breathing in long; or breathing out long, discerns that he is breathing out long; or breathing in short, discerns that he is breathing in short; or breathing out short, discerns that he is breathing out short; trains himself to breathe in... and... out sensitive to the entire body; trains himself to breathe in... and... out calming bodily fabrication: On that occasion the monk remains focused on the body in and of itself — ardent, alert, and mindful — putting aside greed and distress with reference to the world. I tell you, monks, that this — the in-and-out breath — is classed as a body among bodies, which is why the monk on that occasion remains focused on the body in and of itself — ardent, alert, and mindful — putting aside greed and distress with reference to the world.

Khi nào, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo thở vô dài, vị ấy biết : "Tôi thở vô dài". Hay khi thở ra dài, vị ấy biết "Tôi thở ra dài". Hay thở vô ngắn, vị ấy biết : "Tôi thở vô ngắn". Hay khi thở ra ngắn, vị ấy biết : "Tôi thở ra ngắn". "Cảm giác cả toàn thân, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Cảm giác cả toàn thân, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "An tịnh thân hành, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "An tịnh thân hành, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. Trong khi tùy quán thân trên thân, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo trú, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời. Này các Tỷ-kheo, đối với các thân, Ta nói đây là một, tức là thở vô thở ra. Do vậy, này các Tỷ-kheo, trong khi tùy quán thân trên thân, vị Tỷ-kheo trú, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời.

On whatever occasion a monk trains himself to breathe in... and... out sensitive to rapture; trains himself to breathe in... and... out sensitive to pleasure; trains himself to breathe in... and... out sensitive to mental fabrication; trains himself to breathe in... and... out calming mental fabrication: On that occasion the monk remains focused on feelings in and of themselves — ardent, alert, and mindful — putting aside greed and distress with reference to the world. I tell you, monks, that this — close attention to in-and-out breaths — is classed as a feeling among feelings, which is why the monk on that occasion remains focused on feelings in and of themselves — ardent, alert, and mindful — putting aside greed and distress with reference to the world.

Khi nào, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo nghĩ : "Cảm giác hỷ thọ, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Cảm giác hỷ thọ, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Cảm giác lạc thọ, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Cảm giác lạc thọ, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Cảm giác tâm hành, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Cảm giác tâm hành, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "An tịnh tâm hành tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "An tịnh tâm hành tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. Trong khi tùy quán thọ trên các thọ, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo trú, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, để chế ngự tham ưu ở đời. Này các Tỷ-kheo, đối với các cảm thọ, Ta nói đây là một, tức là thở vô thở ra. Do vậy này các Tỷ-kheo, trong khi tùy quán thọ trên các cảm thọ, Tỷ-kheo trú, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời.

On whatever occasion a monk trains himself to breathe in... and... out sensitive to the mind; trains himself to breathe in... and... out satisfying the mind; trains himself to breathe in... and... out steadying the mind; trains himself to breathe in... and... out releasing the mind: On that occasion the monk remains focused on the mind in and of itself — ardent, alert, and mindful — putting aside greed and distress with reference to the world. I don't say that there is mindfulness of in-and-out breathing in one of confused mindfulness and no alertness, which is why the monk on that occasion remains focused on the mind in and of itself — ardent, alert, and mindful — putting aside greed and distress with reference to the world.

Khi nào, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nghĩ : "Cảm giác tâm, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Cảm giác tâm, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Với tâm hân hoan, tôi sẽ thở vô", vị ấy tu tập. "Với tâm hân hoan, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Với tâm Thiền định, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Với tâm Thiền định, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Với tâm giải thoát, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Với tâm giải thoát, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. Trong khi tùy quán tâm trên tâm, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo trú, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, để chế ngự tham ưu ở đời. Này các Tỷ-kheo, sự tu tập nhập tức xuất tức niệm không thể đến với kẻ thất niệm, không có tỉnh giác. Do vậy, này các Tỷ-kheo, trong khi tùy quán tâm trên tâm, Tỷ-kheo trú, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời.

On whatever occasion a monk trains himself to breathe in... and... out focusing on inconstancy; trains himself to breathe in... and... out focusing on dispassion; trains himself to breathe in... and... out focusing on cessation; trains himself to breathe in... and... out focusing on relinquishment: On that occasion the monk remains focused on mental qualities in and of themselves — ardent, alert, and mindful — putting aside greed and distress with reference to the world. He who sees clearly with discernment the abandoning of greed and distress is one who oversees with equanimity, which is why the monk on that occasion remains focused on mental qualities in and of themselves — ardent, alert, and mindful — putting aside greed and distress with reference to the world.

Khi nào này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nghĩ : "Quán vô thường, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Quán vô thường, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Quán ly tham, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập "Quán ly tham, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Quán đoạn diệt, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Quán đoạn diệt, tôi sẽ thở ra, vị ấy tập. "Quán từ bỏ, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Quán từ bỏ, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. Trong khi tùy quán trên các pháp, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo an trú, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời. Vị ấy, do đoạn trừ tham ưu, sau khi thấy với trí tuệ, khéo nhìn (sự vật) với niệm xả ly. Do vậy, này các Tỷ-kheo, trong khi tùy quán pháp trên các pháp, Tỷ-kheo trú, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời.

This is how mindfulness of in-and-out breathing is developed and pursued so as to bring the four frames of reference to their culmination.

Nhập tức xuất tức niệm, này các Tỷ-kheo, được tu tập như vậy được làm cho sung mãn như vậy, khiến cho bốn niệm xứ được viên mãn.

And how are the four frames of reference developed and pursued so as to bring the seven factors for Awakening to their culmination?

Và bốn niệm xứ, này các Tỷ-kheo, tu tập như thế nào, làm cho sung mãn như thế nào, khiến cho bảy giác chi được viên mãn ?

(1) On whatever occasion the monk remains focused on the body in and of itself — ardent, alert, and mindful — putting aside greed and distress with reference to the world, on that occasion his mindfulness is steady and without lapse. When his mindfulness is steady and without lapse, then mindfulness as a factor for Awakening becomes aroused. He develops it, and for him it goes to the culmination of its development.

Này các Tỷ-kheo, trong khi tùy quán thân trên thân, Tỷ-kheo trú, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời, trong khi ấy, niệm không hôn mê của vị ấy được an trú. Trong khi niệm không hôn mê của vi ấy cũng được an trú, này các Tỷ-kheo, trong khi ấy niệm giác chi được bắt đầu khởi lên với Tỷ-kheo, trong khi ấy, Tỷ-kheo tu tập niệm giác chi. Trong khi ấy niệm giác chi được Tỷ-kheo tu tập đi đến viên mãn.

(2) Remaining mindful in this way, he examines, analyzes, and comes to a comprehension of that quality with discernment. When he remains mindful in this way, examining, analyzing, and coming to a comprehension of that quality with discernment, then analysis of qualities as a factor for Awakening becomes aroused. He develops it, and for him it goes to the culmination of its development.

Này các Tỷ-kheo, trong khi trú với chánh niệm như vậy, Tỷ-kheo với trí tuệ suy tư, tư duy, thẩm sát pháp ấy. Này các Tỷ-kheo, trong khi trú với chánh niệm như vậy, Tỷ-kheo với trí tuệ suy tư, tư duy, thẩm sát pháp ấy, trong khi ấy trạch pháp giác chi được bắt đầu khởi lên, với Tỷ-kheo. Trong khi ấy, Tỷ-kheo tu tập trạch pháp giác chi. Trong khi ấy trạch pháp giác chi được Tỷ-kheo tu tập đi đến viên mãn.

(3) In one who examines, analyzes, and comes to a comprehension of that quality with discernment, unflagging persistence is aroused. When unflagging persistence is aroused in one who examines, analyzes, and comes to a comprehension of that quality with discernment, then persistence as a factor for Awakening becomes aroused. He develops it, and for him it goes to the culmination of its development.

Này các Tỷ-kheo, trong khi Tỷ-kheo với trí tuệ suy tư, tư duy, thẩm sát pháp ấy, sự tinh tấn không thụ động bắt đầu khởi lên với vị Tỷ-kheo. Này các Tỷ-kheo, trong khi Tỷ-kheo với trí tuệ suy tư, tư duy, thẩm sát pháp ấy, trong khi ấy sự tinh tấn không thụ động bắt đầu khởi lên với Tỷ-kheo ấy. Trong khi ấy tinh tấn giác chi được bắt đầu khởi lên nơi Tỷ-kheo. Trong khi ấy Tỷ-kheo tu tập tinh tấn giác chi. Trong khi ấy, tinh tấn giác chi được Tỷ-kheo tu tập đi đến viên mãn.

(4) In one whose persistence is aroused, a rapture not-of-the-flesh arises. When a rapture not-of-the-flesh arises in one whose persistence is aroused, then rapture as a factor for Awakening becomes aroused. He develops it, and for him it goes to the culmination of its development.

Hỷ không liên hệ đến vật chất được khởi lên nơi vị tinh tấn tinh cần. Này các Tỷ-kheo, trong khi hỷ không liên hệ đến vật chất khởi lên nơi Tỷ-kheo tinh tấn tinh cần, trong khi ấy hỷ giác chi bắt đầu khởi lên nơi Tỷ-kheo. Trong khi ấy hỷ giác chi được vị Tỷ-kheo tu tập. Trong khi ấy hỷ giác chi được Tỷ-kheo tu tập đi đến viên mãn.

(5) For one who is enraptured, the body grows calm and the mind grows calm. When the body and mind of an enraptured monk grow calm, then serenity as a factor for Awakening becomes aroused. He develops it, and for him it goes to the culmination of its development.

Thân của vị ấy được tâm hoan hỷ trở thành khinh an, tâm cũng được khinh an. Này các Tỷ-kheo, trong khi Tỷ-kheo với ý hoan hỷ được thân khinh an, được tâm cũng khinh an, trong khi ấy, khinh an giác chi bắt đầu khởi lên nơi Tỷ-kheo. Trong khi ấy, khinh an giác chi được Tỷ-kheo tu tập. Trong khi ấy, khinh an giác chi được Tỷ-kheo làm cho đi đến sung mãn.

(6) For one who is at ease — his body calmed — the mind becomes concentrated. When the mind of one who is at ease — his body calmed — becomes concentrated, then concentration as a factor for Awakening becomes aroused. He develops it, and for him it goes to the culmination of its development.

Một vị có thân khinh an, an lạc, tâm vị ấy được định tĩnh. Này các Tỷ-kheo, trong khi Tỷ-kheo có thân khinh an, an lạc, tâm vị ấy được định tĩnh, trong khi ấy định giác chi bắt đầu khởi lên nơi Tỷ-kheo. Trong khi ấy định giác chi được Tỷ-kheo tu tập. Trong khi ấy định giác chi được Tỷ-kheo làm cho đi đến sung mãn.

(7) He oversees the mind thus concentrated with equanimity. When he oversees the mind thus concentrated with equanimity, equanimity as a factor for Awakening becomes aroused. He develops it, and for him it goes to the culmination of its development.

Vị ấy với tâm định tĩnh như vậy, khéo nhìn (sự vật) với ý niệm xả ly. Này các Tỷ-kheo, trong khi Tỷ-kheo với tâm định tĩnh như vậy, khéo nhìn (sự vật) với ý niệm xả ly, trong khi ấy xả giác chi bắt đầu khởi lên nơi Tỷ-kheo . Trong khi ấy xả giác chi được Tỷ-kheo tu tập. Trong khi ấy xả giác chi được Tỷ-kheo làm cho đến sung mãn.

(Similarly with the other three frames of reference: feelings, mind, and mental qualities.)

^^^^^

This is how the four frames of reference are developed and pursued so as to bring the seven factors for Awakening to their culmination.

Này các Tỷ-kheo, bốn niệm xứ được tu tập như vậy, được làm cho sung mãn như vậy khiến cho bảy giác chi được sung mãn.

And how are the seven factors for Awakening developed and pursued so as to bring clear knowing and release to their culmination? There is the case where a monk develops mindfulness as a factor for Awakening dependent on seclusion... dispassion... cessation, resulting in relinquishment. He develops analysis of qualities as a factor for Awakening...persistence as a factor for Awakening...rapture as a factor for Awakening...serenity as a factor for Awakening...concentration as a factor for Awakening..equanimity as a factor for Awakening dependent on seclusion... dispassion... cessation, resulting in relinquishment.

Và này các Tỷ-kheo, bảy giác chi tu tập như thế nào, làm cho sung mãn như thế nào, khiến cho minh giải thoát được viên mãn. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo tu tập niệm giác chi, liên hệ đến viễn ly, liên hệ đến ly tham, liên hệ đến diệt, hướng đến xả ly; tu tập trạch pháp giác chi... (như trên)... tu tập tinh tấn giác chi... (như trên)... tu tập hỷ giác chi... (như trên)... tu tập khinh an giác chi... (như trên)... tu tập định giác chi... (như trên)... tu tập xả giác chi, liên hệ đến viễn ly, liên hệ đến ly tham, liên hệ đến diệt, hướng đến xả ly.

This is how the seven factors for Awakening are developed and pursued so as to bring clear knowing and release to their culmination.

M 118

Này các Tỷ-kheo, bảy giác chi được tu tập như vậy, được làm cho sung mãn như vậy, khiến cho minh giải thoát được viên mãn.

[On attaining the fourth level of jhana] there remains only equanimity: pure and bright, pliant, malleable and luminous. Just as if a skilled goldsmith or goldsmith's apprentice were to prepare a furnace, heat up a crucible, and, taking gold with a pair of tongs, place it in the crucible. He would blow on it periodically, sprinkle water on it periodically, examine it periodically, so that the gold would become refined, well-refined, thoroughly refined, flawless, free from dross, pliant, malleable and luminous. Then whatever sort of ornament he had in mind — whether a belt, an earring, a necklace, or a gold chain — it would serve his purpose. In the same way, there remains only equanimity: pure and bright, pliant, malleable, and luminous. He (the meditator) discerns that 'If I were to direct equanimity as pure and bright as this toward the dimension of the infinitude of space, I would develop the mind along those lines, and thus this equanimity of mine — thus supported, thus sustained — would last for a long time. (Similarly with the dimensions of the infinitude of consciousness, nothingness, and neither perception nor non-perception.)'

Lại nữa, xả còn lại được trong sạch, trong trắng, nhu nhuyến, dễ uốn nắn, chói sáng. Ví như, này Tỷ-kheo, một người thợ vàng thiện xảo hay người đệ tử sửa soạn lò đúc; sau khi sửa soạn lò đúc xong, người ấy đốt lửa miệng lò đúc; sau khi đốt lửa miệng lò đúc, người ấy dùng kềm kẹp lấy vàng và đặt vàng vào trong miệng lò; rồi thỉnh thoảng người ấy thổi trên ấy, thỉnh thoảng người ấy rưới nước trên ấy, thỉnh thoảng người ấy quán sát thật kỹ... vàng ấy đã trở thành sáng sủa, thanh tịnh, gột sạch, các uế tạp được đoạn trừ, các tỳ vết được trừ sạch, nhu nhuyến, dễ uốn nắn và chói sáng... và nếu người ấy muốn làm đồ trang sức nào, hoặc vòng nhẫn, hoặc bông tai, hoặc vòng cổ, hoặc vòng hoa vàng, thời vàng ấy có thể dùng vào mục đích ấy. Cũng vậy, này Tỷ-kheo, lại nữa, xả còn lại được trong sạch, trong trắng, nhu nhuyến, dễ uốn nắn, chói sáng. Người ấy tuệ tri như sau: "Nếu ta tập trung xả này thanh tịnh như vậy, trong trắng như vậy vào Hư không vô biên xứ, và tu tập tâm ta tùy theo pháp ấy, thời xả này y cứ vào đấy, chấp thủ tại đấy, được an trú nơi ta trong một thời gian dài. Nếu ta tập trung xả này thanh tịnh như vậy, trong trắng như vậy vào Thức vô biên xứ và tu tập tâm của ta tùy theo pháp ấy, thời xả này y cứ vào đấy, chấp thủ tại đấy, được an trú nơi ta trong một thời gian dài. Nếu ta tập trung xả này thanh tịnh như vậy, trong trắng như vậy vào Vô sở hữu xứ, và tu tập tâm ta tùy theo pháp ấy, thời xả này y cứ vào đấy, chấp thủ tại đấy, được an trú nơi ta trong một thời gian dài. Nếu ta tập trung xả này thanh tịnh như vậy, trong trắng như vậy vào Phi tưởng phi phi tưởng xứ, và tu tập tâm của ta tùy theo pháp ấy, thời xả này y cứ vào đấy, chấp thủ tại đấy, được an trú nơi ta trong một thời gian dài".

He discerns that 'If I were to direct equanimity as pure and bright as this toward the dimension of the infinitude of space and to develop the mind along those lines, that would be fabricated. (Similarly with the dimensions of the infinitude of consciousness, nothingness, and neither perception nor non-perception.)' He neither fabricates nor wills for the sake of becoming or un-becoming. This being the case, he is not sustained by anything in the world (does not cling to anything in the world). Unsustained, he is not agitated. Unagitated, he is totally unbound right within. He discerns that 'Birth is ended, the holy life fulfilled, the task done. There is nothing further for this world.'

M 140

Người ấy tuệ tri như sau: "Nếu ta tập trung xả này thanh tịnh như vậy, trong trắng như vậy vào Hư không vô biên xứ... Thức vô biên xứ... Vô sở hữu xứ... Phi tưởng phi phi tưởng xứ, và tu tập tâm của ta tùy theo pháp ấy, thời xả ấy trở thành pháp hữu vi". Vị ấy không tác thành, không suy tưởng đến hữu hay phi hữu. Do không tác thành, không suy tưởng đến hữu hay phi hữu, vị ấy không chấp thủ một sự vật gì ở đời; chấp thủ không quấy rối vị ấy; do chấp thủ không quấy rối vị ấy, vị ấy tự chứng Niết-bàn, và vị ấy tuệ tri: "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những điều nên làm đã làm, không còn trở lại trạng thái như thế này nữa".

Liberation [go up]

There is that dimension where there is neither earth, nor water, nor fire, nor wind; neither dimension of the infinitude of space, nor dimension of the infinitude of consciousness, nor dimension of nothingness, nor dimension of neither perception nor non-perception; neither this world, nor the next world, nor sun, nor moon. And there, I say, there is neither coming, nor going, nor stasis; neither passing away nor arising: without stance, without foundation, without support (mental object). This, just this, is the end of stress.

Ud 8.1

- Này các Tỷ-kheo, có xứ này, tại đây không có đất, không có nước, không có lửa, không có gió; không có Hư không vô biên, không có Thức vô biên xứ, không có Vô sở hữu xứ, không có Phi tưởng phi phi tưởng xứ; không có đời này, không có đời sau, không có cả hai mặt trăng mặt trời. Do vậy, này các Tỷ-kheo, Ta tuyên bố không có đến, không có đi, không có trú, không có diệt, không có sanh; không có an trú, không có chuyển vận, không có sở duyên, đây là sự đoạn tận khổ đau.

Where water, earth, fire, and wind have no footing:
There the stars do not shine,
	the sun is not visible,
	the moon does not appear,
	darkness is not found.
And when a sage, a worthy one, through sagacity
	has known (this) for himself,
then from form and formless,
	from pleasure and pain,
		he is freed.

Ud 1.10

 
Chỗ nào nước và đất,lửa và gió không chấp trước: 
Tại đây sao không chói,
Mặt trời không chiếu sáng,
Tại đây trăng không chiếu,
Tại đây u ám không,
Khi ẩn sĩ Phạm chí,
Tự mình với trí tuệ,
Thể nhập vào Chánh pháp,
Vị ấy được giải thoát
Khỏi sắc và vô sắc,
Khỏi an lạc, đau khổ.
 Chủ biên và điều hành: TT Thích Giác Đẳng.

 Những đóng góp dịch thuật xin gửi về TT Thích Giác Đẳng tại giacdang@phapluan.com
Cập nhập ngày: Thứ Sáu 08-11-2006

Kỹ thuật trình bày: Minh Hạnh & Thiện Pháp

Trang trước|Trang kế | trở về đầu trang | Home page |