......... .

HÔN NHÂN HẠNH PHÚC
"A HAPPY MARRIED LIFE"

Nguyên tác Ven. K. Sri Dhammananda
Việt dịch Ty` Kheo Thiện Minh
---o0o---

Chương III


 

8. NEW TECHNOLOGY

Family Planning

Some religions are not in favor of family planning. They say it is against the will of God. Buddhism does not interfere in this personal choice. Man is at liberty to follow any method in order to prevent conception. According to Buddhism, certain physical and mental conditions must be present for conception to take place. When any one of these conditions is absent (as when family planning is being practiced), no conception takes place, therefore a life does not come into being. But after conception, abortion is NOT acceptable in Buddhism because it means taking away a life that is already present in the form of fetus.

8. KỸ THUẬT MỚI

Kế hoạch hóa gia đ́nh

Một số tôn giáo không tán thành về việc kế hoạch hóa gia đ́nh. Họ nói rằng nó chống lại ư Chúa. Đạo Phật không can thiệp vào sự chọn lựa cá nhân này. Con người được tự do để theo đuổi bất cứ phương pháp nào để pḥng ngừa sự thụ thai. Theo Phật giáo những điều kiện tinh thần hay vật chất cần phải được thực hiện khi sự thụ thai xảy ra. Khi bất cứ một trong những t́nh trạng này thiếu đi (giống như khi kế hoạch gia đ́nh đang được thực hiện) không có một sự thụ thai xảy ra, do đó không có một cuộc sống h́nh thành, nhưng sau khi thụ thai, phá thai th́ không được chấp nhận trong Phật giáo bởi v́ nó có nghĩa là lấy đi một mạng sống của con người mà nó đă hiện diện trong h́nh thức bào thai.

 

TEST-TUBE BABIES

Some people are interested in the moral implication or religious attitude with regard to test-tube babies. If a woman is unable to conceive a baby in the normal way, and if she is anxious to have a baby by adopting modern medical methods, there is no ground in Buddhism to say that it is either immoral or irreligious. Religions must give due credit to man's intelligence and to accommodate new medical discoveries if they are harmless and beneficial to mankind. As was mentioned earlier, so long as the conditions are right, conception can be allowed to take place, naturally or artificially.

THỤ THAI BẰNG ỐNG NGHIỆM

. Một số người quan tâm đến sự liên quan về đạo đức và thái độ tôn giáo đối với những trẻ em được thụ tinh trong ống nghiệm. Nếu một người phụ nữ không có khả năng sinh con một cách b́nh thường và nếu bà ta khát khao để có một đứa con bằng cách chấp nhận những phương pháp y học hiện đại th́ không có một cơ sở nào trong Phật giáo nói rằng là vô đạo đức hoặc vô thần. Các tôn giáo phải đưa ra lời khen ngợi đối với sự thông minh của con người và những khám phá y học mới mẻ này, nếu chúng vô hại và có lợi ích cho nhân loại như đă đề cập trước đây, miễn là những điều kiện hợp lư, sự thụ thai có thể cho phép diễn ra theo tự nhiên hoặc nhân tạo.

 

9. MORALITY

Premarital Sex

Premarital sex is a problem which is much discussed in modern society. Many young people would like to know the opinion regarding this sensitive issue. Some religionists say it can be considered as committing adultery, while others say it is immoral and unjustifiable.
In the past, young boys and girls were not allowed by their parents to move around freely until they were married. Their marriages were also arranged and organized by the parents. Of course, this did cause unhappiness in some cases when parents chose partners on the basis of money, social status, family obligations and related issues. But generally, the majority of parents did try very hard to choose partners who would be acceptable to their children.
Today, young people are at the liberty to go out and find their own partners. They have a lot of freedom and independence in their lives. This is not a bad thing in itself, but some of these people are just too young and too immature to see the difference between sexual attraction and true compatibility. That is why the problem of pre-marital sex arises.
Too much laxity in matters concerning sex has also given rise to social problems in modern society. The sad part is that some societies do not express liberal attitudes towards unmarried mothers, illegitimate children and the divorcees while they are quite liberal about free sex. As a result, young people are being punished by the same society which encourages free mixing of the sexes. They become social outcasts and suffer much shame and humiliation. Many young girls have become victims of their own freedom and have ruined their future by violating age-old traditions which were valued in the east as well as in the west.
Pre-marital sex is a modern development which has come about as a result of excessive social freedom prevalent amongst present day young people. Whilst Buddhism holds no strong views either for or against such action, it is thought that all Buddhists, particularly people of both sexes in love and contemplating marriage, should adhere to the age-old traditional concept that they maintain chastity until the nuptial date. The human mind is unstable and forever changing, with the result that any illicit action or indiscretion may cause undue harm to either party if the legal marriage does not take place as expected. It must be remembered that any form of sexual indulgence before a proper marriage is solemnized will be looked down upon by the elders who are the guardians of the young people.

9. GIỚI LUẬT - ĐẠO ĐỨC

T́nh dục trước hôn nhân

T́nh dục trước hôn nhân là một vấn đề đang được tranh căi nhiều ở xă hội ngày nay. Nhiều lớp trẻ muốn biết quan điểm về vấn đề nhạy cảm này. Một số nhà tôn giáo nói rằng sự việc trên có thể được xem như là can dự vào tội ngoại t́nh, trong lúc những tôn giáo khác nói điều này vô đạo đức và không thể biện minh được.
Ngày xưa những thanh niên và thiếu nữ không được phép ở gần nhau cho tới khi họ lập gia đ́nh. Những cuộc hôn nhân của họ cũng được bố mẹ định đoạt và tổ chức. Lẽ dĩ nhiên điều này đă tạo nên một sự bất hạnh trong một vài trường hợp khi bố mẹ chọn người phối ngẫu dựa trên cơ bản tiền bạc, địa vị xă hội, bổn phận gia đ́nh và những vấn đề liên quan. Nhưng thông thường, đại đa số bố mẹ đă cố gắng hết sức để chọn lựa những người phối ngẫu mà sẽ được con cái họ chấp nhận.
Ngày nay, giới trẻ được tự do đi ra ngoài và t́m kiếm người phối ngẫu của ḿnh. Họ có nhiều tự do và độc lập trong cuộc sống. Bản thân điều này không phải là một sự việc tồi tệ, nhưng một số người c̣n quá trẻ và quá non nớt để nhận biết sự khác biệt giữa sự lôi cuốn t́nh dục và sự tương ứng đích thực v́ thế cho nên vấn đề t́nh dục trước hôn nhân phát sinh.
Có quá nhiều sự lỏng lẻo trong những vấn đề liên quan đến t́nh dục cũng đă tạo nên những vấn đề trong xă hội hiện đại. Điều đáng buồn là một số quốc gia không thể hiện được thái độ phóng khoáng đối với những cuộc hôn nhân không giá thú, những đứa con vô thừa nhận và những người ly dị, trong khi đó họ hoàn toàn để tự do về t́nh dục. Do kết quả đó, lớp trẻ đang bị trừng phạt bởi xă hội cổ vũ sự tự do t́nh dục. Họ trở thành những kẻ bị ruồng bỏ khỏi xă hội và phải đau khổ nhiều về sự xấu hổ và bị nhục nhă. Nhiều thiếu nữ đă trở thành nạn nhân về sự tự do của ḿnh và đă hủy hoại tương lai của họ bởi sự vi phạm những truyền thống cổ vừa có giá trị ở phương Đông cũng như phương Tây.
T́nh dục trước hôn nhân là một sự phát triển hiện đại đă xảy ra như là một kết quả của xă hội tự do quá mức đang thịnh hành giữa lớp trẻ ngày nay. Trong lúc đó Phật giáo hoàn toàn không có một quan điểm mạnh mẽ cũng như chống lại những hành động như thế, người ta nghĩ rằng tất cả các phật tử đặc biệt là người của cả hai giới đang yêu thương và dự định sẽ kết hôn, nên làm theo quan điểm truyền thống xa xưa mà họ ǵn giữ sự trinh tiết cho đến ngày làm lễ cưới. Tâm của con người th́ không vững chắc và thay đổi liên tục. Do đó, bất cứ hành động bất chính hoặc lố lăng nào cũng có thể gây ra sự nguy hại cho mỗi bên nếu cuộc hôn nhân chính thức không được diễn ra theo mong muốn. Chúng ta cần phải nhớ rằng bất cứ h́nh thức buông thả t́nh dục nào trước một cuộc hôn nhân chính thức đều trở thành vấn đề nghiêm trọng, sẽ bị những bậc lăo thành khinh miệt, v́ họ là những người bảo hộ cho lớp trẻ.

 

SEXUAL MISCONDUCT

Laymen are advised in the Buddha's Teaching to avoid sexual misconduct. That means, if one wants to experience sex, he must do so without creating any violence or by using any kind of force, threat or causing fear. A decent sex life which respects the other partner is not against this religion; it accepts the fact that it is a necessity for those who are not yet ready to renounce the worldly life.
According to Buddhism, those who are involved in extra-marital sex with someone who is already married, who has been betrothed to someone else, and also with those who are under the protection of their parents or guardians are said to be guilty of sexual misconduct, because there is a rupture of social norms, where a third party is being made to suffer as a result of the selfishness of one or the other partner.

NGOẠI T̀NH

Trong giáo pháp Đức Phật khuyên những người tại gia tránh xa hành động ngoại t́nh. Điều này có nghĩa là nếu một ai muốn hưởng thụ t́nh dục, họ được phép thực hiện nhưng không bạo lực chiếm đoạt, hoặc dùng bất cứ h́nh thức ép buộc nào, đe dọa hoặc gây sợ hăi. Một đời sống t́nh dục tốt đẹp là tôn trọng người khác giới ,không chống lại hệ thống đức tin này, nó chấp nhận sự kiện này là điều cần thiết cho những ai chưa sẵn sàng từ bỏ đời sống trần tục.
Theo nhà Phật, ai liên quan đến t́nh trạng ngoại t́nh với một ai đó đă kết hôn, người đă đính hôn với một người khác và với những người dưới sự giám hộ của cha mẹ hoặc người giám hộ được cho là bị kết tội ngoại t́nh, bởi v́ hành động này tạo sự rạn nứt quy tắc của xă hội, gây nên sự đổ vỡ gia đ́nh người khác.

 

IRRESPONSIBLE SEXUAL BEHAVIOR

The Buddha also mentioned the consequences that an elderly man would have to face if he married without considering the compatibility of age of the other party. According to the Buddha, irresponsible sexual behavior can become the cause of one's downfall in many aspects of life.
All the nations of the world have clearly defined laws concerning the abuse of sex. Here again, Buddhism advocates that a person must respect and obey the law of the country if the laws are made for the common good.

THÁI ĐỘ T̀NH DỤC KHÔNG ĐÚNG ĐẮN

Đức Phật cũng đề cập về những hậu quả mà một người lớn tuổi phải đối mặt nếu người ấy lập gia đ́nh mà không quan tâm đến sự thích hợp về tuổi tác của người khác giới. Theo Đức Phật thái độ t́nh dục vô ư thức có thể trở thành nguyên nhân sự sụp đổ của một người nào đó trong nhiều khía cạnh của cuộc sống.
Tất cả các quốc gia trên thế giới đă có những luật lệ rơ ràng liên quan đến sự lạm dụng t́nh dục. Ở đây một lần nữa Đức Phật tán thành một người phải tôn trọng, phải tuân theo luật định của đất nước nếu những luật lệ đó được thực hiện v́ những lợi ích chung.

 

10. THE EAST AND THE WEST

The following are extracts from a book by the celebrated Japanese author, Dr. Nikkyo Niwano. In his book The Richer Life, Dr. Niwano deals with matters relating to love and marriage, both from the Eastern and Western points of view.
"In the West, marriage on the basis of romantic love has often been considered natural and sometimes ideal. In Asia, in recent years, the number of young people who abandon the traditional arranged marriage and select partners out of romantic consideration has been growing. But in some cases, romantic marriages lead to separation and unhappiness within a short time, whereas the arranged marriage often produces a couple who live and work together in contentment and happiness.
In spite of its emotional appeal, all romantic marriages cannot be called unqualified successes. Romantic love is like the bright flame of a wood-fire that leaps up and burns clear, but lasts only a short time. Love between man and wife burns quietly and slowly like the warming fire of burning coal. Of course, bright flaming Love can — and ideally ought to — eventually become the calm, enduring fire of mature affection. But too often the flame of romantic love is quickly extinguished, leaving nothing but ashes, which are a poor foundation for a successful married life!"
"Young people in love think of nothing but their emotions. They see themselves only in the light of the feeling of the moment. Everything they think and do is romantic and has little bearing on the practical affairs of the life they must lead after marriage. If the lovers are fortunate enough to have compatible personalities, to have sound and similar ideas about life, to share interests, to enjoy harmonious family relations on both sides and to be financially secure even after the first passion has calmed down, they will still have a basis for a good life together. If they are not so blessed, they may face marital failure."
"When the time of dates, emotional pictures, dances, and parties has passed, the young married couples will have to live together, share meals, and reveal to each other their defects as well as their merits. They will have to spend more than half of their life each day together; this kind of living makes demands that are different from the less exacting needs of dating and first love."
"Family relations become very important in married life. It is necessary to think about the personalities of the mother and father of the prospective marriage partner. Young people sometimes think that the strength of their love will enable them to get along well with the most quarrelsome, difficult in-laws; but this is not always true. In short, romance is a matter of a limited time and does not become rooted in actualities and must be regulated to conform to the needs of work and environment in order to bind the couple together in lasting devotion. The two kinds of love are different. To mistake one for the other invites grave trouble."
"Giving serious, dispassionate thought to the nature of the person one contemplates marrying, lessens the likelihood of failure. To prevent romance from vanishing after marriage, mutual understanding between the couple is indispensable. But the percentage of successful marriages is higher among young people whose choice of a partner agrees with the opinions of their parents. To live peacefully, it is necessary to realize the difference between romance and married love."

10. ĐÔNG VÀ TÂY

Phần dưới đây được trích dẫn từ một cuốn sách của một tác giả người Nhật nổi tiếng - Tiến sĩ Nikkyo Niwaro. Trong cuốn sách của ông ta có tựa đề "Một cuộc sống phong phú hơn", Tiến sĩ Niwaro đề cập đến những vấn đề liên quan đến t́nh yêu và hôn nhân các quan điểm từ Đông sang Tây.
"Ở phương Tây hôn nhân dựa trên cơ bản những t́nh yêu lăng mạn mà thường được người ta xem là tự nhiên, là lư tưởng. Ở Á Châu, trong những năm vừa qua, một số người trẻ tuổi đă từ bỏ những cuộc hôn nhân theo truyền thống và chọn lựa người phối ngẫu theo những quan điểm trữ t́nh lăng mạn và có chiều hướng đang gia tăng. Ở một số trường hợp, những cuộc hôn nhân lăng mạn dẫn đến sự chia tay và sự khổ đau trong thời gian ngắn, trong khi đó những cuộc hôn nhân được sắp xếp thường tạo nên những cặp vợ chồng sống và làm việc cùng nhau trong sự ḥa thuận và hạnh phúc.
Mặc dù những cảm xúc lôi cuốn, tất cả những cuộc hôn nhân lăng mạn không thể được gọi là sự thất bại. T́nh yêu lăng mạn giống như ánh lửa rực sáng của một bếp lửa bùng lên và cháy sáng nhưng chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn. T́nh yêu thương êm đềm và đầm ấm giữa người chồng và người vợ giống như ngọn lửa ấm của ḷ than. Lẽ dĩ nhiên t́nh yêu rực cháy có thể và lư tưởng đủ để - cuối cùng trở thành một ngọn lửa lâu bền và ấm áp của một t́nh yêu thương chính chắn, nhưng thông thường ngọn lửa của t́nh yêu lăng mạn th́ tàn lụi rất nhanh, không để lại một thứ ǵ ngoại trừ đám tro tàn, là một nền tảng tồi tệ làm sụp đổ một gia đ́nh hoàn hảo!
"Những người trẻ tuổi khi yêu đương thường không nghĩ đến bất cứ điều ǵ ngoại trừ cảm xúc của họ. Họ chỉ thấy bản thân ḿnh trong ánh sáng khoảnh khắc của t́nh cảm. Mọi việc họ nghĩ và làm đều lăng mạn và chỉ có một chút dựa trên những công việc thực tế của cuộc sống mà họ phải sống sau cuộc hôn nhân. Nếu những cặp t́nh nhân may mắn có đủ điều kiện thích hợp để có những ư tưởng tương tự hợp lư về cuộc sống, để chia sẻ những sở thích, hưởng những mối quan hệ ḥa thuận của gia đ́nh ở cả hai bên họ hàng và có sự an toàn về tài chánh ngay cả sau khi những đam mê đầu tiên đă lắng xuống, họ sẽ vẫn có một nền cơ bản cho cuộc sống tốt. Nếu họ không được may mắn lắm họ có thể đối mặt với sự thất bại trong hôn nhân".
"Khi những thời kỳ hẹn ḥ, những tấm h́nh kỷ niệm, những buổi khiêu vũ và những buổi tiệc tùng trôi qua, những cặp vợ chồng trẻ sẽ phải sống cùng nhau, chia sẻ cơm áo và họ để lộ ra cho nhau những khuyết điểm cũng như ưu điểm. Họ sẽ phải trải qua hơn nửa cuộc đời cùng chung sống với nhau mỗi ngày; h́nh thức sống này tạo ra những nhu cầu khác biệt với nhu cầu đ̣i hỏi ít hơn của buổi hẹn ḥ và mối t́nh đầu.
"Những mối quan hệ gia đ́nh trở nên rất quan trọng trong cuộc sống vợ chồng, những người sắp thành hôn cần suy nghĩ về những tư cách của những người làm cha làm mẹ. Những người trẻ tuổi đôi lúc nghĩ rằng sức mạnh của t́nh yêu sẽ giúp họ giải quyết sự tranh căi dữ dội, những khó khăn rắc rối bên vợ hoặc chồng; những sự việc này không luôn luôn đúng như vậy. Nói tóm lại t́nh yêu lăng mạn là vấn đề của một thời gian có giới hạn và nó không ăn sâu vào những thực tế và phải được điều chỉnh để phù hợp với những nhu cầu của công việc và môi trường để thắt chặt t́nh cảm vợ chồng với nhau trong sự hôn nhân bền vững. Hai loại t́nh yêu khác biệt nhau. Việc nhầm lẫn cái này với cái khác chuốc lấy những rắc rối nghiêm trọng.
"Sự suy nghĩ vô tư, đúng đắn của người sắp bước vào cuộc hôn nhân giúp họ tránh nhiều sự thất bại. Để ngăn ngừa t́nh yêu lăng mạn tránh khỏi tan vở sau hôn nhân, sự hiểu biết lẫn nhau giữa cặp vợ chồng là rất thiết yếu. Nhưng tính theo phần trăm hôn nhân tốt đẹp th́ những người trẻ tuổi chọn lựa một người phối ngẫu có ư kiến của cha mẹ th́ tốt hơn. Để sống an vui, điều cần thiết là nhận biết được sự khác biệt giữa t́nh yêu lăng mạn và t́nh yêu vợ chồng."

 

11. CELIBACY

What is Celibacy?

Celibacy is refraining from the pleasure of sexual activity. Some critics of Buddhism say that The Teaching goes against Nature and they claim that sex life is natural and therefore necessary. Buddhism is not against sex, it is a natural sensual pleasure and very much a part of the worldly life. One may ask, why then did the Buddha advocate celibacy as a precept? Is it not unfair and against Nature? Well, the observance of celibacy for spiritual development was not a new religious precept at the time of the Buddha. All the other existing religions in India at that time also had introduced this practice. Even today, some other religionists, like the Hindus and Catholics do observe this as a vow.
Buddhists who have renounced the worldly life voluntarily observe this precept because they are fully aware of the commitments and disturbances which come along if one commits oneself to the life of a family person. The married life can affect or curtail spiritual development when craving for sex and attachment occupies the mind and temptation eclipses the peace and purity of the mind.

11. ĐỜI SỐNG ĐỘC THÂN

Sống độc thân là ǵ?

Sống độc thân là sự kiềm chế khoái lạc nhục dục. Một số người chỉ trích Phật giáo họ nói rằng: Giáo Pháp đi ngược lại thiên nhiên và họ cho là đời sống t́nh dục là tự nhiên và nó cần thiết. Phật giáo không chống lại t́nh dục, nó là một khoái lạc nhục dục tự nhiên và một phần chính yếu của cuộc sống trần tục. Người ta có thể hỏi, như vậy tại sao Đức Phật lại tán thành chủ nghĩa độc thân như là một giới luật? Có phải nó đúng luật và chống lại tạo hóa? Sự tuân thủ đời sống độc thân, cho sự phát triển tinh thần không phải là một giới luật mới của tôn giáo vào thời Đức Phật. Tất cả những tôn giáo tồn tại những vùng ở Ấn Độ vào thời đó cũng đă đưa ra sự tu tập này. Thậm chí ngày nay, một số tu sĩ của các tôn giáo khác, như Ấn Giáo và Thiên chúa giáo cũng tuân giữ điều này như là một lời nguyện.
Những người Phật tử đă từ bỏ cuộc sống trần tục, nguyện tuân giữ giới luật này bởi v́ họ nhận thức rơ ràng những sự ràng buộc và những phiền toái của cuộc sống của một người có gia đ́nh. Đời sống hôn nhân có th́ ảnh hưởng hoặc làm giảm bớt sự phát triển tâm linh khi sự khao khát t́nh dục và sự chấp thủ chứa đầy cái tâm và những cám dỗ làm lu mờ sự an lạc và sự tinh khiết của tâm.

 

SIGNIFICANCE OF CELIBACY

People tend to ask, "If the Buddha did not preach against married life, why then did He advocate celibacy as one of the important precepts to be observed and why did He advise people to avoid sex and renounce the worldly life?"
One must remember that renunciation is not compulsory in Buddhism. It is not obligatory to renounce the worldly life totally in order to practice Buddhism. You can adjust your way of life according to your understanding by practicing certain religious principles and qualities. You can develop your religious principles according to the needs of a lay life. However, when you have progressed and attained greater wisdom and realize that the layman's way of life is not conducive for the ultimate development of spiritual values and purification of the mind, you may choose to renounce the worldly life and concentrate more on spiritual development.
The Buddha recommended celibacy because sex and marriage are not conducive to ultimate peace and purity of the mind, and renunciation is necessary if one wishes to gain spiritual development and perfection at the highest level. But this renunciation should come naturally, and must never be forced. Renunciation should come through a complete understanding of the illusory nature of the self, of the unsatisfactory nature of all sense pleasures.

Ư NGHĨA CỦA SỰ SỐNG ĐỘC THÂN

Người ta thường hỏi "Nếu Đức Phật không thuyết giảng chống lại cuộc sống gia đ́nh, tại sao Ngài tán thành sự sống độc thân như là một trong những giới luật quan trọng cần tuân giữ và tại sao Ngài khuyên mọi người tránh xa t́nh dục và từ bỏ thế gian".
Ta cần phải nhớ rằng, xuất gia không phải là điều bắt buộc. Phật giáo không bắt buộc mọi người phải hoàn toàn từ bỏ thế gian để tu tập Phật giáo. Bạn có thể tu sửa cách sống của ḿnh bằng cách tu tập theo những nguyên tắc của tôn giáo phù hợp với nhu cầu đời sống tại gia. Tuy thế, khi bạn đă tiến bộ và đạt được trí tuệ cao hơn, bạn sẽ nhận thức rơ lối sống của người tại gia không thể dẫn đến sự phát triển tối cao của "phạm hạnh tâm linh" và sự thanh lọc tâm, bạn có thể chọn lựa để từ bỏ đời sống trần tục và tập trung nhiều hơn về sự phát triển tâm linh.
Đức Phật giới thiệu nếp sống độc thân bởi v́ t́nh dục và hôn nhân không dẫn đến sự an lạc tối cao và sự trong sạch của tâm. Sự từ bỏ (xuất gia) thật là cần thiết cho một người muốn đạt được sự phát triển tinh thần và phẩm hạnh ở mức độ cao nhất. Nhưng sự xuất gia này phải tự nguyện và không bắt buộc. Xuất gia phải đến từ một sự hiểu biết rốt ráo về bản chất của con người - bản chất không thỏa măn những thỏa thích của cảm giác.

 

CELIBACY VERSUS RESPONSIBILITY-THE BUĐDHA'S EXPERIENCE

The Buddha experienced his worldly life as a prince, husband and a father before his Renunciation and he knew what married life entailed. People may question the Buddha's renunciation by saying that he was selfish and cruel and that it was not fair for him to desert his wife and child. In actual fact, the Buddha did not desert his family without a sense of responsibility.
He never had any misunderstanding with his wife. He too had the same love and attachment towards his wife and child as any normal man would have, perhaps even greater. The difference was that his love was not mere physical and selfish love; he had the courage and understanding to detach that emotional and selfish love for a good cause. His sacrifice is considered all the more noble because he set aside his personal needs and desires in order to serve all of mankind for all time.
The main aim of his renunciation was not only for his own happiness, peace or salvation but for the sake of mankind. Had he remained in the royal palace, his service would have been confined to only his own family or his kingdom. That was why he decided to renounce everything m order to maintain peace and purity to gain Enlightenment and then to enlighten others who were suffering in ignorance.
One of the Buddha's earliest tasks after gaining his Enlightenment was to return to his palace to enlighten the members of his family. In fact, when his young son, Rahula asked the Buddha for his inheritance, the Buddha said that Rahula was heir to the richest wealth, the treasure of the Dhamma. In this way, the Buddha served his family, and he paved the way for their salvation, peace and happiness. Therefore, no one can say that the Buddha was a cruel or selfish father. He was in fact more compassionate and self-sacrificing than anybody else. With his high degree of spiritual development, the Buddha knew that marriage was a temporary phase while Enlightenment was eternal and for the good of all mankind.
Another important fact was that the Buddha knew that his wife and son would not starve in his absence. During the time of the Buddha it was considered quite normal and honorable for a young man to retire from the life of a householder. Other members of the family would willingly look after his dependents. When he gained his enlightenment, he was able to give them something no other father could give — the freedom from slavery to attachment.

NẾP SỐNG ĐỘC THÂN ĐI NGƯỢC LẠI TRÁCH NHIỆM? - SỰ GIẢI THÍCH CỦA ĐỨC PHẬT Đức Phật đă từng trải qua cuộc sống trần tục của ngài như là hoàng tử, người chồng, người cha trước khi xuất gia và người biết rơ cuộc sống trần tục là thế nào. Nhiều người có thể đặt vấn đề về sự xuất gia của Đức Phật bằng cách nói rằng Ngài ích kỷ và tàn ác và đây là điều không hợp lư để bỏ bê vợ con Ngài. Theo thực tế, Đức Phật đă không bỏ bê gia đ́nh của Ngài mà không có một ư tưởng trách nhiệm.
Ngài chưa bao giờ có sự hiểu lầm với vợ Ngài. Ngài cũng có cùng t́nh thương và sự gắn bó với vợ con như một người đàn ông b́nh thường phải có, ngay cả c̣n lớn lao hơn. Sự khác biệt là t́nh yêu thương của Ngài không đơn thuần là t́nh thương ích kỷ, Ngài có một sự can đảm và hiểu biết để từ bỏ t́nh thương ích kỷ và cảm xúc đối với đại nghĩa. Sự hy sinh của Ngài là cao quư hơn tất cả, bởi v́ Ngài đặt qua một bên những nhu cầu riêng tư và khát khao để phục vụ toàn thể nhân loại.
Mục đích chính sự xuất gia của Ngài không chỉ v́ hạnh phúc của riêng ḿnh, mà là sự an lạc và cứu độ chúng sinh. Nếu Ngài vẫn ở lại trong cung điện, th́ sự phục vụ của Ngài chắc hẳn sẽ đóng khung trong gia đ́nh và vương quốc của Ngài. Cho nên Ngài quyết định từ bỏ mọi hạnh phúc cá nhân để t́m đạo Giác Ngộ và sau đó giác ngộ cho những kẻ đang sống trong màn vô minh, đau khổ.
Một trong những công việc đầu tiên của Đức Phật là sau khi Giác Ngộ Ngài vẫn trở lại nơi cung điện để giác ngộ những thành viên trong gia đ́nh của Ngài. Thực tế, khi con trai của Ngài (Ruhula) hỏi xin Đức Phật tài sản, Đức Phật đă trao cho Ruhula một tài sản cao quư nhất đó là pháp bảo. Bằng cách này, Đức Phật đă phục vụ gia đ́nh, và Ngài tạo cơ hội cứu độ, cho họ được an lạc và hạnh phúc. Do đó, không nên nói rằng Đức Phật là người cha tàn ác và ích kỷ. Ngài thực sự có ḷng bi mẩn và hy sinh quên ḿnh hơn bất cứ ai trên thế gian này. Với mức độ cao cả của sự phát triển tâm linh, Đức Phật biết rằng hạnh phúc trong hôn nhân là hạnh phúc tạm bợ trong khi Giác Ngộ chánh pháp mới là hạnh phúc trường cửu và lợi lạc quần sanh.
Một sự kiện quan trọng khác là Đức Phật biết vợ con Ngài sẽ không chết đói khi Ngài vắng mặt. Suốt trong đời Đức Phật điều này được xem là hết sức b́nh thường và vinh dự đối với một người trẻ tuổi từ bỏ cuộc sống của một người chủ gia đ́nh, những thành viên khác của ḍng tộc Ngài đă đi theo sự tin cậy của Ngài. Sau khi giác ngộ, Ngài giảng dạy cho họ những pháp mà người cha khác không thể làm được - giải thoát khỏi sự nô lệ của ḷng tham ái.

 

12. SUMMARY

Marriage is a partnership of two individuals and this partnership is enriched and enhanced when it allows the personalities involved to grow. Many marriages fail because one partner tries to "swallow" another or when one demands total freedom. According to Buddhism, marriage means understanding and respecting each other's belief and privacy. A successful marriage is always a two-way path: "humpy, bumpy" — it is difficult but it is always a mutual path.
Young people in this country and elsewhere sometimes think that "old fashioned ideas" are not relevant to modern society. They should be reminded that there are some eternal truths which can never become out-of-date. What was true during the time of Buddha still remains true today.
The so-called modern ideas we receive through the highly glamourous television programs do not represent the way most decent people in the west think or behave. There is a vast "silent majority" of decent couples who are as deeply religious and "conservative" about marriage as any Eastern couple. They do not behave in the manner that the mass media has portrayed them. Not all the people in the west run off to get a divorce or abortion after their first quarrel or dispute.
Decent people all over the world are the same; they are unselfish and care deeply about those whom they love. They make enormous sacrifices and develop love and understanding to ensure happy and stable marriages. So, if you want to ape the west ape the "silent majority": they are no different from your decent neighbor who lives next door to you.
Young people must also listen to their elders because their own understanding about married life is not mature. They should not make hasty conclusions regarding, marriages and divorces. They must have a lot of patience, tolerance and mutual understanding. Otherwise, their life can become very miserable and problematic. Patience, tolerance and understanding are important disciplines to be observed and practiced by all people in marriage. A feeling of security and contentment comes from mutual understanding which is the SECRET of a HAPPY MARRIED LIFE.

12. TÓM TẮT

Hôn nhân là một sự kết hợp của hai cá nhân và sự kết hợp này được phong phú và nâng cao khi có giúp cho những tư cách liên hệ được phát triển. Nhiều cuộc hôn nhân thất bại do bởi một bên này muốn "nuốt chửng" bên kia, hoặc khi có sự đ̣i hỏi quá mức tự do. Theo nhà Phật, hôn nhân có nghĩa là hiểu biết và tôn trọng đức tin và sự riêng tư của nhau. Một cuộc hôn nhân tốt đẹp th́ luôn luôn là một con đường có hai tính cách "gồ ghề, lồi lơm", nó khó khăn nhưng lại là một con đường luôn luôn hổ tương lẫn nhau.
Lớp trẻ ngày nay đôi lúc nghĩ rằng "những ư tưởng lỗi thời" không thích hợp với xă hội hiện đại. Họ cần phải được nhắc nhở rằng có một vài chân lư bất diệt mà không bao giờ có thể lỗi thời. Những ǵ là sự thật trong thời Đức Phật vẫn c̣n đúng cho tới ngày nay.
Cái gọi là những ư tưởng hiện đại mà chúng ta tiếp thu qua những chương tŕnh Ti vi hấp dẫn không tiêu biểu với phong cách mà hầu hết những người có đời sống khuôn phép, đàng hoàng nghĩ suy và cư xử. Có một "đại đa số im lặng" những cặp vợ chồng khuôn phép, mộ đạo và "bảo thủ" về hôn nhân như bất cứ cặp vợ chồng phương Đông nào. Họ không cử xử theo tính cách mà hệ thống thông tin truyền tin đại chúng đă thể hiện. Không phải toàn bộ tất cả những người ở phương Tây chạy đua để ly dị hoặc phá thai sau lần căi vă đầu tiên hoặc tranh chấp.
Những người tử tế khuôn thước trên khắp thế giới đều bao dung và chăm sóc quan tâm sâu sắc những người họ yêu thương. Họ hết ḷng hy sinh để phát huy t́nh thương và hiểu biết để đảm bảo những cuộc hôn nhân hạnh phúc vững bền. Như vậy nếu bạn muốn bắt chước người phương Tây hăy bắt chước "đại đa số im lặng": họ không khác biệt với người hàng xóm khuôn thước sống bên cạnh nhà bạn.
Những người trẻ tuổi phải lắng nghe những bậc cha anh bởi v́ sự hiểu biết của lớp trẻ về đời sống hôn nhân không được chính chắn. Họ đừng nên kết luận về hôn nhân và những sự ly dị. Họ phải có nhiều sự nhẫn nhục, bao dung và hiểu biết lẫn nhau. Nếu không th́ đời sống của họ có thể trở nên hết sức đau khổ và và đầy khó khăn phức tạp. Kiên nhẫn, tha thứ và hiểu biết là những nguyên tắc quan trọng cần được tuân giữ và thực hành đối với những người đă kết hôn. Một cảm giác an toàn và thỏa măn đến từ sự hiểu biết chín chắn đó là Bí quyết của một Đời Sống Hôn Nhân Hạnh Phúc.

 

Appendix I: The Affectionate Mother

In the Buddhist Jataka story — Sonadanda, the Bodhisatta sings the virtues of a mother in the following strain:

Kind, Pitiful, our refuge she that fed us at her breast.
A mother is the way to heaven, and thee she loveth best.
She nursed and fostered us with care; graced with good gifts is she,
A mother is the way to heaven, and best she loveth thee.
Craving a child in prayer she kneels each holy shrine before.
The changing season closely scans and studies astral lore.
Pregnant in course of time she feels her tender longings grow,
And soon the unconscious babe begins a loving friend to know.
Her treasure for a year or less she guards with utmost care,
Then brings it forth and from that day a mother's name will bear.
With milky breast and lullaby she soothes the fretting child,
Wrapped in his comforter's warm arms his woes are soon beguiled.
Watching o'er him, poor innocent, lest wind or hear annoy,
His fostering nurse she may be called, to cherish thus her boy.
What gear his sire and mother have she hoards for him "May be,"
She thinks, "Some day, my dearest child, it all may come to thee."
"Do this or that, my darling boy," the worried mother cries,
And when he is grown to man's estate, she still laments and sighs,
He goes in reckless mood to see a neighbor's wife at night,
She fumes and frets, "Why will he not return while it is light?"
If one thus reared with anxious pains his mother should neglect,
Playing her false, what doom, I pray, but hell can he expect?
Those that love wealth o'er much, 'tis said, their wealth will soon be lost
One that neglects a mother soon will rue it to his cost.
Those that love wealth o'er much, 'tis said, their wealth will soon be lost.
One that neglects a father soon will rue it to his cost.
Gifts, loving speech, kind offices together with the grace
Of calm indifference of mind shown in time and place —
These virtues to the world are as linchpin to chariot wheel.
These lacking, still a mother's name to children would appeal.
A mother like the sire should with reverent honor be crowned,
Sages approve the man in whom those virtues may be found.
Thus parents worthy of all praise, a high position own,
By ancient sages Brahma called. So great was their renown.
Kind parents from their children should receive all reverence due,
He that is wise will honor them with service good and true.
He should provide them food and drink, bedding and raiment meet,
Should bathe them and anoint with oil and duly wash their feet.
So filial services like these sages his praises sound
Here in this world, and after death in heaven his joys bound.

— Jataka translation Vol. V pp. 173, 174

^^^^^

 

Appendix II: Moral Code

1. Social and Moral Code

The most important element of the Buddhist reform has always been its social and moral code. That moral code taken by itself is one of the most perfect which the world has ever known. On this point all testimonials from hostile and friendly quarters agree; philosophers there may have been, religious preachers, subtle metaphysicists, disputants there may have been, but where shall we find such an incarnation of love, love that knows no distinction of caste and creed or color, a love that overflowed even the bounds of humanity, that embraced the whole of sentient beings in its sweep, a love that embodied as the gospel of universal "Maitri" and "Ahimsa."

— Prof. Max Muller, A German Buddhist Scholar

PHỤ LỤC

1. Xă hội và đạo đức

Yếu tố quan trọng nhất của sự đổi mới trong Phật giáo là luôn có giới luật. Giới luật đó được người ta tuân giữ là một điều hoàn hảo nhất mà mọi người đă được biết đến. Về điểm này tất cả những bằng chứng từ sự thù địch và ḷng bao dung cao thượng trở nên ḥa hợp; những nhà triết học chắc hẳn có thể là những nhà truyền giáo, những nhà siêu h́nh học sâu sắc, những người tranh căi chắc hẳn đă có một sự hiểu thấu của t́nh yêu như thế, nhưng ở đây chúng ta sẽ t́m thấy một t́nh yêu mà biết rằng không có sự phân biệt về thành phần, tín điều, hoặc màu da, một t́nh yêu tràn đầy khắp thế gian, đón nhận tất cả chúng sinh trong ṿng tay của nó, một thứ t́nh yêu biểu hiện như là thông điệp của "Maitri và Ahimsa". -- (Giáo sư Max Muller, học giả Phật giáo, người Đức)

 

2. MORALITY IS BASED ON FREEDOM

Buddhist morality is based on freedom, i.e., on individual development. It is therefore relative. In fact there cannot be any ethical principle if there is compulsion or determination from an agent outside ourselves.

— Anagarika B. Govinda, A German Buddhist Scholar

2. GIỚI LUẬT DỰA TRÊN NỀN TẢNG TỰ DO

Giới luật Phật giáo được dựa trên sự tự do, nghĩa là thuộc về sự phát triển cá nhân. Do đó nó cân xứng. Theo thực tế, không thể có bất cứ nguyên tắc đạo đức nào nếu như có sự ép buộc hoặc sự quyết tâm từ một tác nhân bên ngoài bản thân chúng ta. -- (Anagarika B. Govinda, học giả Phật giáo, người Đức)

 

3. KNOWLEDGE AND MORALITY

In Buddhism there can be no real morality without knowledge, no real knowledge without morality; both are bound up together like heat and light in a flame. What constitutes "Bodhi" is not mere intellectual, enlightenment, but humanity. The consciousness of moral excellence is of the very essence of "Bodhi."

— Bhikkhu Dhammapala, A Netherland Buddhist Scholar

3. TRÍ TUỆ VÀ GIỚI LUẬT

Theo nhà Phật, ǵn giữ giới luật tốt không thể thiếu trí tuệ, không có trí tuệ thực sự th́ không thể nào có giới luật; cả hai đều gắn bó với nhau như sức nóng và ánh sáng của ngọn đèn. Những pháp đưa đến sự giác ngộ không chỉ đơn thuần có trí tuệ, tỉnh thức, mà c̣n phải có t́nh yêu thương nhân loại. Sự nhận thức tốt về giới luật chính là tinh hoa của "Sự Giác ngộ". -- (Tỳ Kheo Dhammapàla, nhà học giả Phật giáo người Hà Lan)

--(Hết)

___________

Ghi chú:

(9) ^^^^^

-oOo-

01 | 02 | 03 | | Đầu trang

--- o0o ---

Tŕnh bày: Minh Hạnh & Thiện Pháp

Cập nhật ngày: 01-31-2006

 

--- o0o ---

Y' kiến đóng góp xin gởi đến TT Giác Đẳng
Email:giacdang@phapluan.com

Cập nhật ngày: 01-31-2006