The Buddha says that the Dhamma, the ultimate truth of things, is directly visible, timeless, calling out to be approached and seen. He says further that it is always available to us, and that the place where it is to be realized is within oneself.[49] The ultimate truth, the Dhamma, is not something mysterious and remote, but the truth of our own experience. It can be reached only by understanding our experience, by penetrating it right through to its foundations. This truth, in order to become liberating truth, has to be known directly. It is not enough merely to accept it on faith, to believe it on the authority of books or a teacher, or to think it out through deductions and inferences. It has to be known by insight, grasped and absorbed by a kind of knowing which is also an immediate seeing..

Đức Phật nói rằng Giáo Pháp, chân lý tối thượng của sự vật, có thể nhìn thấy trực tiếp, tại đây và bây giờ, kêu gọi người ta tiếp cận và nhìn thấy. Ngài nói thêm rằng nó luôn có sẵn cho chúng ta, và nơi có thể nhận ra nó là ở chính chúng ta. [49] Giáo pháp, chân lý tối thượng, không phải là một cái gì đó huyền bí và xa vời, mà là sự thật của kinh nghiệm của chính chúng ta. Nó chỉ có thể đạt được bằng cách hiểu kinh nghiệm của chúng ta, bằng cách thâm nhập nó ngay từ những nền tảng của nó. Chân lý này, để trở thành chân lý giải thoát, phải được biết trực tiếp. Chỉ chấp nhận dựa trên đức tin, tin vào sách vở hay của một người thầy, hoặc nghĩ ra thông qua các suy nghĩ và suy luận là chưa đủ. Nó phải được biết bằng cái nhìn sâu sắc, được nắm bắt và được hấp thụ bởi một loại cái biết cũng là cái thấy ngay lập tức .

What brings the field of experience into focus and makes it accessible to insight is a mental faculty called in Pali sati, usually translated as "mindfulness." Mindfulness is presence of mind, attentiveness or awareness. Yet the kind of awareness involved in mindfulness differs profoundly from the kind of awareness at work in our usual mode of consciousness. All consciousness involves awareness in the sense of a knowing or experiencing of an object. But with the practice of mindfulness awareness is applied at a special pitch. The mind is deliberately kept at the level of bare attention, a detached observation of what is happening within us and around us in the present moment. In the practice of right mindfulness the mind is trained to remain in the present, open, quiet, and alert, contemplating the present event. All judgments and interpretations have to be suspended, or if they occur, just registered and dropped. The task is simply to note whatever comes up just as it is occurring, riding the changes of events in the way a surfer rides the waves on the sea. The whole process is a way of coming back into the present, of standing in the here and now without slipping away, without getting swept away by the tides of distracting thoughts.

Điều làm cho tâm được tập trung và giúp tâm có thể tiếp cận được với cái nhìn sâu sắc là năng lực trí tuệ của tâm trong tiếng Pali gọi là sati, dịch là "chánh niệm." Chánh niệm là tâm có mặt tại đây, sự chú ý hoặc tỉnh thức. Nhưng, loại tỉnh thức liên quan đến chánh niệm khác biệt sâu sắc với loại tỉnh thức đang làm việc trong phương thức ý thức thông thường của chúng ta. Tất cả các sự hiểu biết liên quan đến nhận thức theo nghĩa biết hoặc kinh nghiệm về một đối tượng. Nhưng với việc tu tập chánh niệm tỉnh giác được áp dụng ở một cao độ đặc biệt. Tâm được cố ý giữ ở mức độ chú ý vừa đủ, một sự quan sát tách rời về những gì đang xảy ra bên trong chúng ta và xung quanh chúng ta trong giây phút hiện tại. Trong việc tu tập chánh niệm, tâm được rèn luyện để ở ngay trong hiện tại, cởi mở, yên tĩnh và tỉnh táo, suy ngẫm về sự việc hiện tại. Tất cả các sự đánh giá và diễn giải phải bị đình chỉ, hoặc nếu chúng xảy ra, chỉ được ghi nhận và bị loại bỏ. Nhiệm vụ chỉ đơn giản là ghi lại bất cứ điều gì xuất hiện ngay khi nó đang xảy ra, Xử lý những thay đổi của các sự kiện theo cách một người lướt sóng lướt trên những con sóng trên biển. Toàn bộ quá trình là một cách để quay trở lại hiện tại, ở đây và bây giờ, không bị lôi đi, không bị cuốn đi bởi những luồng suy nghĩ sao lãng.

It might be assumed that we are always aware of the present, but this is a mirage. Only seldom do we become aware of the present in the precise way required by the practice of mindfulness. In ordinary consciousness the mind begins a cognitive process with some impression given in the present, but it does not stay with it. Instead it uses the immediate impression as a springboard for building blocks of mental constructs which remove it from the sheer facticity of the datum. The cognitive process is generally interpretative. The mind perceives its object free from conceptualization only briefly. Then, immediately after grasping the initial impression, it launches on a course of ideation by which it seeks to interpret the object to itself, to make it intelligible in terms of its own categories and assumptions. To bring this about the mind posits concepts, joins the concepts into constructs — sets of mutually corroborative concepts — then weaves the constructs together into complex interpretative schemes. In the end the original direct experience has been overrun by ideation and the presented object appears only dimly through dense layers of ideas and views, like the moon through a layer of clouds..

Có thể cho rằng chúng ta tỉnh thức trong hiện tại, nhưng đây chỉ là một ảo tưởng. Chúng ta ít khi tỉnh thức được hiện tại theo cách tu tập chánh niệm đòi hỏi.Trong sự nhận thức bình thường, tâm bắt đầu một quá trình nhận thức với một số ấn tượng được đưa ra trong hiện tại, nhưng không ở lại với nó. Thay vào đó, nó sử dụng ấn tượng ngay khi đó như một bàn đạp để xây dựng các khối cấu trúc tinh thần, loại bỏ nó khỏi tính tiện nghi tuyệt đối của dữ liệu. Quá trình nhận thức nói chung là diễn giải. Tâm chỉ nhận thức đối tượng của nó mà không bị khái niệm hóa trong một thời gian ngắn. Sau đó, ngay sau khi nắm bắt được ấn tượng ban đầu, nó khởi chạy theo một lộ trình lý tưởng mà nó tìm cách giải thích đối tượng cho chính nó, để làm cho nó dễ hiểu về các phạm trù và giả định của riêng nó. Để làm được điều này, tâm đặt ra các khái niệm, nối các khái niệm thành các cấu trúc - tập hợp các khái niệm có tính xác thực lẫn nhau - sau đó đan các cấu trúc lại với nhau thành các sơ đồ diễn giải phức tạp. Cuối cùng trải nghiệm trực tiếp ban đầu đã bị lý tưởng lấn át và đối tượng được trình bày chỉ xuất hiện lờ mờ qua các lớp ý tưởng và quan điểm dày đặc, giống như mặt trăng xuyên qua một lớp mây .

The Buddha calls this process of mental construction papañca, "elaboration," "embellishment," or "conceptual proliferation." The elaborations block out the presentational immediacy of phenomena; they let us know the object only "at a distance," not as it really is. But the elaborations do not only screen cognition; they also serve as a basis for projections. The deluded mind, cloaked in ignorance, projects its own internal constructs outwardly, ascribing them to the object as if they really belonged to it. As a result, what we know as the final object of cognition, what we use as the basis for our values, plans, and actions, is a patchwork product, not the original article. To be sure, the product is not wholly illusion, not sheer fantasy. It takes whatis given in immediate experience as its groundwork and raw material, but along with this it includes something else: the embellishments fabricated by the mind.

Đức Phật gọi quá trình giải thích tinh thần này là ảo tưởng (papañca), "sự chế tạo ra", "sự thêm thắt,", hay "thuộc về quan niệm." Việc chế tạo ra ngăn chặn tính tức thời của hiện tượng; chúng chỉ cho chúng ta biết đối tượng "ở sự cách biệt", không phải như thực tế. Nhưng những sự thêm thắt không chỉ sàng lọc nhận thức; chúng cũng dùng làm cơ sở cho các sự hình thành cụ thể. Tâm bị si mê, bị che đậy trong vô minh, đưa các cấu trúc bên trong của chính nó ra bên ngoài, mô tả chúng vào đối tượng như thể chúng thực sự thuộc về nó. Do đó, những gì chúng ta biết là đối tượng cuối cùng của nhận thức, những gì chúng ta sử dụng làm nền tảng cho các giá trị, kế hoạch và hành động của mình, là một sản phẩm chắp vá, không phải là điều mục nguyên thủy gốc. Để chắc chắn, sản phẩm không phải là ảo tưởng hoàn toàn, không phải là ảo tưởng. Nó lấy những gì được đưa ra trong kinh nghiệm ngay lập tức làm nền tảng và nguyên liệu thô của nó, nhưng cùng với điều này, nó bao gồm một thứ khác: những tác phẩm được thêm thắt do trí tạo ra.  

The springs for this process of fabrication, hidden from view, are the latent defilements. The defilements create the embellishments, project them outwardly, and use them as hooks for coming to the surface, where they cause further distortion. To correct the erroneous notions is the task of wisdom, but for wisdom to discharge its work effectively, it needs direct access to the object as it is in itself, uncluttered by the conceptual elaborations. The task of right mindfulness is to clear up the cognitive field. Mindfulness brings to light experience in its pure immediacy. It reveals the object as it is before it has been plastered over with conceptual paint, overlaid with interpretations. To practice mindfulness is thus a matter not so much of doing but of undoing: not thinking, not judging, not associating, not planning, not imagining, not wishing. All these "doings" of ours are modes of interference, ways the mind manipulates experience and tries to establish its dominance. Mindfulness undoes the knots and tangles of these "doings" by simply noting. It does nothing but note, watching each occasion of experience as it arises, stands, and passes away. In the watching there is no room for clinging, no compulsion to saddle things with our desires. There is only a sustained contemplation of experience in its bare immediacy, carefully and precisely and persistently.

Nguồn gốc quá trình sự hình thành này, bị che khuất khỏi tầm nhìn, là những ô nhiễm tiềm ẩn. Phiền não được tô điểm, phóng chiếu chúng ra bên ngoài, và sử dụng chúng như những cái móc để lên bề mặt, nơi chúng gây ra thêm sự biến dạng. Để chỉnh đốn những quan niệm sai lầm là nhiệm vụ của trí tuệ, nhưng để trí tuệ loại trừ nó một cách hiệu quả, nó cần tiếp cận trực tiếp với đối tượng như bản thân nó vốn có, không bị che lấp bởi những sự thêm thắt. Nhiệm vụ của chánh niệm là làm sáng tỏ lĩnh vực nhận thức. Chánh niệm mang lại trải nghiệm ánh sáng thuần túy ngay lập tức. Nó cho thấy đối tượng thật sự trước khi nó được trát lên bằng lớp sơn khái niệm, phủ lên trên những thêm thắt. Vì vậy, để tu tập chánh niệm không phải là việc cần làm nhiều mà chỉ là : không suy nghĩ, không phán xét, không liên tưởng, không lập kế hoạch, không tưởng tượng, không ước ao. Tất cả những "hành động" này của chúng ta là các phương thức can thiệp, cách tâm trí thao túng kinh nghiệm và cố gắng thiết lập sự thống trị của nó. Chánh niệm sẽ gỡ bỏ những nút thắt và rối ren của những "việc làm" này bằng cách ghi nhận một cách đơn giản. Nó không làm gì khác ngoài việc ghi nhận, theo dõi từng việc kinh qua khi nó sinh ra, tồn tại và diệt. Trong sự quan sát không có chỗ cho sự bám víu, không có sự ép buộc vào những thứ yên ổn với mong muốn của chúng ta. Chỉ có một sự quán chiếu lâu dài về kinh nghiệm trong tính tức thời trần trụi của nó, một cách cẩn thận, chính xác và bền bỉ.

Mindfulness exercises a powerful grounding function. It anchors the mind securely in the present, so it does not float away into the past and future with their memories, regrets, fears, and hopes. The mind without mindfulness is sometimes compared to a pumpkin, the mind established in mindfulness to a stone.[50] A pumpkin placed on the surface of a pond soon floats away and always remains on the water's surface. But a stone does not float away; it stays where it is put and at once sinks into the water until it reaches bottom. Similarly, when mindfulness is strong, the mind stays with its object and penetrates its characteristics deeply. It does not wander and merely skim the surface as the mind destitute of mindfulness does.

Chánh niệm rèn luyện một chức năng nền tảng mạnh mẽ. Nó kềm giữ tâm trong hiện tại một cách an tòan, vì vậy nó không buông trôi theo quá khứ và tương lai với những ký ức, hối tiếc, sợ hãi và hy vọng của chúng. Tâm không có chánh niệm đôi khi được so sánh với một quả bí ngô, tâm được thiết lập trong chánh niệm giống như một viên đá. .[50] Một quả bí ngô đặt trên mặt ao sẽ sớm trôi đi và luôn ở trên mặt nước. Nhưng một hòn đá không trôi đi; nó sẽ ở lại nơi nó được đặt và ngay lập tức chìm vào trong nước cho đến khi nó chạm đáy. Tương tự như vậy, khi chánh niệm mạnh mẽ, tâm ở lại với đối tượng của nó và nhìn sâu sắc xuyên qua các đặc tính của nó. Nó không đi lang thang và chỉ lướt qua bề mặt như tâm không có chánh niệm.

Mindfulness facilitates the achievement of both serenity and insight. It can lead to either deep concentration or wisdom, depending on the mode in which it is applied. Merely a slight shift in the mode of application can spell the difference between the course the contemplative process takes, whether it descends to deeper levels of inner calm culminating in the stages of absorption, the jhanas, or whether instead it strips away the veils of delusion to arrive at penetrating insight. To lead to the stages of serenity the primary chore of mindfulness is to keep the mind on the object, free from straying. Mindfulness serves as the guard charged with the responsibility of making sure that the mind does not slip away from the object to lose itself in random undirected thoughts. It also keeps watch over the factors stirring in the mind, catching the hindrances beneath their camouflages and expelling them before they can cause harm. To lead to insight and the realizations of wisdom, mindfulness is exercised in a more differentiated manner. Its task, in this phase of practice, is to observe, to note, to discern phenomena with utmost precision until their fundamental characteristics are brought to light.

Chánh niệm làm cho dễ dàng đạt được cả sự thanh thản và sáng suốt. Nó có thể đưa đến sự tập trung sâu sắc hoặc trí tuệ, tùy thuộc vào phương thức được áp dụng. Chỉ một chút thay đổi trong phương thức áp dụng cũng có thể đánh dấu sự khác biệt giữa tiến trình mà quá trình quán chiếu diễn ra, cho dù nó đi xuống mức sâu hơn của sự tĩnh lặng bên trong, đỉnh điểm là giai đoạn hấp thụ, thiền, hay liệu thay vào đó nó có loại bỏ bức màn của ảo tưởng. để đi đến cái nhìn sâu sắc. Để dẫn đến giai đoạn thanh thản, công việc chủ yếu của chánh niệm là giữ tâm trên đối tượng, không bị lạc hướng. Chánh niệm đóng vai trò như một người bảo vệ có trách nhiệm đảm bảo rằng tâm không rời xa đối tượng để đánh mất chính mình trong những suy nghĩ vô hướng ngẫu nhiên. Nó cũng theo dõi các yếu tố khuấy động trong tâm , tìm ra những cản trở bên dưới lớp ngụy trang của chúng và trục xuất chúng trước khi chúng có thể gây hại. Để dẫn đến sự sáng suốt và nhận ra trí tuệ, chánh niệm được thực hiện theo một cách khác biệt hơn. Nhiệm vụ của nó, trong giai đoạn tu tập này, là quan sát, ghi nhận, phân biệt các hiện tượng với độ chính xác cao nhất cho đến khi các đặc điểm cơ bản của chúng được đưa ra ánh sáng.

Right mindfulness is cultivated through a practice called "the four foundations of mindfulness" (cattaro satipatthana), the mindful contemplation of four objective spheres: the body, feelings, states of mind, and phenomena.[51] As the Buddha explains:

Chánh niệm được trau dồi qua việc tu tập "Tứ niệm xứ" (cattaro satipatthana), chánh niệm về bốn lĩnh vực khách quan: Niệm thân, niệm thọ, niệm tâm, niệm pháp . [51] Như Đức Phật giải thích:

And what, monks, is right mindfulness? Herein, a monk dwells contemplating the body in the body, ardent, clearly comprehending and mindful, having put away covetousness and grief concerning the world. He dwells contemplating feelings in feelings... states of mind in states of mind... phenomena in phenomena, ardent, clearly comprehending and mindful, having put away covetousness and grief concerning the world.[52]

Này các Tỷ kheo, thế nào là Chánh niệm? Này các Tỷ kheo, ở đây vị Tỷ kheo sống quán thân trên thân, tinh tấn, tỉnh giác, chánh niệm, để chế ngự tham ưu ở đời; trên các cảm thọ... trên các tâm... quán pháp trên các pháp, tinh cần tỉnh giác, chánh niệm, để chế ngự tham ưu ở đời. Này các Tỷ kheo, như vậy gọi là Chánh niệm. [52]

The Buddha says that the four foundations of mindfulness form "the only way that leads to the attainment of purity, to the overcoming of sorrow and lamentation, to the end of pain and grief, to the entering upon the right path and the realization of Nibbana."[53] They are called "the only way" (ekayano maggo), not for the purpose of setting forth a narrow dogmatism, but to indicate that the attainment of liberation can only issue from the penetrating contemplation of the field of experience undertaken in the practice of right mindfulness.

Đức Phật nói rằng Tứ Niệm Xứ là "con đường độc nhất" dẫn đến sự đạt được thanh tịnh, vượt qua phiền não và ưu bi , chấm dứt đau đớn và sầu khổ, để đi vào con đường chánh và chứng ngộ Niết bàn. "[53] Chúng được gọi là" con đường độc nhất "(ekayano maggo), không nhằm mục đích đặt ra một chủ nghĩa giáo điều hẹp hòi, nhưng để chỉ ra rằng việc đạt được giải thoát chỉ có thể đạt được từ sự quán chiếu xuyên suốt về lĩnh vực kinh nghiệm được thực hiện. trong việc tu tập chánh niệm.

Of the four applications of mindfulness, the contemplation of the body is concerned with the material side of existence; the other three are concerned principally (though not solely) with the mental side. The completion of the practice requires all four contemplations. Though no fixed order is laid down in which they are to be taken up, the body is generally taken first as the basic sphere of contemplation; the others come into view later, when mindfulness has gained in strength and clarity. Limitations of space do not allow for a complete explanation of all four foundations. Here we have to settle for a brief synopsis.

Trong bốn phương cách của chánh niệm, quán thân có liên quan đến khía cạnh vật chất của sự hiện hữu; ba điều còn lại liên quan chủ yếu (mặc dù không chỉ) về mặt tinh thần. Việc hoàn thành sự tu tập đòi hỏi tất cả bốn quán niệm (thân, thọ, tâm, pháp). Mặc dù không có thứ tự cố định nào được thiết lập , nhưng thân thường được coi là lĩnh vực cơ bản của sự quán chiếu; những pháp khác tiếp theo sau đó, khi chánh niệm đã đạt được sức mạnh và sự sáng suốt. Vì sự hạn chế của bài viết không cho phép giải thích đầy đủ cả bốn pháp tu này. Ở đây chúng ta chỉ giải thích tóm tắt ngắn gọn.

(1) Contemplation (kayanupassana)

(1) Thân Quán Niệm Xứ (kayanupassana)

The Buddha begins his exposition of the body with contemplation of the mindfulness of breathing (anapanasati). Though not required as a starting point for meditation, in actual practice mindfulness of breathing usually serves as the "root meditation subject" (mulakammatthana), the foundation for the entire course of contemplation. It would be a mistake, however, to consider this subject merely an exercise for neophytes. By itself mindfulness of breathing can lead to all the stages of the path culminating in full awakening. In fact it was this meditation subject that the Buddha used on the night of his own enlightenment. He also reverted to it throughout the years during his solitary retreats, and constantly recommended it to the monks, praising it as "peaceful and sublime, an unadulterated blissful abiding, which banishes at once and stills evil unwholesome thoughts as soon as they arise" (MN 118).

Đức Phật bắt đầu việc thân quán niệm xứ bằng quán niệm hơi thở (anapanasati). Mặc dù không bắt buộc phải là điểm khởi đầu cho thiền định, nhưng trong thực tế khi tu tập, chánh niệm về hơi thở thường được coi là "căn bản thiền" (mulakammatthana), nền tảng cho toàn bộ quá trình quán chiếu. Tuy nhiên, sẽ là một sai lầm nếu coi thiền quán hơi thở chỉ đơn thuần là một bài tập dành cho thiền sình mới tu. Tự nó, chánh niệm về hơi thở có thể dẫn đến tất cả các giai đoạn của con đường đạo mà đỉnh cao là tỉnh thức hoàn toàn. Trên thực tế, đó là đề mục thiền định Đức Phật đã quán chiếu trong đêm thành đạo của chính Ngài. Ngài cũng tu tập trong suốt nhiều năm trong các cuộc nhập thất đơn độc của Ngài, và liên tục giới thiệu nó với đệ tử, ca ngợi nó là "an lạc và cao thượng, an trú hạnh phúc không sai lầm, có thể xua đuổi ngay lập tức và xóa bỏ những ý nghĩ bất thiện xấu xa ngay khi chúng phát sinh" ( MN 118).

Mindfulness of breathing can function so effectively as a subject of meditation because it works with a process that is always available to us, the process of respiration. What it does to turn this process into a basis for meditation is simply to bring it into the range of awareness by making the breath an object of observation. The meditation requires no special intellectual sophistication, only awareness of the breath. One merely breathes naturally through the nostrils keeping the breath in mind at the contact point around the nostrils or upper lip, where the sensation of breath can be felt as the air moves in and out. There should be no attempt to control the breath or to force it into predetermined rhythms, only a mindful contemplation of the natural process of breathing in and out. The awareness of breath cuts through the complexities of discursive thinking, rescues us from pointless wandering in the labyrinth of vain imaginings, and grounds us solidly in the present. For whenever we become aware of breathing, really aware of it, we can be aware of it only in the present, never in the past or the future.

Chánh niệm về hơi thở là chức năng rất hiệu quả cho chủ đề thiền định bởi vì nó thao tác với một quá trình luôn có sẵn đối với chúng ta, quá trình hơi thở. Những gì nó làm để biến quá trình này thành cơ sở cho thiền chỉ đơn giản là đưa nó vào phạm vi nhận thức bằng cách biến hơi thở trở thành đối tượng quan sát. Việc thiền định không đòi hỏi sự tinh vi đặc biệt của trí tuệ, mà chỉ có nhận thức về hơi thở. Hành giả chỉ thở một cách tự nhiên qua lỗ mũi, giữ hơi thở trong tâm ở điểm tiếp xúc xung quanh lỗ mũi hoặc môi trên, nơi có thể cảm nhận được cảm giác hơi thở khi không khí di chuyển vào và ra. Không nên cố gắng kiểm soát hơi thở hoặc ép nó vào những nhịp điệu đã định trước, chỉ nên quán niệm về tiến trình tự nhiên của hơi thở vào và hơi thở ra. Nhận thức về hơi thở cắt đứt sự phức tạp của tư duy rời rạc, giải thoát chúng ta khỏi sự lang thang vô nghĩa trong mê cung của những tưởng tượng viển vông, và tạo cơ sở vững chắc cho chúng ta ở hiện tại. Vì bất cứ khi nào chúng ta ý thức được hơi thở, thực sự nhận thức được nó, chúng ta chỉ có thể nhận thức được nó trong hiện tại, không bao giờ trong quá khứ hay tương lai.

The Buddha's exposition of mindfulness of breathing involves four basic steps. The first two (which are not necessarily sequential) require that a long inhalation or exhalation be noted as it occurs, and that a short inhalation or exhalation be noted as it occurs. One simply observes the breath moving in and out, observing it as closely as possible, noting whether the breath is long or short. As mindfulness grows sharper, the breath can be followed through the entire course of its movement, from the beginning of an inhalation through its intermediary stages to its end, then from the beginning of an exhalation through its intermediary stages to its end. This third step is called "clearly perceiving the entire (breath) body." The fourth step, "calming the bodily function," involves a progressive quieting down of the breath and its associated bodily functions until they become extremely fine and subtle. Beyond these four basic steps lie more advanced practices which direct mindfulness of breathing towards deep concentration and insight.[54]

Đức Phật giải thích niệm thở qua bốn bước cơ bản. Hai cách đầu tiên (không nhất thiết phải tuần tự) đòi hỏi ghi nhận quá trình khi đang thở vào dài hoặc thở ra dài, và ghi nhận quá trình khi thở vào ngắn hoặc thở ra ngắn. Người ta chỉ cần quan sát hơi thở di chuyển vào và ra, quan sát nó càng kỹ càng tốt, chú ý xem hơi thở dài hay ngắn. Khi chánh niệm phát triển mạnh hơn, hơi thở có thể được theo sát trong toàn bộ quá trình chuyển động của nó, từ lúc bắt đầu thở vào qua các giai đoạn trung gian cho đến khi kết thúc, sau đó từ khi bắt đầu thở ra qua các giai đoạn trung gian cho đến khi kết thúc. Bước thứ ba này được gọi là "nhận thức rõ ràng toàn bộ (hơi thở) thân." Bước thứ tư, "làm dịu chức năng cơ thể", liên quan đến việc hơi thở dần dần lắng xuống và các chức năng của thân liên quan của nó cho đến khi chúng trở nên cực kỳ tốt và tinh tế. Ngoài bốn bước cơ bản này còn có những thực hành nâng cao hơn hướng chánh niệm về hơi thở hướng tới sự tập trung sâu và sáng suốt. [54]

 

Another practice in the contemplation of the body, which extends meditation outwards from the confines of a single fixed position, is mindfulness of the postures. The body can assume four basic postures — walking, standing, sitting, and lying down — and a variety of other positions marking the change from one posture to another. Mindfulness of the postures focuses full attention on the body in whatever position it assumes: when walking one is aware of walking, when standing one is aware of standing, when sitting one is aware of sitting, when lying down one is aware of lying down, when changing postures one is aware of changing postures. The contemplation of the postures illuminates the impersonal nature of the body. It reveals that the body is not a self or the belonging of a self, but merely a configuration of living matter subject to the directing influence of volition..

Một cách tu tập hành khác trong việc quán niệm thân, giúp mở rộng thiền định ra bên ngoài khỏi giới hạn của một tư thế cố định duy nhất, là chánh niệm về các oai nghi. Thân có bốn tư thế oai nghi cơ bản - đi, đứng, ngồi và nằm - và một loạt các tư thế khác đánh dấu sự thay đổi từ tư thế này sang tư thế khác. Chánh niệm về các tư thế tập trung toàn bộ sự chú ý vào thân ở bất kỳ tư thế nào mà nó giả định: khi đi hành giả ý thức đi, khi đứng hành giả ý thức đứng, khi ngồi hành giả ý thức ngồi, khi nằm xuống hành giả ý thức nằm xuống, khi thay đổi tư thế hành giả nhận thức được việc thay đổi tư thế. Việc tu tập niệm thân các tư thế cho thấy bản chất vô ngã của thân. Nó cho thấy rằng thân không phải là một cái tôi hay thuộc về một cái tôi, mà chỉ đơn thuần là một hình thành của vật chất sống chịu ảnh hưởng trực tiếp của hành động .

The next exercise carries the extension of mindfulness a step further. This exercise, called "mindfulness and clear comprehension" (satisampajañña), adds to the bare awareness an element of understanding. When performing any action, one performs it with full awareness or clear comprehension. Going and coming, looking ahead and looking aside, bending and stretching, dressing, eating, drinking, urinating, defecating, falling asleep, waking up, speaking, remaining silent — all become occasions for the progress of meditation when done with clear comprehension. In the commentaries clear comprehension is explained as fourfold: (1) understanding the purpose of the action, i.e., recognizing its aim and determining whether that aim accords with the Dhamma; (2) understanding suitability, i.e., knowing the most efficient means to achieve one's aim; (3) understanding the range of meditation, i.e., keeping the mind constantly in a meditative frame even when engaged in action; and (4) understanding without delusion, i.e., seeing the action as an impersonal process devoid of a controlling ego-entity.[55] This last aspect will be explored more thoroughly in the last chapter, on the development of wisdom.

Bài tập tiếp theo giúp mở rộng chánh niệm thêm một bước nữa. Bài tập này, được gọi là "chánh niệm tỉnh giác" (satisampajañña), thêm vào nhận thức trần trụi một yếu tố của sự hiểu biết. Khi thực hiện bất kỳ hành động nào, người ta thực hiện hành động đó với nhận thức đầy đủ hoặc hiểu biết rõ ràng. Đi và đến, nhìn trước và nhìn sang bên, cúi và duỗi, mặc quần áo, ăn, uống, đi tiểu, đại tiện, ngủ, thức dậy, nói, giữ im lặng - tất cả đều trở thành cơ hội cho sự tiến bộ của thiền khi được thực hiện với sự hiểu biết rõ ràng. Trong các chú giải, sự hiểu biết rõ ràng được giải thích gồm bốn thứ: (1) hiểu mục đích của hành động, tức là, nhận ra mục đích của nó và xác định xem mục đích đó có phù hợp với Giáo pháp hay không; (2) hiểu sự phù hợp, tức là, biết các phương tiện hiệu quả nhất để đạt được mục tiêu của một người; (3) hiểu phạm vi thiền định, tức là, giữ tâm trí liên tục trong khuôn khổ thiền định ngay cả khi đang hành động; và (4) hiểu mà không ảo tưởng, tức là coi hành động như một quá trình phi cá nhân không có một thực thể bản ngã kiểm soát. [55] Khía cạnh cuối cùng này sẽ được được triển khai kỹ lưỡng hơn trong chương cuối, về sự phát triển của trí tuệ.

The next two sections on mindfulness of the body present analytical contemplations intended to expose the body's real nature. One of these is the meditation on the body's unattractiveness, already touched on in connection with right effort; the other, the analysis of the body into the four primary elements. The first, the meditation on unattractiveness,[56] is designed to counter infatuation with the body, especially in its form of sexual desire. The Buddha teaches that the sexual drive is a manifestation of craving, thus a cause of dukkha that has to be reduced and extricated as a precondition for bringing dukkha to an end. The meditation aims at weakening sexual desire by depriving the sexual urge of its cognitive underpinning, the perception of the body as sensually alluring. Sensual desire rises and falls together with this perception. It springs up because we view the body as attractive; it declines when this perception of beauty is removed. The perception of bodily attractiveness in turn lasts only so long as the body is looked at superficially, grasped in terms of selected impressions. To counter that perception we have to refuse to stop with these impressions but proceed to inspect the body at a deeper level, with a probing scrutiny grounded in dispassion.

Hai phần tiếp theo về niệm thân trình bày những quán chiếu phân tích nhằm phơi bày bản chất thực của thân. Một trong số đó là quán niệm về thể trược cấu uế của thân đã được đề cập đến trong phần chánh tinh tấn; , phân tích thân thành bốn yếu tố chính. Đầu tiên, thiền định về thể trược cấu uế của thân, [56] được tu tập để chống lại sự mê đắm cơ thể, đặc biệt là ở dạng ham muốn tình dục. Đức Phật dạy rằng ham muốn tình dục là một biểu hiện của tham ái, do đó, mọi nguyên nhân của khổ phải được giảm bớt và mở rộng như một điều kiện tiên quyết để đưa đến sự giải thoát khỏi khổ. Thiền định nhằm mục đích làm suy yếu ham muốn tình dục bằng cách xoá bỏ ham muốn tình dục từ nền tảng nhận thức của nó, nhận thức thân là hấp dẫn về mặt cảm quan. Ham muốn nhục dục tăng và giảm cùng với nhận thức này. Nó nảy nở bởi vì chúng ta xem cơ thể là hấp dẫn; nó suy giảm khi nhận thức về vẻ đẹp này bị loại bỏ. Quán niệm thân, nhận thức về sự hấp dẫn của thân chỉ tồn tại khi được nhìn từ bề ngoài, nắm bắt theo những ấn tượng đã chọn. Để ngược lại nhận thức đó, chúng ta phải chống lại những ấn tượng này mà tiến hành kiểm tra cơ thể ở mức độ bên trong sâu hơn, với một sự giám sát thăm dò dựa trên sự phân biệt.

Precisely this is what is undertaken in the meditation on unattractiveness, which turns back the tide of sensuality by pulling away its perceptual prop. The meditation takes one's own body as object, since for a neophyte to start off with the body of another, especially a member of the opposite sex, might fail to accomplish the desired result. Using visualization as an aid, one mentally dissects the body into its components and investigates them one by one, bringing their repulsive nature to light. The texts mention thirty-two parts: head-hairs, body-hairs, nails, teeth, skin, flesh, sinews, bones, marrow, kidneys, heart, liver, diaphragm, spleen, lungs, large intestines, small intestines, stomach contents, excrement, brain, bile, phlegm, pus, blood, sweat, fat, tears, grease, snot, spittle, sinovial fluid, and urine. The repulsiveness of the parts implies the same for the whole: the body seen closeup is truly unattractive, its beautiful appearance a mirage. But the aim of this meditation must not be misapprehended. The aim is not to produce aversion and disgust but detachment, to extinguish the fire of lust by removing its fuel.[57].

Đúng vậy, đây là điều bảo đảm trong quá trình thiền định về quán bất tịnh, điều này làm đảo ngược xu hướng ham muốn nhục dục bằng cách làm mất đi chỗ dựa tri giác của nó. Việc thiền định lấy cơ thể của chính mình làm đối tượng, vì đối với một hành giả mới bắt đầu bằng cơ thể của người khác, đặc biệt là một người khác giới, có thể không đạt được kết quả mong muốn. Sử dụng hình dung như một biện pháp hỗ trợ, một người quán niệm thân sẽ chia cơ thể thành các thành phần của nó và thẩm tra từng thành phần một, đưa chúng ra ánh sáng. Trong kinh đề cập đến ba mươi hai thể trược: lông trên đầu, lông trên cơ thể, móng tay, răng, da, thịt, gân, xương, tủy, thận, tim, gan, cơ hoành, lá lách, phổi, ruột già, ruột non, dạ dày. , phân, não, mật, đờm, mủ, máu, mồ hôi, mỡ, nước mắt, dầu mỡ, nước dãi, nước bọt, nước tiểu. Sự nhàm chán các bộ phận giống nhau đối với toàn thân: cơ thể được nhìn cận cảnh thực sự không hấp dẫn, vẻ ngoài đẹp đẽ của nó là một ảo ảnh. Nhưng mục đích của thiền này không được hiểu sai. Mục đích không phải là tạo ra ác cảm và ghê tởm mà là không đắm chìm vào nó, dập tắt ngọn lửa dục vọng bằng cách loại bỏ dục. [57].  

The other analytical contemplation deals with the body in a different way. This meditation, called the analysis into elements (dhatuvavatthana), sets out to counter our innate tendency to identify with the body by exposing the body's essentially impersonal nature. The means it employs, as its name indicates, is the mental dissection of the body into the four primary elements, referred to by the archaic names earth, water, fire, and air, but actually signifying the four principal behavioral modes of matter: solidity, fluidity, heat, and oscillation. The solid element is seen most clearly in the body's solid parts — the organs, tissues, and bones; the fluid element, in the bodily fluids; the heat element, in the body's temperature; the oscillation element, in the respiratory process. The break with the identification of the body as "I" or "my self" is effected by a widening of perspective after the elements have come into view. Having analyzed the body into the elements, one then considers that all four elements, the chief aspects of bodily existence, are essentially identical with the chief aspects of external matter, with which the body is in constant interchange. When one vividly realizes this through prolonged meditation, one ceases to identify with the body, ceases to cling to it. One sees that the body is nothing more than a particular configuration of changing material processes which support a stream of changing mental processes. There is nothing here that can be considered a truly existent self, nothing that can provide a substantial basis for the sense of personal identity.[58].

Sự quán chiếu phân tích niệm thân theo một cách khác. Thiền này, được gọi là quán "Sự phân tích các yếu tố thân thể;" (dhatuvavatthana), một trong bốn mươi bài thực tập thiền định nhằm phân giải thân thể mình chỉ là một sản phẩm của tứ đại (đất, nước, lửa, gió). Nhờ những thực tập nầy hành giả trừ bỏ được ảo giác về tôi, bản ngã thường trực . Phương tiện sử dụng, như tên gọi của nó, là tâm phân chia cơ thể thành bốn yếu tố chính, được gọi bằng những cái tên cổ xưa là đất, nước, lửa và gió, nhưng thực sự biểu thị bốn yếu tố chính của vật chất: tính rắn , tính lưu động, nhiệt và dao động. Yếu tố rắn được nhìn thấy rõ ràng nhất trong các bộ phận rắn của cơ thể - các cơ quan, mô và xương; phần tử chất lỏng, chất lỏng của cơ thể; yếu tố nhiệt, nhiệt độ của cơ thể; phần tử dao động, trong quá trình hô hấp. Sự phá vỡ với việc xác định cơ thể là "tôi" hay "bản ngã của tôi" được thực hiện bằng cách mở rộng góc nhìn sau khi các yếu tố đã được nhìn thấy. Sau khi phân tích cơ thể thành phần các yếu tố, sau đó hành giả cho rằng cả bốn yếu tố, các khía cạnh chính của sự tồn tại của cơ thể, về cơ bản giống hệt với các khía cạnh chính của vật chất bên ngoài, mà cơ thể luôn thay đổi liên tục. Khi hành giả nhận ra điều này một cách sống động thông qua thiền định kéo dài, hành giả sẽ không còn đồng nhất với cơ thể, không còn bám víu vào nó. Hành giả thấy rằng cơ thể không gì khác hơn là một cấu trúc cụ thể của các quá trình vật chất thay đổi, hỗ trợ một dòng các quá trình tinh thần thay đổi. Không có gì ở đây có thể được coi là cái ngã thực sự tồn tại, không có gì có thể cung cấp cơ sở đáng kể cho ý thức về bản ngã cá nhân. [58].

The last exercise in mindfulness of the body is a series of "cemetery meditations," contemplations of the body's disintegration after death, which may be performed either imaginatively, with the aid of pictures, or through direct confrontation with a corpse. By any of these means one obtains a clear mental image of a decomposing body, then applies the process to one's own body, considering: "This body, now so full of life, has the same nature and is subject to the same fate. It cannot escape death, cannot escape disintegration, but must eventually die and decompose." Again, the purpose of this meditation should not be misunderstood. The aim is not to indulge in a morbid fascination with death and corpses, but to sunder our egoistic clinging to existence with a contemplation sufficiently powerful to break its hold. The clinging to existence subsists through the implicit assumption of permanence. In the sight of a corpse we meet the teacher who proclaims unambiguously: "Everything formed is impermanent."

Bài tu tập cuối cùng về niệm thân là một loạt các bài "quán tử thi tại các nghĩa trang", những thiền quán về sự tan rã của cơ thể sau khi chết, có thể được thực hiện bằng trí tưởng tượng, với sự trợ giúp của hình ảnh, hoặc thông qua trực tiếp quán sát một xác chết. Bằng bất kỳ phương tiện nào trong số này, hành giả có được hình ảnh rõ ràng về một cơ thể đang phân hủy, sau đó áp dụng quy trình cho cơ thể của chính mình, xem xét: "Cơ thể này, hiện đang tràn đầy sức sống, có cùng bản chất và chịu chung số phận. Nó không thể thoát chết, không thoát được tan rã mà cuối cùng phải chết, bị phân hủy ”. Một lần nữa, mục đích của thiền này không nên bị hiểu lầm. Mục đích không phải là để mê đắm cái chết và xác chết, mà là để ngăn cản sự bám víu vào sự tồn tại của bản ngã bằng một sự chiêm nghiệm mạnh mẽ để phá vỡ sự níu giữ của nó. Sự bám víu vào sự tồn tại tồn tại thông qua giả định ngầm về tính vĩnh cửu. Khi nhìn thấy một xác chết, chúng ta đã gặp vị Đức Phật tuyên bố một cách rõ ràng: "Các pháp hữu vi là vô thường."

(2) Contemplation of Feeling (vedananupassana)

(2) Thọ Quán Niệm Xứ (vedananupassana)

The next foundation of mindfulness is feeling (vedana). The word "feeling" is used here, not in the sense of emotion (a complex phenomenon best subsumed under the third and fourth foundations of mindfulness), but in the narrower sense of the affective tone or "hedonic quality" of experience. This may be of three kinds, yielding three principal types of feeling: pleasant feeling, painful feeling, and neutral feeling. The Buddha teaches that feeling is an inseparable concomitant of consciousness, since every act of knowing is colored by some affective tone. Thus feeling is present at every moment of experience; it may be strong or weak, clear or indistinct, but some feeling must accompany the cognition.

Nền tảng tiếp theo của chánh niệm là Thọ quán niệm xứ (thọ uẩn, cảm xúc - vedana), cụm từ "cảm xúc" được sử dụng ở đây, không phải theo nghĩa cảm xúc (một hiện tượng phức tạp hài lòng được gộp chung trong nền tảng thứ ba và thứ tư của chánh niệm), mà theo nghĩa hẹp hơn của tình cảm hoặc "phẩm chất khoái lạc" của trải nghiệm. Đây có thể là ba loại, mang lại ba loại cảm xúc chính: cảm xúc dễ chịu, cảm xúc đau đớn và cảm xúc khoái lạc. Đức Phật dạy rằng cảm xúc là một thể đồng hành không thể tách rời của ý thức, vì mọi hành động biết đều được tô màu bởi một giai điệu cảm xúc nào đó. Vì vậy, cảm xúc hiện diện trong mọi khoảnh khắc của kinh nghiệm; nó có thể mạnh hoặc yếu, rõ ràng hoặc không rõ ràng, nhưng một số cảm xúc phải đi kèm với nhận thức.

Feeling arises in dependence on a mental event called "contact" (phassa). Contact marks the "coming together" of consciousness with the object via a sense faculty; it is the factor by virtue of which consciousness "touches" the object presenting itself to the mind through the sense organ. Thus there are six kinds of contact distinguished by the six sense faculties — eye-contact, ear-contact, nose-contact, tongue-contact, body-contact, and mind-contact — and six kinds of feeling distinguished by the contact from which they spring.

Cảm xúc phát sinh trong sự va chạm vào một vật gì đó được gọi là "tiếp xúc" (phassa). Tiếp xúc đánh dấu sự "đến cùng nhau" của ý thức với đối tượng thông qua một giác quan; nó là yếu tố mà ý thức "chạm" vào đối tượng tự trình bày với tâm thông qua cơ quan cảm giác. Như vậy, có sáu loại tiếp xúc được phân biệt bởi sáu giác quan - tiếp xúc bằng mắt, tiếp xúc với tai, tiếp xúc với mũi, tiếp xúc với lưỡi, tiếp xúc với cơ thể và tiếp xúc với tâm trí - và sáu loại cảm giác được phân biệt bởi sự tiếp xúc mà từ đó chúng bật ra.

Feeling acquires special importance as an object of contemplation because it is feeling that usually triggers the latent defilements into activity. The feelings may not be clearly registered, but in subtle ways they nourish and sustain the dispositions to unwholesome states. Thus when a pleasant feeling arises, we fall under the influence of the defilement greed and cling to it. When a painful feeling occurs, we respond with displeasure, hate, and fear, which are aspects of aversion. And when a neutral feeling occurs, we generally do not notice it, or let it lull us into a false sense of security — states of mind governed by delusion. From this it can be seen that each of the root defilements is conditioned by a particular kind of feeling: greed by pleasant feeling, aversion by painful feeling, delusion by neutral feeling..

Cảm xúc có được tầm quan trọng đặc biệt như một đối tượng của thiền quán bởi vì nó là cảm xúc thường kích hoạt những phiền não tiềm ẩn hoạt động. Cảm xúc có thể không được ghi nhận rõ ràng, nhưng theo những cách tinh tế, chúng nuôi dưỡng và duy trì các khuynh hướng đối với trạng thái bất thiện. Vì vậy, khi một cảm xúc dễ chịu xuất hiện, chúng ta rơi vào ảnh hưởng của phiền não và bám vào nó. Khi cảm xúc đau đớn xảy ra, chúng ta phản ứng bằng sự không hài lòng, ghét bỏ và sợ hãi, đó là những khía cạnh của ác cảm. Và khi một cảm xúc khoái lạc xuất hiện, chúng ta thường không nhận thấy nó, hoặc để nó ru ngủ chúng ta vào một cảm xúc an toàn sai lầm - trạng thái tâm bị chi phối bởi ảo tưởng. Từ đó có thể thấy rằng mỗi căn nguyên của phiền não được điều hòa bởi một loại cảm xúc cụ thể: tham lam bởi cảm xúc dễ chịu, chán ghét bởi cảm xúc đau đớn, si mê bởi cảm xúc khoái lạc.

But the link between feelings and the defilements is not a necessary one. Pleasure does not always have to lead to greed, pain to aversion, neutral feeling to delusion. The tie between them can be snapped, and one essential means for snapping it is mindfulness. Feeling will stir up a defilement only when it is not noticed, when it is indulged rather than observed. By turning it into an object of observation, mindfulness defuses the feeling so that it cannot provoke an unwholesome response. Then, instead of relating to the feeling by way of habit through attachment, repulsion, or apathy, we relate by way of contemplation, using the feeling as a springboard for understanding the nature of experience..

Nhưng sự liên kết giữa cảm xúc và phiền não là không cần thiết. Hài lòng không phải lúc nào cũng dẫn đến sự tham lam, đau đớn dẫn đến chán ghét, cảm xúc khoan khoái dẫn đến si mê. Sự ràng buộc giữa chúng có thể được tháo gỡ, và một phương tiện thiết yếu để gỡ bỏ nó là chánh niệm. Cảm xúc sẽ chỉ khuấy động sự ô uế khi nó không được chú ý, khi nó được say mê hơn là được quan sát. Bằng cách biến nó thành một đối tượng quan sát, chánh niệm làm dịu cảm giác để nó không thể kích động phản ứng bất thiện. Sau đó, thay vì liên hệ với cảm xúc theo thói quen thông qua sự ràng buộc, xua đuổi hoặc thờ ơ, chúng ta liên hệ bằng cách quán niệm, sử dụng cảm xúc như một bàn đạp để hiểu bản chất của trải nghiệm .

In the early stages the contemplation of feeling involves attending to the arisen feelings, noting their distinctive qualities: pleasant, painful, neutral. The feeling is noted without identifying with it, without taking it to be "I" or "mine" or something happening "to me." Awareness is kept at the level of bare attention: one watches each feeling that arises, seeing it as merely a feeling, a bare mental event shorn of all subjective references, all pointers to an ego. The task is simply to note the feeling's quality, its tone of pleasure, pain, or neutralit

Trong giai đoạn đầu, sự tu tập thọ quán niệm xứ bao gồm việc quan tâm đến những cảm xúc nảy sinh, ghi nhận những phẩm chất đặc biệt của chúng: dễ chịu, đau đớn, khoan khoái. Cảm xúc được ghi nhận mà không đồng nhất với nó, không coi nó là "tôi" hay "của tôi" hoặc điều gì đó xảy ra "với tôi." Nhận thức được duy trì ở mức độ chú ý trần trụi: hành giả quan sát từng cảm xúc phát sinh, coi nó chỉ là một cảm xúc, một sự kiện tinh thần trần trụi rút ngắn mọi tham chiếu chủ quan, tất cả đều hướng đến bản ngã. Nhiệm vụ chỉ đơn giản là ghi nhận chất lượng của cảm xúc, giai điệu của nó là hài lòng, đau đớn hoặc khoái cảm

But as practice advances, as one goes on noting each feeling, letting it go and noting the next, the focus of attention shifts from the qualities of feelings to the process of feeling itself. The process reveals a ceaseless flux of feelings arising and dissolving, succeeding one another without a halt. Within the process there is nothing lasting. Feeling itself is only a stream of events, occasions of feeling flashing into being moment by moment, dissolving as soon as they arise. Thus begins the insight into impermanence, which, as it evolves, overturns the three unwholesome roots. There is no greed for pleasant feelings, no aversion for painful feelings, no delusion over neutral feelings. All are seen as merely fleeting and substanceless events devoid of any true enjoyment or basis for involvement..

Nhưng khi tu tập đến giai đoạn tiến bộ, khi hành giả tiếp tục ghi nhận từng cảm xúc, để nó qua đi và ghi nhận tiếp theo, trọng tâm của sự chú ý chuyển từ các phẩm chất của cảm xúc sang quá trình cảm nhận bản thân. Quá trình này cho thấy một luồng cảm xúc không ngừng sinh và diệt, nối tiếp nhau không ngừng nghỉ. Trong quá trình này không có gì lâu dài. Bản thân cảm xúc chỉ là một dòng sự kiện, những khi cảm xúc lóe lên trong từng khoảnh khắc, tan biến ngay khi chúng xuất hiện. Do đó, bắt đầu cái nhìn sâu sắc về vô thường, khi nó phát triển, đảo lộn ba gốc rễ bất thiện (Tham, Sân, Si). Không có lòng tham đối với cảm xúc dễ chịu, không có ác cảm với cảm xúc đau đớn, không có ảo tưởng về cảm giác khoái lạc. Tất cả chỉ được coi là những sự kiện thoáng qua và không có giá trị bất kỳ sự thích thú hay cơ sở thực sự nào để dính mắc.

(3) Contemplation of the State of Mind (cittanupassana)

(3) Tâm quán niệm xứ (cittanupassana)

With this foundation of mindfulness we turn from a particular mental factor, feeling, to the general state of mind to which that factor belongs. To understand what is entailed by this contemplation it is helpful to look at the Buddhist conception of the mind. Usually we think of the mind as an enduring faculty remaining identical with itself through the succession of experiences. Though experience changes, the mind which undergoes the changing experience seems to remain the same, perhaps modified in certain ways but still retaining its identity. However, in the Buddha's teaching the notion of a permanent mental organ is rejected. The mind is regarded, not as a lasting subject of thought, feeling, and volition, but as a sequence of momentary mental acts, each distinct and discrete, their connections with one another causal rather than substantial..

Với nền tảng chánh niệm này, chúng ta chuyển từ một yếu tố tinh thần cụ thể, cảm xúc, sang trạng thái tổng quát của tâm, mà yếu tố đó thuộc về. Để hiểu những gì đem đến bởi sự quán niệm này, điều hữu ích là nhìn vào quan niệm của Phật giáo về tâm. Thông thường, chúng ta nghĩ về tâm như một bộ phận bền bỉ tồn tại giống hệt với chính nó thông qua sự tích lũy của các kinh nghiệm. Mặc dù trải nghiệm thay đổi, tâm trải qua trải nghiệm thay đổi dường như vẫn như cũ, có thể được sửa đổi theo những cách nhất định nhưng vẫn giữ nguyên bản sắc của nó. Tuy nhiên, trong lời dạy của Đức Phật, khái niệm về một cái tâm là vĩnh cửu bất diệt bị bác bỏ. Tâm là ý thức, nhưng không phải là chủ thể lâu dài của suy nghĩ, cảm giác và hành động, mà là một chuỗi các hành vi tinh thần nhất thời, mỗi hành vi riêng biệt và rời rạc, mối liên hệ của chúng với nhau có quan hệ nhân quả hơn là thực chất .

A single act of consciousness is called a citta, which we shall render "a state of mind." Each citta consists of many components, the chief of which is consciousness itself, the basic experiencing of the object; consciousness is also called citta, the name for the whole being given to its principal part. Along with consciousness every citta contains a set of concomitants called cetasikas, mental factors. These include feeling, perception, volition, the emotions, etc.; in short, all the mental functions except the primary knowing of the object, which is citta or consciousness..

Tâm là tri giác hay sự biết cảnh, cái mà chúng ta sẽ tạo ra "một trạng thái của tâm." Mỗi tâm bao gồm nhiều thành phần, chủ yếu là tâm thức, kinh nghiệm căn bản của đối tượng; ý thức cũng được gọi là tâm, tên gọi của toàn thể hữu thể được đặt cho phần chính của nó. Những thành phần phụ thuộc vào tâm, nương vào tâm để sanh khởi lên, cùng với tâm thức, mỗi tâm chứa một tập hợp các đồng thời gọi là tâm sở (cetasikas), các yếu tố tâm. Chúng bao gồm cảm giác, nhận thức, hành động, cảm xúc, v.v.; nói tóm lại, tất cả các chức năng tinh thần ngoại trừ chủ yếu cái biết về đối tượng, đó là tâm hay ý thức .

Since consciousness in itself is just a bare experiencing of an object, it cannot be differentiated through its own nature but only by way of its associated factors, the cetasikas. The cetasikas color the citta and give it its distinctive character; thus when we want to pinpoint the citta as an object of contemplation, we have to do so by using the cetasikas as indicators. In his exposition of the contemplation of the state of mind, the Buddha mentions, by reference to cetasikas, sixteen kinds of citta to be noted: the mind with lust, the mind without lust, the mind with aversion, the mind without aversion, the mind with delusion, the mind without delusion, the cramped mind, the scattered mind, the developed mind, the undeveloped mind, the surpassable mind, the unsurpassable mind, the concentrated mind, the unconcentrated mind, the freed mind, the unfreed mind. For practical purposes it is sufficient at the start to focus solely on the first six states, noting whether the mind is associated with any of the unwholesome roots or free from them. When a particular citta is present, it is contemplated merely as a citta, a state of mind. It is not identified with as "I" or "mine," not taken as a self or as something belonging to a self. Whether it is a pure state of mind or a defiled state, a lofty state or a low one, there should be no elation or dejection, only a clear recognition of the state. The state is simply noted, then allowed to pass without clinging to the desired ones or resenting the undesired ones..

Vì lẽ rằng, ý thức tự nó chỉ là một trải nghiệm trần trụi về một đối tượng, nó không thể được phân biệt thông qua bản chất của chính nó mà là qua các tâm sở (cetasikas). Tâm sở nhuộm màu cho tâm và tạo cho nó đặc tính đặc biệt; do đó khi chúng ta muốn xác định tâm là một đối tượng của sự quán chiếu, chúng ta phải làm như vậy bằng cách sử dụng tâm sở. Trong sự trình bày về sự quán chiếu của tâm, Ðức Phật dạy 16 loại tâm để hành giả chú niệm là: Tâm có tham và tâm không có tham, tâm có sân và tâm không có sân, tâm có si và tâm không có si, tâm uể oải, liên hệ đến dã dượi hôn trầm, tâm loạn động, tâm phát triển cao thượng (tức các loại tâm thuộc Sắc Giới và Vô Sắc Giới), tâm không phát triển cao thượng (tức các tâm thuộc Dục Giới), tâm hữu hạn (tức còn có thể hơn), tâm vô thường, tâm định, tâm không định, tâm giải thoát và tâm không giải thoát. Để tu tập có thành quả, lúc bắt đầu chỉ cần tập trung vào sáu trạng thái đầu tiên là đủ, để ý xem tâm có liên kết với bất kỳ gốc rễ bất thiện nào hay thoát khỏi chúng. Khi một tâm cụ thể hiện diện, nó chỉ được quán chiếu như một tâm, một trạng thái của tâm. Nó không được nhận rằng là "tôi" hay "của tôi", không được coi là một cái tôi hoặc một cái gì đó thuộc về một cái tôi. Cho dù đó là trạng thái tâm thanh tịnh hay trạng thái ô uế, trạng thái cao cả hay thấp kém, không nên có phấn chấn hay từ chối, chỉ có sự nhận biết rõ ràng về trạng thái. Trạng thái được ghi nhận một cách đơn giản, sau đó được phép đi qua mà không dính mắc vào những điều mong muốn hoặc khó chịu với những điều không mong muốn.

As contemplation deepens, the contents of the mind become increasingly rarefied. Irrelevant flights of thought, imagination, and emotion subside, mindfulness becomes clearer, the mind remains intently aware, watching its own process of becoming. At times there might appear to be a persisting observer behind the process, but with continued practice even this apparent observer disappears. The mind itself — the seemingly solid, stable mind — dissolves into a stream of cittas flashing in and out of being moment by moment, coming from nowhere and going nowhere, yet continuing in sequence without pause..

Khi sự quán niệm sâu sắc hơn, tâm ít suy nghĩ hơn và trở nên thanh tịnh hơn. Các xáo trộn không liên quan của suy nghĩ, trí tưởng tượng và cảm xúc giảm dần, chánh niệm trở nên rõ ràng hơn, tâm vẫn chú ý quan sát, theo dõi quá trình trở thành của chính nó. Đôi khi có thể xuất hiện một người quan sát kiên trì đằng sau quá trình, nhưng với việc tiếp tục thực hành, ngay cả người quan sát rõ ràng này cũng biến mất. Bản thân tâm - tâm trí có vẻ vững chắc, ổn định - tan biến thành một dòng tâm niệm nhấp nháy trong và ngoài từng khoảnh khắc, đến từ hư không và không đi đến đâu, nhưng vẫn tiếp tục tuần tự không ngừng nghỉ .

(4) Contemplation of Phenomena (dhammanupassana)

(4) Pháp quán niệm xứ (dhammanupassana)

In the context of the fourth foundation of mindfulness, the multivalent word dhamma (here intended in the plural) has two interconnected meanings, as the account in the sutta shows. One meaning is cetasikas, the mental factors, which are now attended to in their own right apart from their role as coloring the state of mind, as was done in the previous contemplation. The other meaning is the elements of actuality, the ultimate constituents of experience as structured in the Buddha's teaching.To convey both senses we render dhamma as "phenomena," for lack of a better alternative. But when we do so this should not be taken to imply the existence of some noumenon or substance behind the phenomena.The point of the Buddha's teaching of anatta, egolessness, is that the basic constituents of actuality are bare phenomena (suddha-dhamma) occurring without any noumenal support..

Trong bối cảnh nền tảng thứ tư của chánh niệm, nghĩa của từ vựng Pháp (ở đây là số nhiều) có hai nghĩa liên kết với nhau, như lời giải thích trong bài kinh cho thấy. Một ý nghĩa là các tâm sở các yếu tố tinh thần, được chú ý đến ngoài vai trò tô màu trạng thái của tâm , như đã được trình bày trong phần quán trước. Ý nghĩa khác là những yếu tố của thực tại, những yếu tố cấu thành cuối cùng của kinh nghiệm như được cấu trúc trong lời dạy của Đức Phật. Để truyền đạt cả hai khả năng phán đoán, chúng ta coi Pháp là "những đối tượng của tâm",vì không có từ ngữ nào thay thế tốt hơn. Nhưng khi chúng ta làm như vậy, điều này không nên ám chỉ sự tồn tại của một số sự vật như tự nó vốn có hoặc thực chất đằng sau các hiện tượng tướng. Giáo Pháp Đức Phật chỉ ra sự anatta là vô ngã, là các thành phần cơ bản của thực tại là hiện tượng trần trụi, suddha-dhamma xảy ra mà không có bất kỳ hỗ trợ nào

The sutta section on the contemplation of phenomena is divided into five sub-sections, each devoted to a different set of phenomena: the five hindrances, the five aggregates, the six inner and outer sense bases, the seven factors of enlightenment, and the Four Noble Truths. Among these, the five hindrances and the seven enlightenment factors are dhamma in the narrower sense of mental factors, the others are dhamma in the broader sense of constituents of actuality. (In the third section, however, on the sense bases, there is a reference to the fetters that arise through the senses; these can also be included among the mental factors.) In the present chapter we shall deal briefly only with the two groups that may be regarded as dhamma in the sense of mental factors. We already touched on both of these in relation to right effort (Chapter V); now we shall consider them in specific connection with the practice of right mindfulness. We shall discuss the other types of dhamma — the five aggregates and the six senses — in the final chapter, in relation to the development of wisdom..

Phần kinh về Pháp quán niệm xứ được chia thành năm phần phụ, mỗi phần dành cho một nhóm hiện tượng tướng khác nhau: năm triền cái, năm uẩn, sáu căn bên trong và bên ngoài, Thất Giác Chi, và Tứ Diệu Đế. Trong số này, năm triền cái và thất giác chi là dhamma theo nghĩa hẹp hơn của yếu tố tinh thần, những yếu tố khác là dhamma theo nghĩa rộng hơn là các yếu tố cấu thành của thực tại.(Tuy nhiên, trong phần thứ ba, trên các giác quan, có đề cập đến các kiết sử phát sinh qua các giác quan; chúng cũng có thể được bao gồm trong các yếu tố tinh thần.) Trong chương này, chúng ta sẽ chỉ giải thích ngắn gọn với hai nhóm đó có thể được coi là dhamma theo nghĩa của các yếu tố tinh thần. Chúng tôi đã đề cập đến cả hai điều này liên quan đến chánh tinh tấn (Chương V); bây giờ chúng ta sẽ xem xét chúng trong mối liên hệ cụ thể với việc tu tập chánh niệm. Chúng ta sẽ thảo luận về các loại pháp khác - năm uẩn và sáu căn - trong chương cuối cùng, liên quan đến sự phát triển của tuệ .

The five hindrances and seven factors of enlightenment require special attention because they are the principal impediments and aids to liberation. The hindrances — sensual desire, ill will, dullness and drowsiness, restlessness and worry, and doubt — generally become manifest in an early stage of practice, soon after the initial expectations and gross disturbances subside and the subtle tendencies find the opportunity to surface. Whenever one of the hindrances crops up, its presence should be noted; then, when it fades away, a note should be made of its disappearance. To ensure that the hindrances are kept under control an element of comprehension is needed: we have to understand how the hindrances arise, how they can be removed, and how they can be prevented from arising in the future.[59]

Năm triền cái và thất giác chi cần được chú ý đặc biệt bởi vì năm triền cái là những trở ngại và thất giác chi là trợ giúp chính cho sự giải thoát. Các chướng ngại - Dục dục cái (Kāmāchandanīvaraṇa), sự tham muốn dục lạc, Sân độc cái (Byāpādanīvaraṇa), sự sân hận thù oán, Hôn thụy cái (Thīnamiddhanīvaraṇa), sự dã dượi buồn ngủ, uể oải mệt mỏi, Trạo hối cái (Uddhaccakukkuccanīvaraṇa), sự ray rứt phóng tâm, xao động lo lắng, Hoài nghi cái (Vicikicchānīvaraṇa), sự ngờ vực, do dự, hoang mang. - những thứ này thường biểu hiện trong giai đoạn đầu của sự tu tập, ngay sau khi những kỳ vọng ban đầu và những xáo trộn thô thiển giảm dần và các khuynh hướng vi tế tìm thấy cơ hội để xuất hiện. Bất cứ khi nào một trong các triền cái xuất hiện, cần ghi nhận sự hiện diện của nó; sau đó, khi nó biến mất, cần ghi chú về sự biến mất của nó. Để đảm bảo rằng các chướng ngại được kiểm soát trong tầm kiểm soát, cần có một yếu tố thấu hiểu: chúng ta phải hiểu cách thức các chướng ngại phát sinh, cách chúng có thể được loại bỏ và cách chúng ta có thể ngăn ngừa chúng phát sinh trong tương lai. [59]

A similar mode of contemplation is to be applied to the seven factors of enlightenment: mindfulness, investigation, energy, rapture, tranquillity, concentration, and equanimity. When any one of these factors arises, its presence should be noted. Then, after noting its presence, one has to investigate to discover how it arises and how it can be matured.[60] When they first spring up, the enlightenment factors are weak, but with consistent cultivation they accumulate strength.

1 - Mindfulness initiates the contemplative process. When it becomes well-established, it arouses investigation, the probing quality of intelligence.

2 -Investigation in turn calls forth energy,

3 -energy gives rise to rapture,

4 -rapture leads to tranquillity,

5 - tranquillity to one-pointed concentration,

6 - and concentration to equanimity.

7 - equanimity. Thus the whole evolving course of practice leading to enlightenment begins with mindfulness, which remains throughout as the regulating power ensuring that the mind is clear, cognizant, and balanced.

Một phương thức quán niệm tương tự cũng được áp dụng cho thất giác chi: 1 Niệm giác chi (Satisambojjhaṅga),2 Trạch pháp giác chi (Dhammavicayasamboj-jhaṅga), 3 Cần giác chi (Vicayasambojjhaṅga),4 Hỷ giác chi (Pītisambojjhaṅga),5 Tịnh giác chi (Passaddhisambojjhaṅga)6 Định giác chi (Samādhisambojjhaṅga),7 Xả giác chi (Upekkhāsambojjhaṅga). Khi bất kỳ một trong những yếu tố này phát sinh, cần lưu ý sự hiện diện của nó. Sau đó, sau khi ghi nhận sự hiện diện của nó, hành giả phải thẩm tra để khám phá cách nó phát sinh và làm thế nào nó có thể trưởng thành. [60] Khi chúng mới xuất hiện, các nhân tố giác ngộ còn yếu, nhưng với sự tu luyện nhất quán, chúng sẽ tích lũy được sức mạnh.

1 - Chánh niệm khởi đầu quá trình quán niệm. Khi nó trở nên vững chắc, nó khơi dậy trạch pháp giác chi.

2 - Trạch pháp giác chi đòi hỏi cần giác chi,

3 - cần giác chi phát sinh hỷ giác chi,

4 - hỷ giác chi dẫn đến tịnh giác chi,

5 - tịnh giác chi dẫn đến định giác chi,

6 - định giác chi dẫn đến xả giác chi.

7 - xả giác chi. Vì vậy, toàn bộ quá trình phát triển của tu tập dẫn đến giác ngộ bắt đầu với chánh niệm, mà vẫn xuyên suốt như sức mạnh điều chỉnh đảm bảo rằng tâm sáng suốt, nhận thức và cân bằng.

 Chủ biên và điều hành: TT Thích Giác Đẳng.

  Những đóng góp dịch thuật xin gửi về TT Thích Giác Đẳng tại phamdang0308@gmail.com
Cập nhập ngày: Thứ Ba 04-10-2016

Webmasters: Minh Hạnh & Thiện Pháp, Thủy Tú & Phạm Cương

Trang Trước | Trang kế| trở về đầu trang | Home page |