I have heard that on one occasion the Blessed One was staying near Savatthi at Jeta's Grove, Anathapindika's monastery. Then, early in the morning, several monks put on their robes and, carrying their bowls and outer robes, went into Savatthi for alms. The thought occurred to them, "It's still too early to go into Savatthi for alms. What if we were to visit the park of the wanderers of other persuasions?"



Tôi nghe như vầy: Một thời, Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana (Kỳ-đà Lâm), trong vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Lúc ấy nhiều Tỷ-kheo buổi sáng đắp y, cầm y bát, vào thành Savatthi khất thực. Rồi các Tỷ-kheo ấy suy nghĩ: "Nay c̣n quá sớm để đi khất thực ở Savatthi. Chúng ta hăy đi đến ngôi vườn các Du sĩ ngoại đạo".

 

So they headed to the park of the wanderers of other persuasions. On arrival, they exchanged courteous greetings with the wanderers of other persuasions. After an exchange of friendly greetings & courtesies, they sat to one side. As they were sitting there, the wanderers of other persuasions said to them, "Friends, Gotama the contemplative describes the comprehension of sensuality. We, too, describe the comprehension of sensuality. He describes the comprehension of forms. We, too, describe the comprehension of forms. He describes the comprehension of feelings. We, too, describe the comprehension of feelings. So what is the difference, what the distinction, what the distinguishing factor between him and us in terms of his teaching and ours, his message and ours?"


Các Tỷ-kheo ấy đi đến ngôi vườn các Du sĩ ngoại đạo, nói lên những lời chúc tụng hỏi thăm xă giao rồi ngồi xuống một bên. Các Du sĩ ngoại đạo ấy nói với các Tỷ-kheo đang ngồi xuống một bên. – Chư Hiền, Sa-môn Gotama nêu rơ sự hiểu biết hoàn toàn về các dục, chúng tôi cũng nêu rơ sự hiểu biết hoàn toàn về các dục. Chư Hiền, Sa-môn Gotama nêu rơ sự hiểu biết hoàn toàn về các sắc pháp, chúng tôi cũng nêu rơ sự hiểu biết hoàn toàn về các sắc pháp. Chư Hiền, Sa-môn Gotama nêu rơ sự hiểu biết hoàn toàn về các cảm thọ, chúng tôi cũng nêu rơ sự hiểu biết hoàn toàn về các cảm thọ. Chư Hiền, ở đây có sự đặc thù nào, sự dị biệt nào, sự sai khác nào giữa Sa-môn Gotama và chúng tôi về vấn đề thuyết pháp hay vấn đề giáo huấn?

 

The monks, neither delighting nor disapproving of the words of the wanderers of other persuasions, got up from their seats, [thinking,] "We will learn the meaning of these words in the Blessed One's presence."


Các Tỷ-kheo ấy không hoan hỷ cũng không chỉ trích những lời nói các Du sĩ ngoại đạo, không hoan hỷ, không chỉ trích, các Tỷ-kheo từ chỗ ngồi đứng dậy, từ biệt với ư nghĩ: "Chúng ta sẽ học ư nghĩa lời nói này từ Thế Tôn".

 

Then, having gone for alms in Savatthi, after their meal, returning from their alms round, the monks went to the Blessed One and, on arrival, having bowed down to him, sat to one side. As they were sitting there, they [told him what had happened].


Rồi các Tỷ-kheo ấy, sau khi khất thực ở Savatthi, khi ăn xong và đi khất thực trở về, liền đến chỗ Thế Tôn ở, đảnh lễ Ngài và ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, các Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:

 






They [told him what had happened].


– Bạch Thế Tôn, ở đây chúng con buổi sáng đắp y, cầm y bát vào thành Savatthi khất thực. Bạch Thế Tôn, rồi chúng con suy nghĩ: "Nay c̣n quá sớm để đi khất thực ở Savatthi. Chúng ta hăy nghĩ đến ngôi vườn các Du sĩ ngoại đạo". Bạch Thế Tôn, rồi chúng con đi đến ngôi vườn các Du sĩ ngoại đạo, sau khi đến xong, nói lên những lời chúc tụng hỏi thăm xă giao rồi ngồi xuống một bên, Bạch Thế Tôn, các Du sĩ ngoại đạo ấy nói với chúng con đang ngồi một bên: "Chư Hiền, Sa-môn Gotama nêu rơ sự hiểu biết hoàn toàn về các dục, chúng tôi cũng nêu rơ sự hiểu biết hoàn toàn về các dục. Chư Hiền, Sa-môn Gotama nêu rơ sự hiểu biết hoàn toàn về các sắc pháp, chúng tôi cũng nêu rơ sự hiểu biết hoàn toàn về các sắc pháp. Chư Hiền, Sa-môn Gotama nêu rơ sự hiểu biết hoàn toàn về các cảm thọ, chúng tôi cũng nêu rơ sự hiểu biết hoàn toàn về các cảm thọ. Chư Hiền ở đây có sự đặc thù nào, sự dị biệt nào, sự sai khác nào giữa Sa-môn Gotama và chúng tôi về vấn đề thuyết pháp hay vấn đề giảng huấn?" Bạch Thế Tôn, chúng con không hoan hỷ, không chỉ trích những lời nói các Du sĩ ngoại đạo. Không hoan hỷ, không chỉ trích, chúng con từ chỗ ngồi đứng dậy, từ biệt với ư nghĩ: "Chúng ta sẽ học ư nghĩa lời nói này từ Thế Tôn".

 

"Monks, when the wanderers of other persuasions say this, they are to be told, 'What, friends, with regard to sensuality, is the allure, what the drawback, what the escape? What, with regard to forms, is the allure, what the drawback, what the escape? What, with regard to feelings, is the allure, what the drawback, what the escape?' When asked this, they will not manage an answer and, what is more, will get themselves into trouble. Why is that? Because it lies outside their range. Monks, in this world with its devas, maras, and brahmas, in this people with its contemplatives & priests, its royalty & commonfolk, I do not see anyone who can satisfy the mind with an answer to these questions, aside from a Tathagata, a Tathagata's disciples, or someone who has heard it from them.


– Này các Tỷ-kheo, các Du sĩ ngoại đạo nói như vậy cần được trả lời như sau: "Chư Hiền, thế nào là vị ngọt các dục? Thế nào là sự nguy hiểm, thế nào là sự xuất ly? Thế nào là vị ngọt các sắc pháp, thế nào là sự nguy hiểm, thế nào là sự xuất ly? Thế nào là vị ngọt các cảm thọ, thế nào là sự nguy hiểm, thế nào là sự xuất ly?" Này các Tỷ-kheo, khi được hỏi vậy, các Du sĩ ngoại đạo không thể trả lời được và sẽ bị mắc vào các khó khăn khác. V́ sao vậy? Này các Tỷ-kheo, v́ vấn đề này không thuộc khả năng hiểu biết của họ. Này các Tỷ-kheo, Ta không thấy một ai trong thế giới này với chư Thiên, Mara, Phạm thiên, với chúng Sa-môn, Bà-la-môn, với chư Thiên và loài Người, mà câu trả lời các câu hỏi được chấp nhận, trừ Như Lai, đệ tử Như Lai và những ai được nghe hai vị này.

 

Sensuality

"Now what, monks, is the allure of sensuality? These five strings of sensuality. Which five? Forms cognizable via the eye — agreeable, pleasing, charming, endearing, fostering desire, enticing. Sounds cognizable via the ear... Aromas cognizable via the nose... Flavors cognizable via the tongue... Tactile sensations cognizable via the body — agreeable, pleasing, charming, endearing, fostering desire, enticing. Now whatever pleasure or joy arises in dependence on these five strands of sensuality, that is the allure of sensuality.


Và này các Tỷ-kheo, thế nào là vị ngọt các dục? Này các Tỷ-kheo, có năm pháp tăng trưởng dục này: Các sắc pháp do nhăn căn nhận thức, khả ái, khả lạc, khả ư, khả hỷ, tương ứng với dục, hấp dẫn, các tiếng do nhĩ căn nhận thức... các hương do tỷ căn nhận thức... các vị do thiệt căn nhận thức... các xúc do thân căn nhận thức, khả ái, khả lạc, khả ư, khả hỷ, tương ứng với dục, hấp dẫn. Này các Tỷ-kheo, có năm pháp tăng trưởng dục như vậy. Này các Tỷ-kheo, y cứ vào năm pháp tăng trưởng dục này, có lạc hỷ khởi lên, như vậy là vị ngọt các dục.

 

*

"And what is the drawback of sensuality? There is the case where, on account of the occupation by which a clansman makes a living — whether checking or accounting or calculating or plowing or trading or cattle-tending or archery or as a king's man, or whatever the occupation may be — he faces cold, he faces heat, being harassed by mosquitoes & flies, wind & sun & creeping things, dying from hunger & thirst.


Này các Tỷ-kheo, thế nào là sự nguy hiểm các dục? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có thiện nam tử nuôi sống với nghề nghiệp, như đếm ngón tay, như tính toán, như ước toán, như làm ruộng, như buôn bán, như chăn ḅ, như bắn cung, như làm công cho vua, như làm một nghề nào khác. Người ấy phải chống đỡ lạnh, phải chống đỡ nóng, phải chịu đựng sự xúc chạm của ruồi, muỗi, gió, sức nóng, mặt trời, các loài ḅ sát, bị chết đói chết khát.

 

"Now this drawback in the case of sensuality, this mass of stress visible here & now, has sensuality for its reason, sensuality for its source, sensuality for its cause, the reason being simply sensuality.


Này các Tỷ-kheo, như vậy là sự nguy hiểm các dục, thiết thực hiện tại, thuộc khổ uẩn, lấy dục làm nhân, lấy dục làm duyên, là nguồn gốc của dục, là nguyên nhân của dục.

 

"If the clansman gains no wealth while thus working & striving & making effort, he sorrows, grieves, & laments, beats his breast, becomes distraught: 'My work is in vain, my efforts are fruitless!' Now this drawback too in the case of sensuality, this mass of stress visible here & now, has sensuality for its reason, sensuality for its source, sensuality for its cause, the reason being simply sensuality.


Này các Tỷ-kheo, nếu thiện nam tử ấy nỗ lực như vậy, tinh cần như vậy, tinh tấn như vậy, nhưng các tài sản ấy không được đến tay ḿnh, vị ấy than văn, buồn phiền khóc than, đấm ngực, mê man bất tỉnh: "Ôi! Sự nỗ lực của ta thật sự là vô ích, sự tinh cần của ta thật sự không kết quả". Này các Tỷ-kheo, như vậy, là sự nguy hiểm các dục, thiết thực hiện tại, thuộc khổ uẩn, lấy dục làm nhân, lấy dục làm duyên, là nguồn gốc của dục, là nguyên nhân của dục.

 

"If the clansman gains wealth while thus working & striving & making effort, he experiences pain & distress in protecting it: 'How will neither kings nor thieves make off with my property, nor fire burn it, nor water sweep it away, nor hateful heirs make off with it?' And as he thus guards and watches over his property, kings or thieves make off with it, or fire burns it, or water sweeps it away, or hateful heirs make off with it. And he sorrows, grieves, & laments, beats his breast, becomes distraught: 'What was mine is no more!' Now this drawback too in the case of sensuality, this mass of stress visible here & now, has sensuality for its reason, sensuality for its source, sensuality for its cause, the reason being simply sensuality.


Này các Tỷ-kheo, nếu thiện nam tử ấy nỗ lực như vậy, tinh cần như vậy, tinh tấn như vậy, và các tài sản ấy được đến tay ḿnh, v́ phải hộ tŕ các tài sản ấy, vị ấy cảm thọ sự đau khổ, ưu tư: "Làm sao các vua chúa khỏi cướp đoạt chúng, làm sao trộm cướp khỏi cướp đoạt chúng, làm sao lửa khỏi đốt cháy, nước khỏi cuốn trôi, hay các kẻ thừa tự không xứng đáng khỏi cướp đoạt chúng?" Dầu vị ấy hộ tŕ như vậy, giữ ǵn như vậy, vua chúa vẫn cướp đoạt các tài sản ấy, trộm cướp vẫn cướp đoạt, lửa vẫn đốt cháy, nước vẫn cuốn trôi hay các kẻ thừa tự không xứng đáng vẫn cướp đoạt chúng. Vị ấy than văn, buồn phiền, khóc than, đấm ngực, mê man bất tỉnh: "Cái đă thuộc của ta, nay ta không có nữa". Này các Tỷ-kheo, như vậy là sự nguy hiểm các dục, thiết thực hiện tại, thuộc khổ uẩn, lấy dục làm nhân, lấy dục làm duyên, là nguồn gốc của dục, là nguyên nhân của dục.

 

"Again, it is with sensuality for the reason, sensuality for the source, sensuality for the cause, the reason being simply sensuality, that kings quarrel with kings, nobles with nobles, priests with priests, householders with householders, mother with child, child with mother, father with child, child with father, brother with brother, sister with sister, brother with sister, sister with brother, friend with friend. And then in their quarrels, brawls, & disputes, they attack one another with fists or with clods or with sticks or with knives, so that they incur death or deadly pain. Now this drawback too in the case of sensuality, this mass of stress visible here & now, has sensuality for its reason, sensuality for its source, sensuality for its cause, the reason being simply sensuality.


Lại nữa, này các Tỷ-kheo, do dục làm nhân, do dục làm duyên, do dục làm nguyên nhân, do chính dục làm nhân, vua tranh đoạt với vua, Sát-đế-lỵ tranh đoạt với Sát-đế-lỵ, Bà-la-môn tranh đoạt với Bà-la-môn, gia chủ tranh đoạt với gia chủ, mẹ tranh đoạt với con, con tranh đoạt với mẹ, cha tranh đoạt với con, con tranh đoạt với cha, anh em tranh đoạt với anh em, anh tranh đoạt với chị, chị tranh đoạt với anh, bạn bè tranh đoạt với bạn bè. Khi họ đă dấn ḿnh vào tranh chấp, tranh luận, tranh đoạt; họ công phá nhau bằng tay; họ công phá nhau bằng đá; họ công phá nhau bằng gậy; họ công phá nhau bằng kiếm. Ở đây họ đi đến tử vong, đi đến sự đau khổ gần như tử vong. Này các Tỷ-kheo, như vậy là sự nguy hiểm các dục, thiết thực hiện tại, thuộc khổ uẩn, lấy dục làm nhân, lấy dục làm duyên, là nguồn gốc của dục, thiết thực hiện tại, thuộc khổ uẩn, lấy dục làm nhân, lấy dục làm duyên, là nguồn gốc của dục, là nguyên nhân của dục.

 

"Again, it is with sensuality for the reason, sensuality for the source, sensuality for the cause, that (men), taking swords & shields and buckling on bows & quivers, charge into battle massed in double array while arrows & spears are flying and swords are flashing; and there they are wounded by arrows & spears, and their heads are cut off by swords, so that they incur death or deadly pain. Now this drawback too in the case of sensuality, this mass of stress visible here & now, has sensuality for its reason, sensuality for its source, sensuality for its cause, the reason being simply sensuality.


Lại nữa, này các Tỷ-kheo, do dục làm nhân, do dục làm duyên, do dục làm nguyên nhân, do chính dục làm nhân, họ cầm mâu và thuẫn, họ đeo cung và tên, họ dàn trận hai mặt, và tên được nhắm bắn nhau, đao được quăng ném nhau, kiếm được vung chém nhau. Họ bắn đâm nhau bằng tên, họ quăng đâm nhau bằng đao, họ chặt đầu nhau bằng kiếm. Ở đây họ đi đến tử vong, đi đến sự đau khổ gần như tử vong. Này các Tỷ-kheo, như vậy là sự nguy hiểm các dục, thiết thực hiện tại, thuộc khổ uẩn, lấy dục làm nhân, lấy dục làm duyên, là nguồn gốc của dục, là nguyên nhân của dục.

 

"Again, it is with sensuality for the reason, sensuality for the source... that (men), taking swords & shields and buckling on bows & quivers, charge slippery bastions while arrows & spears are flying and swords are flashing; and there they are splashed with boiling cow dung and crushed under heavy weights, and their heads are cut off by swords, so that they incur death or deadly pain. Now this drawback too in the case of sensuality, this mass of stress visible here & now, has sensuality for its reason, sensuality for its source, sensuality for its cause, the reason being simply sensuality.


Lại nữa, này các Tỷ-kheo, do dục làm nhân, do dục làm duyên, do dục làm nguyên nhân, do chính dục làm nhân, họ cầm mâu và thuẩn, họ đeo cung và tên, họ công phá thành quách mới trét vôi hồ và tên được nhắm bắn nhau, đao được quăng ném nhau, kiếm được vung chém nhau. Ở đây, họ bắn đâm nhau bằng tên, họ quăng đâm nhau bằng đao, họ đổ nước phân sôi, họ đè bẹp nhau bằng đá, họ chặt đầu nhau bằng kiếm. Ở đây họ đi đến tử vong, đi đến sự đau khổ gần như tử vong. Này các Tỷ-kheo, như vậy là sự nguy hiểm các dục, thiết thực hiện tại, thuộc khổ uẩn, lấy dục làm nhân, lấy dục làm duyên, là nguồn gốc của dục, là nguyên nhân của dục.

 

"Again, it is with sensuality for the reason, sensuality for the source, sensuality for the cause, that (men) break into windows, seize plunder, commit burglary, ambush highways, commit adultery, and when they are captured, kings have them tortured in many ways. They flog them with whips, beat them with canes, beat them with clubs. They cut off their hands, cut off their feet, cut off their hands & feet. They cut off their ears, cut off their noses, cut off their ears & noses. They subject them to the 'porridge pot,' the 'polished-shell shave,' the 'Rahu's mouth,' the 'flaming garland,' the 'blazing hand,' the 'grass-duty (ascetic),' the 'bark-dress (ascetic),' the 'burning antelope,' the 'meat hooks,' the 'coin-gouging,' the 'lye pickling,' the 'pivot on a stake,' the 'rolled-up bed.' They have them splashed with boiling oil, devoured by dogs, impaled alive on stakes. They have their heads cut off with swords, so that they incur death or deadly pain. Now this drawback too in the case of sensuality, this mass of stress visible here & now, has sensuality for its reason, sensuality for its source, sensuality for its cause, the reason being simply sensuality.


Lại nữa, này các Tỷ-kheo, do dục làm nhân, do dục làm duyên, do dục làm nguyên nhân, do chính dục làm nhân, họ đột nhập nhà cửa, họ cướp giật đồ đạc, họ hành động như kẻ cướp, họ phục kích các đường lớn, họ đi đến vợ người. Các vu húa khi bắt được một người như vậy liền áp dụng nhiều h́nh phạt sai khác. Họ đánh bằng roi, họ đánh bằng gậy, họ đánh bằng côn, họ chặt tay, họ chặt chân, họ chặt tay chân, họ xẻo tai, họ cắt mũi, họ xẻo tai cắt mũi, họ dùng h́nh phạt vạc dầu, họ dùng h́nh phạt bối đồi h́nh (xẻo đỉnh đầu thành h́nh con ṣ), họ dùng h́nh phạt la hầu khẩu h́nh... Hỏa man h́nh (lấy lửa đốt thành ṿng hoa)... chúc thủ h́nh (đốt tay)... khu hành h́nh (lấy rơm bện lại rồi siết chặt)... b́ y h́nh (lấy vỏ cây làm áo)... linh dương h́nh (h́nh phạt con dê núi)... câu nhục h́nh (lấy câu móc vào thịt)... tiền h́nh (cắt thịt thành h́nh đồng tiền)... khối trấp h́nh... chuyển h́nh... cao đạp đài... họ tưới bằng dầu sôi, họ cho chó ăn, họ đóng cọc những người sống, họ lấy gươm chặt đầu. Ở đây họ đi đến tử vong, đi đến sự đau khổ gần như tử vong. Này các Tỷ-kheo, như vậy là sự nguy hiểm của dục, thiết thực hiện tại, thuộc khổ uẩn, lấy dục làm nhân, lấy dục làm duyên, là nguồn gốc của dục, là nguyên nhân của dục.

 

"Again, it is with sensuality for the reason, sensuality for the source, sensuality for the cause, that (people) engage in bodily misconduct, verbal misconduct, mental misconduct. Having engaged in bodily, verbal, and mental misconduct, they — on the break-up of the body, after death — re-appear in the plane of deprivation, the bad destination, the lower realms, in hell. Now this drawback too in the case of sensuality, this mass of stress in the future life, has sensuality for its reason, sensuality for its source, sensuality for its cause, the reason being simply sensuality.


*Lại nữa, này các Tỷ-kheo, do dục làm nhân, do dục làm duyên, do dục làm nguyên nhân, do chính dục làm nhân, họ sống làm các ác hạnh về thân, làm các ác hạnh về lời nói, làm các ác hạnh về ư. Do họ sống làm các ác hạnh về thân, làm các ác hạnh về lời nói, làm các ác hạnh về ư, khi thân hoại mạng chung, họ sanh vào cơi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Này các Tỷ-kheo, như vậy là sự nguy hiểm các dục, đưa đến đau khổ tương lai, là khổ uẩn, do dục làm nhân, do dục làm duyên, do dục làm nhân duyên, do chính dục làm nhân.

 

"And what, monks, is the escape from sensuality? The subduing of desire-passion for sensuality, the abandoning of desire-passion for sensuality: That is the escape from sensuality.


Này các Tỷ-kheo, thế nào là sự xuất ly các dục. Này các Tỷ-kheo, đây là sự điều phục dục tham đối với các dục, sự đoạn trừ dục tham, như vậy là sự xuất ly các dục.

 

"That any priests or contemplatives who do not discern, as it actually is, the allure of sensuality as allure, the drawback of sensuality as drawback, the escape from sensuality as escape, would themselves comprehend sensuality or would rouse another with the truth so that, in line with what he has practiced, he would comprehend sensuality: That is impossible. But that any priests or contemplatives who discern, as it actually is, the allure of sensuality as allure, the drawback of sensuality as drawback, the escape from sensuality as escape, would themselves comprehend sensuality or would rouse another with the truth so that, in line with what he has practiced, he would comprehend sensuality: That is possible.


Này các Tỷ-kheo, những Sa-môn, Bà-la-môn nào không như thật tuệ tri vị ngọt các dục là vị ngọt như vậy, sự nguy hiểm là sự nguy hiểm như vậy, sự xuất ly là sự xuất ly như vậy, những vị này nhất định sẽ không như thật tuệ tri các dục của họ, họ cũng không có thể đặt người khác trong một địa vị tương tự, nghĩa là như thật tuệ tri các dục, sự kiện như vậy không thể xảy ra. Này các Tỷ-kheo, những Sa-môn, Bà-la-môn nào như thật tuệ tri vị ngọt các dục là vị ngọt như vậy, sự nguy hiểm là sự nguy hiểm như vậy, sự xuất ly là sự xuất ly như vậy, những vị này nhất định sẽ như thật tuệ tri các dục của họ, họ cũng có thể đặt người khác trong một địa vị tương tự, nghĩa là như thật tuệ tri các dục, sự kiện như vậy có xảy ra.

 

Form

"Now what, monks, is the allure of forms? Suppose there were a maiden of the noble caste, the brahman caste, or the householder class, fifteen or sixteen years old, neither too tall nor too short, neither too thin nor too plump, neither too dark nor too pale. Is her beauty & charm at that time at its height?"


Và này các Tỷ-kheo, thế nào là vị ngọt các sắc pháp? Này các Tỷ-kheo, như các thiếu nữ Sát-đế-lỵ, thiếu nữ Bà-la-môn hay thiếu nữ Gia chủ, tuổi khoảng độ mười lăm hay mười sáu tuổi, không quá lớn, không quá thấp, không quá ốm, không quá mập, không quá đen, không quá trắng, này các Tỷ-kheo, có phải trong thời ấy, họ đạt đến mỹ diệu tối thượng, sắc đẹp tối thượng?

 

"Yes, lord."



– Bạch Thế Tôn, phải.

 

"Whatever pleasure & joy arise in dependence on that beauty & charm: That is the allure of forms."


Này các Tỷ-kheo, y cứ sắc đẹp mỹ diệu ấy khởi lên lạc thọ và hỷ thọ, như vậy là vị ngọt các sắc pháp.

 

"And what is the drawback of form? There is the case where one might see that very same woman at a later time, when she's eighty, ninety, one hundred years old: aged, roof-rafter crooked, bent-over, supported by a cane, palsied, miserable, broken-toothed, gray-haired, scanty-haired, bald, wrinkled, her body all blotchy. What do you think: Has her earlier beauty & charm vanished, and the drawback appeared?"


Và này các Tỷ-kheo, thế nào là sự nguy hiểm các sắc pháp? Này các Tỷ-kheo, ở đây người ta có thể thấy bà chị ấy trong một thời khác, khoảng tám mươi tuổi, chín mươi tuổi hay một trăm tuổi, già yếu, cong như nóc nhà, lưng c̣m, phải dựa gậy để chống đỡ, vừa đi vừa run rẩy, đau ốm, tuổi trẻ đă tận, râu rụng, tóc bạc, hư rụng, sói đầu, da nhăn, tay chân bị khô đét tái xám. Này các Tỷ-kheo, các Người nghĩ thế nào? Có phải sự mỹ diệu về sắc đẹp xưa kia của người đó nay đă biến mất và sự nguy hiểm đă hiện ra?

 

"Yes, lord."



– Bạch Thế Tôn, sự thật là vậy.

 

"This, monks, is the drawback of forms.


– Này các Tỷ-kheo, như vậy là sự nguy hiểm các sắc pháp.

 

"Again, one might see that very same woman sick, in pain, & seriously ill, lying soiled with her own urine & excrement, lifted up by others, laid down by others. What do you think: Has her earlier beauty & charm vanished, and the drawback appeared?"


Lại nữa này các Tỷ-kheo, người ta có thể thấy bà chị ấy bị bệnh hoạn đau khổ, trầm bệnh, nằm đắm ḿnh trong phân tiểu của ḿnh, phải có người nâng dậy, phải có người đỡ nằm. Này các Tỷ-kheo, các Người nghĩ thế nào? Có phải sự mỹ diệu về sắc đẹp xưa kia của người đó nay đă biến mất và sự nguy hiểm đă hiện ra?

 

"Yes, lord."


– Bạch Thế Tôn, sự thật là vậy.

 

"This too, monks, is the drawback of forms.


Này các Tỷ-kheo, như vậy là sự nguy hiểm các sắc pháp.

 

"Again, one might see that very same woman as a corpse cast away in a charnel ground — one day, two days, three days dead, bloated, livid, & oozing. What do you think: Has her earlier beauty & charm vanished, and the drawback appeared?"


Lại nữa, này các Tỷ-kheo, người ta thấy cô gái ấy, thi thể bị quăng vào nghĩa địa, một ngày hay hai ngày hay ba ngày, thi thể ấy trương phồng lên, xanh đen lại, nát thối ra. Này các Tỷ-kheo, các Người nghĩ thế nào? Có phải sự mỹ diệu sắc đẹp xưa kia của cô gái đă biến mất và sự nguy hiểm đă hiện ra?

 

"Yes, lord."


– Bạch Thế Tôn, sự thật là vậy.

 

"This too, monks, is the drawback of forms.


– Này các Tỷ-kheo, như vậy là sự nguy hiểm các sắc pháp.

 

"Again, one might see that very same woman as a corpse cast away in a charnel ground picked at by crows, vultures, & hawks, by dogs, hyenas, & various other creatures... a skeleton smeared with flesh & blood, connected with tendons... a fleshless skeleton smeared with blood, connected with tendons... a skeleton without flesh or blood, connected with tendons... bones detached from their tendons, scattered in all directions — here a hand bone, there a foot bone, here a shin bone, there a thigh bone, here a hip bone, there a back bone, here a rib, there a breast bone, here a shoulder bone, there a neck bone, here a jaw bone, there a tooth, here a skull... the bones whitened, somewhat like the color of shells... piled up, more than a year old... decomposed into a powder. What do you think: Has her earlier beauty & charm vanished, and the drawback appeared?"


Lại nữa, này các Tỷ-kheo, người ta thấy cô gái ấy, thi thể bị quăng vào nghĩa địa, bị các loài quạ ăn, hay bị các loài diều hâu ăn, hay bị các chim kên ăn, hay bị các loài chó ăn, hay bị các loài giả can ăn, hay bị các loài côn trùng ăn... Với các bộ xương c̣n liên kết với nhau, c̣n dính thịt và máu, c̣n được các đường gân cột lại... với các bộ xương c̣n liên kết với nhau, không c̣n dính thịt nhưng c̣n dính máu, c̣n được các đường gân cột bộ xương, không c̣n thịt, không có máu, c̣n được gân cột lại, chỉ c̣n có xương không dính lại với nhau, rải rác chỗ này chỗ kia, ở đây là xương tay, ở đây là xương chân, ở đây là xương ống, ở đây là xương bắp vế, ở đây là xương mông, ở đây là xương sống, ở đây là xương đầu. Này các Tỷ-kheo, các Người nghĩ thế nào? Có phải sự mỹ diệu về sắc đẹp xưa kia của cô gái nay đă biến mất, và sự nguy hiểm đă hiện ra?

 

"Yes, lord."


– Bạch Thế Tôn, sự thật là vậy.

 

"This too, monks, is the drawback of forms.


Này các Tỷ-kheo, như vậy là sự nguy hiểm các sắc pháp.

 

"And what, monks, is the escape from forms? The subduing of desire-passion for forms, the abandoning of desire-passion for forms: That is the escape from form.


Này các Tỷ-kheo và thế nào là sự xuất ly các sắc pháp? Này các Tỷ-kheo, đây là sự điều phục dục tham đối với các sắc pháp, sự đoạn trừ dục tham, như vậy là sự xuất ly các sắc pháp.

 

"That any priests or contemplatives who do not discern, as it actually is, the allure of forms as allure, the drawback of forms as drawback, the escape from forms as escape, would themselves comprehend form or would rouse another with the truth so that, in line with what he has practiced, he would comprehend form: That is impossible. But that any priests or contemplatives who discern, as it actually is, the allure of forms as allure, the drawback of forms as drawback, the escape from forms as escape, would themselves comprehend form or would rouse another with the truth so that, in line with what he has practiced, he would comprehend form: That is possible.


Này các Tỷ-kheo, những Sa-môn, Bà-la-môn nào không như thật tuệ tri vị ngọt các sắc pháp là vị ngọt như vậy, sự nguy hiểm là sự nguy hiểm như vậy, sự xuất ly là sự xuất ly như vậy, những vị này nhất định sẽ không như thật tuệ tri các sắc pháp của họ, họ cũng không có thể đặt người khác trong một địa vị tương tự, nghĩa là như thật tuệ tri các sắc pháp, sự kiện như vậy không xảy ra. Này các Tỷ-kheo, những Sa-môn, Bà-la-môn nào như thật tuệ tri vị ngọt các sắc pháp là vị ngọt như vậy, sự nguy hiểm là sự nguy hiểm như vậy, sự xuất ly là sự xuất ly như vậy, những vị này nhất định như thật tuệ tri các sắc pháp của họ, họ cũng có thể đặt người khác trong một địa vị tương tự, nghĩa là như thật tuệ tri các sắc pháp, sự kiện như vậy có xảy ra.

 

Feeling

"Now what, monks, is the allure of feelings? There is the case where a monk — quite withdrawn from sensuality, withdrawn from unskillful (mental) qualities — enters & remains in the first jhana: rapture & pleasure born from withdrawal, accompanied by directed thought & evaluation. At that time he does not intend his own affliction, the affliction of others, or the affliction of both. He feels a feeling totally unafflicted. The unafflicted, I tell you, is the highest allure of feelings.


Và này các Tỷ-kheo, thế nào là vị ngọt các cảm thọ? Ở đây các Tỷ-kheo ly các dục, ly các bất thiện pháp tự chứng và an trú vào Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm có tứ. Này các Tỷ-kheo, trong khi Tỷ-kheo ly dục, ly các bất thiện pháp, chứng và an trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm có tứ, trong khi ấy, nếu vị ấy không nghĩ đến tự hại, không nghĩ đến hại người, không nghĩ đến hại cả hai, trong khi ấy vị ấy cảm giác một cảm thọ vô hại. Này các Tỷ-kheo, tối thượng vô hại ấy, Ta nói là vị ngọt các cảm thọ.

 

"Again the monk, with the stilling of directed thought & evaluation, enters & remains in the second jhana: rapture & pleasure born of composure, unification of awareness free from directed thought & evaluation — internal assurance... With the fading of rapture he remains in equanimity, mindful & alert, physically sensitive of pleasure. He enters & remains in the third jhana, of which the Noble Ones declare, 'Equanimous & mindful, he has a pleasurable abiding'... With the abandoning of pleasure & pain — as with the earlier disappearance of elation & distress — he enters & remains in the fourth jhana: purity of equanimity & mindfulness, neither pleasure nor pain. At that time he does not intend his own affliction, the affliction of others, or the affliction of both. He feels a feeling totally unafflicted. The unafflicted, I tell you, is the highest allure of feelings.


Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo diệt tầm và tứ, chứng và trú vào Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tỉnh nhất tâm. Lại nữa, vị tỷ kheo ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và an trú Thiền thứ ba. Lại nữa, vị tỷ kheo xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đă cảm thọ từ trước , chứng và trú Thiền thứ tư không khổ không lạc, xả niệm thanh tịnh. Này các Tỷ-kheo, trong khi Tỷ-kheo xả lạc xả khổ, diệt hỷ ưu đă cảm thọ trước, chứng và trú Thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh, trong khi ấy nếu vị ấy không nghĩ đến tự hại, không nghĩ đến hại người, không nghĩ đến hại cả hai, trong khi ấy vị ấy cảm giác một cảm thọ vô hại. Này các Tỷ-kheo, tối thượng vô hại ấy, Ta nói là vị ngọt các cảm thọ.

 

"And what is the drawback of feelings? The fact that feeling is inconstant, stressful, subject to change: This is the drawback of feelings.


Và này các Tỷ-kheo, thế nào là sự nguy hiểm các cảm thọ? Này các Tỷ-kheo, các cảm thọ là vô thường, khổ, biến hoại, như vậy là sự nguy hiểm các cảm thọ.

 

"And what is the escape from feelings? The subduing of desire-passion for feelings, the abandoning of desire-passion for feelings: That is the escape from feelings.


Và này các Tỷ-kheo, thế nào là sự xuất ly các cảm thọ? Này các Tỷ-kheo, sự điều phục dục tham đối với các cảm thọ, sự đoạn trừ dục tham, như vậy gọi là sự xuất ly các cảm thọ.

 

"That any priests or contemplatives who do not discern, as it actually is, the allure of feelings as allure, the drawback of feelings as drawback, the escape from feelings as escape, would themselves comprehend feeling or would rouse another with the truth so that, in line with what he has practiced, he would comprehend feeling: That is impossible. But that any priests or contemplatives who discern, as it actually is, the allure of feelings as allure, the drawback of feelings as drawback, the escape from feelings as escape, would themselves comprehend feeling or would rouse another with the truth so that, in line with what he has practiced, he would comprehend feeling: That is possible."


Này các Tỷ-kheo, những Sa-môn, Bà-la-môn nào không như thật tuệ tri vị ngọt các cảm thọ là vị ngọt như vậy, sự nguy hiểm là sự nguy hiểm như vậy, sự xuất ly là sự xuất ly như vậy, những vị này nhất định sẽ không như thật tuệ tri các cảm thọ của họ, họ cũng không có thể đặt người khác trong một địa vị tương tự, nghĩa là như thật tuệ tri các cảm thọ, sự kiện như vậy không xảy ra. Này các Tỷ-kheo, những Sa-môn, Bà-la-môn nào như thật tuệ tri vị ngọt các cảm thọ là vị ngọt như vậy, sự nguy hiểm là sự nguy hiểm như vậy, sự xuất ly là sự xuất ly như vậy, những vị này nhất định như thật tuệ tri các cảm thọ của họ, họ có thể đặt các người khác trong một địa vị tương tự, nghĩa là như thật tuệ tri các cảm thọ, sự kiện như vậy có xảy ra.

 

That is what the Blessed One said. Gratified, the monks delighted in the Blessed One's words.


Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ, tín thọ lời dạy Thế Tôn.

 

See also: MN 54; SN 35.63; SN 35.115; SN 35.189; AN 6.63; AN 9.34; AN 9.36; Thig XIII.1.