......... .

Hăy Tinh Tấn Không Ngừng
"The Essential Practice;

Tác giả: Venerable Webu Sayadaw
Việt dịch Giác Niệm
---o0o---

Trang 1


 

What Really Matters

^^^^^^

 

WEBU SAYADAW: You have taken up moral conduct (sila). Now that you have undertaken to perfect yourselves in morality, fulfill it to the utmost. Only if you fulfill morality to the utmost will all your aspirations be met. You will be happy now and in the future.

Webu Sayadaw: Quư vị đă giữ giới. Bây giờ quư vị cần tự ḿnh làm cho giới được hoàn hảo, đến mức độ cao nhứt. Chỉ khi nào quư vị hoàn toàn giữ giới đến mức tối đa th́ lúc đó quư vị mới thành đạt được các ước mơ của quư vị. Quư vị sẽ hạnh phúc bây giờ và trong tương lai.

 

Nothing but the teachings of the Buddha can give you real happiness, in the present and in the remainder of samsara, the cycle of repeated birth and death. The teachings of the Buddha are enshrined in the Tipitaka, the three baskets of the scriptures. The Tipitaka is very extensive. If we take the essence out of the Tipitaka we shall find the thirty-seven factors of awakening.1 The essence of the thirty-seven factors of awakening is the eight constituents of the Noble Eightfold Path. The essence of the Noble Eightfold Path is the threefold training — the higher morality, the higher mind, the higher wisdom. The essence of the threefold training is the one Dhamma or Universal Law.

Không có cách nào khác hơn là những lời Phật dạy mới có thể đem lại cho quư vị hạnh phúc thật sự, trong hiện tại và trong phần c̣n lại của ṿng luân hồi, ṿng sinh tử tái diễn măi măi. Lời Phật dạy đước trân trọng lưu giữ trong Tam Tạng Kinh. Tam Tạng Kinh rất phong phú. Nếu chọn lấy cốt tủy của Tam Tạng Kinh, chúng ta sẽ t́m thấy ba mươi bảy yếu tố giác ngộ [*]. Cốt tủy của 37 yếu tố giác ngộ là tám chi của Bát Chánh Đạo. Cốt tủy của Bát Chánh Đạo là tam học – giới, định và tuệ. Cốt tủy của tam học là một Pháp. [*] 37 Pháp Bồ Đề Phần: Tứ Niệm Xứ, Tứ Chánh Cần, Tứ Thần Túc, Ngũ Căn, Ngũ Lực, Thất Giác Chi, Bát Chánh Đạo]

 

If your body and mind are under control, as they are now, there can be no roughness of physical or verbal action. This is the higher morality (adhisila).

Nếu quư vị làm chủ được thân và tâm của quư vị, như hiện giờ, sẽ không có những hành động hay lời nói cộc cằn. Đây là giới cao thượng.

 

If morality becomes strong, the mind will become peaceful and tranquil and lose its harshness. This is called the higher mind or the concentrated mind (adhicitta). If concentration becomes strong and the mind stays one-pointed for a long time, then you will realize that in a split-second matter arises and dissolves billions and billions of times. If mind (nama) knows matter (rupa), it knows that matter originates and disintegrates billions and billions of times in the wink of an eye. This knowledge of arisal and disintegration is called the higher wisdom (adhipañña).

Nếu giới trở nên vững mạnh, tâm sẽ an định và mất tính thô cứng. Đây là tâm cao thượng hay tâm định. Nếu tâm trở nên vững mạnh và trụ vào một điểm một thời gian lâu dài, quư vị sẽ nhận thấy rằng trong một thời điểm cực ngắn, vật chất (sắc) sanh diệt hàng tỉ tỉ lần. Nếu tâm (nama, danh) biết vật chất (rupa, sắc), nó biết rằng vật chất sanh và diệt hàng tỉ và tỉ lần trong một chớp mắt. Tuệ sanh diệt này được gọi là tuệ cao thượng.

 

Whenever we breathe in or out, the incoming and the outgoing air touches somewhere in or near the nostrils. The sensitive matter registers the touch of air. In this process, the entities touching are matter and the entity knowing the touch is mind. So do not go around asking others about mind and matter; observe your breathing and you will find out about them for yourselves.

Khi chúng ta thở vào hay thở ra, không khí vào và ra đụng vào nơi ở trong hay ở gần lỗ mũi. Giác quan ghi nhận sự xúc chạm của không khí. Sự xúc chạm là sắc , biết sự xúc chạm là danh, V́ vậy đừng đi ḷng ṿng hỏi thăm người khác về danh và sắc; quan sát hơi thở của quư vị, quư vị sẽ tự ḿnh t́m thấy chúng.

 

When the air comes in, it will touch. When the air goes out, it will touch. If you know this touch continuously, then greed (lobha), aversion (dosa), and delusion (moha) do not have the opportunity to arise, and the fires of these defilements will subside.

Khi không khí đi vào, nó sẽ đụng (lổ mũi, gần lổ mũi). Khi không khí đi ra, nó sẽ đụng. Nếu quư vị biết sự đụng này một cách liên tục, th́ tham, sân, và si không có cơ hội phát sanh. Ngọn lửa phiền năo sẽ hạ bớt.

 

You cannot know the touch of air before it actually occurs. After it has gone, you cannot know it anymore. Only while the air moves in or out can you feel the sensation of touch. This we call the present moment.

Quư vị không thể biết sư đụng của không khí trước khi nó thật sự xảy ra. Sau khi nó chấm dứt, quư vị không cảm thấy nó nửa. Chỉ khi nào không khí đi vào và đi ra, quư vị mới có thể cảm thấy sư đụng chạm. Điều này chúng tôi gọi là phút giây hiện tại.

 

While we feel the touch of air, we know that there is only mind and matter. We know for ourselves that there is no "I," no other people, no man and woman, and we realize for ourselves that what the Buddha said is true indeed. We do not need to ask others. While we know the in-breath and out-breath, there is no "I" or self.

Khi chúng ta cảm thấy sự đụng chạm của không khí, chúng ta biết rằng chỉ có danh và sắc(tâm và thân,vật chất). Chúng ta biết rằng không có "ta", không có người khác, không có đàn ông, không có phụ nữ, và chúng ta tự ḿnh chứng ngộ rằng thực vậy, những điều Phật dạy là đúng. Chúng ta không cần phải hỏi người khác. Khi chúng ta biết hơi thở vào và hơi thở ra, không có "ta", không có "ngă".

 

When we know this, our view is pure; it is right view. We know in that moment that there is nothing but nama and rupa, mind and matter. We also know that mind and matter are two different entities. If we thus know how to distinguish between mind and matter, we have attained to the analytical knowledge of mind and matter (nama-rupapariccheda-ññ)

Khi chúng ta biết được như vậy, cái biết của ta trong sáng; đây là Chánh Kiến. Chúng ta biết rằng trong giây phút đó không có ǵ khác hơn là danh và sắc, tâm và vật chất. Chúng ta cũng biết rằng tâm và vật chất là hai thực thể khác nhau. Thật vậy, nếu chúng ta biết phân biệt danh và sắc, chúng ta có tuệ phân tích danh sắc.

 

If we know the touch of air as and when it occurs, our mind is pure and we get the benefits thereof. Do not think that the benefits you get thus, even in a split-second, are few. Do not think that those who meditate do not get any advantages from their practice. Now that you have been born in a happy plane and have met the teachings of a Buddha, you can obtain great benefits. Do not worry about eating and drinking, but make all the effort you can.

Nếu chúng ta biết sự đụng chạm của không khí khi nó xảy ra, tâm chúng ta thanh tịnh và nhờ đó mà chúng có được lợi ích. Đừng nghĩ rằng những lợi ích mà quư vị có được, dù chỉ trong giây phút, là ít. Đừng nghĩ rằng những người hành thiền không được lợi ích ǵ từ sự thực hành của họ. Bây giờ quư vị được sanh cơi hữu phúc, gặp được lời dạy của Phật, quư vị có thể đạt được nhiều lợi ích lớn. Đừng lo lắng ǵ về việc ăn uống, mà hăy hết sức tinh tấn.

 

SAYADAW:Is this present time not auspicious?

SAYADAW:Hiện giờ có phải là giờ lành không?

 

DISCIPLE: Yes, sir, it is.

Đệ tử: Dạ phải, thưa Ngài

 

SAYADAW: Yes, indeed! Can't those good people attain their aspiration for Nibbana who, with an open mind, receive and practice the teachings of the Buddha, just like the noble people of the past who received the instructions from the Buddha himself?

Sayadaw: Đúng vậy! Những người tốt, có tâm cởi mở, tiếp nhận và thực hành lời dạy của đức Phật có thể thành đạt Niết Bàn giống như các thánh nhân trong quá khứ đă thực hành theo lời chỉ dẫn của đức Phật không?

 

D: Yes, sir, they can.

Đệ tử: Dạ, thưa Ngài, họ có thể làm được.

 

S: So, how long does the Buddha's Teaching last?

Sayadaw: Như vậy, lời dạy của đức Phật c̣n tồn tại bao lâu?

 

D: For five thousand years, sir.2

Đệ tử: Dạ, năm ngàn năm

 

S: And now tell me, how many of these five thousand years have past?

Sayadaw: Bây giờ nói cho Sư nghe, bao nhiêu năm trong năm ngàn năm đă trôi qua?

 

D: Sir, about half this time-span has gone.

Đệ tử: Dạ, chừng phân nửa thời gian.

 

S: So, how much remains still?

Sayadaw: Vậy c̣n lại bao nhiêu năm?

 

D: About 2500 years, sir.

Đệ tử: Thưa Ngài, chừng 2500 năm.

 

S: What is the life-span of a human being now?3

Sayadaw: Bây giờ con người sống chừng bao lâu?

 

D: About one hundred years, sir.

Đệ tử: Dạ, chừng 100 năm

 

S: How old are you?

Sayadaw: Ông mấy tuổi rồi?

 

D: I am thirty-seven years old, sir.

Đệ tử: Thưa Ngài, tôi được 37 tuổi.

 

S: So, how much longer do you have to live?

Sayadaw: Vậy ông c̣n sống bao nhiêu năm nửa?

 

D: Sixty-three years, sir

Đệ tử: Thưa Ngài, 63 năm.

 

S: But can you be sure that you will live that long?

Sayadaw: Nhưng ông có chắc chắn ông sẽ sống được hết những năm c̣n lại không?

 

D: That I don't know, sir.

Đệ tử: Dạ, tôi không biết.

 

S: You don't know yourself how long you are going to live?

Sayadaw: Chính ông không biết ông c̣n sống được bao lâu nửa?

 

D: No, sir, it isn't possible to know this for sure.

Đệ tử: Dạ, không thế nào biết rơ điều này chắc chắn được.

 

S: But even as we are born we can be sure we have to suffer old age, disease and death.

Sayadaw: Nhưng khi chúng ta sinh ra th́ chúng ta có thể biết chắc là ḿnh phải khổ v́ già, bịnh, chết.

 

D: Yes, sir.

Đệ tử: Dạ phải.

 

S: Can we request old age, pain and death to desist for some time, to go away for some time?

Sayadaw: Chúng ta có thể yêu cầu già, bịnh, chết ngừng lại ít lâu, đi chỗ khác ít lâu được không?

 

D: No, sir.

Đệ tử: Dạ không.

 

S: No they never rest. Can we ask them to stop their work?

Sayadaw: Không, chúng không bao giờ ngừng nghỉ. Chúng ta có thể nào kêu chúng ngưng hoạt động được không?

 

D: No, sir, we cannot.

Đệ tử: Dạ thưa không thể được.

 

S: In that case can we be certain we have to die?

Sayadaw: Trong trường hợp đó, chắc chắn là chúng ta phải chết.

 

D: Yes, sir, it is certain that we all have to die.

Đệ tử: Dạ, chắc chắn là tất cả chúng ta đều phải chết.

 

S: It is certain that we all have to die. What about living?

Sayadaw: Chắc chắn tất cả chúng ta đều phải chết. Thế c̣n sống th́ sao?

 

D: We can't be sure how long we have left to live, sir.

Đệ tử: Dạ, chúng ta không chắc chắn biết chúng ta c̣n sống được bao lâu nữa.

___________

Ghi chú:

(1) ^^^^^

(2) ^^^^^

Trang kế tiếp     

--- o0o ---

Tŕnh bày: Chánh Hạnh

Cập nhật ngày: 04-07-2006

 

--- o0o ---

y' kiến đóng góp xin gửi đến TT Giác Đẳng qua địa chỉ:
Email:giacdang@phapluan.com

Cập nhật ngày: 04-07-2006