May peace harmonious bless this land;
May it be ever free from maladies and war;
May there be harvest rich, and increased yield of grain;
May everyone delight in righteousness;
May no perverted thought find entry to your minds;
May all your thoughts e'er pious be and lead
to your success religiously.

— Tibetan Great Yogi, Milarepa

Most gratefully and most devotedly
dedicated to my departed parents

('Matapitaro pubbacariyati vuccare')

— Anguttara Nikaya, ii. p. 70

Nguyện cầu hòa bình ban phước cho vùng đất này;
Nguyện cầu mọi người thoát khỏi bệnh tật và chiến tranh;
Nguyện cầu mùa màng bội thu, và tăng sản lượng ngũ cốc;
Nguyện cầu mọi người an vui trong công bình;
Nguyện cầu không có tà kiến len vào tâm trí bạn;
Nguyện cầu tất cả những suy nghĩ của bạn đều được và dẫn dắt
đến đạo quả dựa trên tôn giáo của bạn.

— Thành tựu giả vĩ đại Yogi Tây Tạng, Milarepa

Với lòng biết ơn và xin hiến dâng tất cả
đến cha mẹ đã mất của tôi

('Matapitaro pubbacariyati vuccare')

— Anguttara Nikaya, ii. p. 70

Contents

Contents

Be loving and be pitiful
And well controlled in virtue's ways,
Strenuous bent upon the goal,
And onward ever bravely press.

That danger does in dalliance lie —
That earnestness is sure and safe —
This when you see, then cultivate
The Eight-fold Path so shall ye realize,
So make your own, the Deathless Way.'

— Psalms of the Brethren, 979,980

Hãy có lòng từ và lòng bi mẫn
Và sống trong đức hạnh,
Cố gắng hướng tới mục tiêu,
Và luôn luôn can đảm tiến tới .

Điều nguy hiểm xảy ra khi nói dối nói lời nhảm nhí -
Điều trung thực là không thể sai lầm và an toàn -
Khi bạn hiểu điều này thì hãy tu tập
Con đường Bát Chánh Đạo bạn sẽ nhận ra,
Vì vậy, hãy tạo ra con đường bất tử của riêng bạn. ''

— Psalms of the Brethren, 979,980

The Book of Protection which is an anthology of selected discourses of the Buddha compiled by the teachers of old, was originally meant as a handbook for the newly ordained novice. The idea was that those novices who are not capable of studying large portions of the "Discourse Collection" (sutta pitaka) should at least be conversant with the Book of Protection. Even today it is so. The twenty four discourses are selected from the five Nikayas or the original Collections in Pali containing the Buddha's discourses. The fact that the book was meant for the novice is clear from the prefatory paragraphs that precede the discourses.

Kinh Thánh Hộ Trì, là tập hợp các bài giảng được chọn lọc của Đức Phật do các vị thầy thời xưa biên soạn, ban đầu được dùng như một cẩm nang cho người mới xuất gia tụng đọc. Ý tưởng là những người mới tu tập không có khả năng nghiên cứu phần lớn của "Tạng Kinh" (sutta pitaka) ít nhất cũng nên tụng đọc Kinh Thánh Hộ Trì. Ngay cả ngày nay cũng như vậy. Hai mươi bốn bài kinh được chọn từ trong năm bộ Nikayas hoặc Bộ sưu tập gốc bằng tiếng Pali có chứa các bài kinh của Đức Phật. Thực tế là những bài kinh dành cho người mới tu rõ ràng là các đoạn văn bắt buộc tụng đọc trước các bài giảng.

The precepts are ten, and not five which are the basic principles of the lay follower. The novice is expected to observe the ten precepts. This is followed by the "Questions to be Answered by a Novice" and the "Thirty Two Parts of the Body" which is really a type of meditation on the constituent parts of one's body. Then comes the "Four-fold reflection of a Monk," and finally the "Ten Essentials (Dhammas)" to be reflected upon by one who has gone forth to live the holy life. The discourses come next. If one patiently and painstakingly studies these discourses, he could gather a good knowledge of the essentials and fundamental teachings of the Buddha.

Giới luật là mười giới, và không phải năm giới, là những nguyên tắc cơ bản của người cư sĩ tại gia. Các Sadi phải tuân giữ mười giới. Tiếp theo là "Những câu hỏi cần được trả lời bởi một Sadi" và "Ba mươi hai thể trược" thực sự là một loại thiền định về các bộ phận cấu thành của cơ thể một người. Sau đó là "Bốn lần quán chiếu của một nhà sư," và cuối cùng là "Mười điều cần thiết (Dhammas)" được phản ánh bởi một người đã xuất gia để sống cuộc đời thánh thiện. Các bài thuyết trình tiếp theo. Nếu một người kiên nhẫn và chăm chỉ nghiên cứu những bài giảng này, người đó có thể thu thập được kiến thức tốt về những điều cốt yếu và giáo lý nền tảng của Đức Phật.

The Maha-samaya sutta and the Atanatiya sutta ending the book may appear to some as pointless, but a careful reader will no doubt appreciate their relevance. In the essay on the Value of Paritta an attempt is made to show what paritta means to a Buddhist.

Kinh Trường Bộ, Kinh Đại Hội (Maha-samaya Sutta) kinh Atanatiya đặt ở đoạn cuối cuốn sách xem có vẻ như không có lợi, nhưng một người đọc tụng cẩn thận chắc chắn sẽ đánh giá cao sự liên quan của những kinh bài. Trong bài thảo luận về Giá trị của kinh Thánh Hộ Trì Paritta, một nỗ lực được thực hiện để chỉ ra ý nghĩa của kinh Thánh Paritta đối với người Phật tử.

I have endeavored to keep as close as possible to the original wording of the text without making it too literal a translation on the one hand, and a word for word translation on the other, and have avoided translating the Pali stanzas into verse (except the stanzas of discourses No. 5, 11, 19) in order to give a very faithful, easy, and readable rendering. I have preserved the synonymous words and repetitions found in the suttas since they are the ipsissima verba of the Buddha handed down to us through oral tradition.

Tôi đã cố gắng giữ sát nghĩa nhất có thể từ ngữ gốc của bài kinh mà không biến nó thành bản dịch quá sát nghĩa, mặt khác là dịch từng chữ, và đã tránh dịch các khổ thơ Pali thành câu thơ (ngoại trừ khổ thơ của các bài nghị luận số 5, 11, 19) để cung cấp một kết xuất rất trung thực, dễ dàng và dễ tụng đọc. Tôi đã lưu giữ những từ đồng nghĩa và sự lặp lại trong các bài kinh vì chúng là những từ chính xác của Đức Phật được truyền lại cho chúng ta qua truyền khẩu.

In all the suttas the word "Bhagava," the "Blessed One," an epithet of the Buddha, is frequently used. To avoid using the same word too often in the translation, I have, at times, used the word "the Buddha" for "Bhagava" or a personal pronoun to denote him.

Trong tất cả các bài kinh từ vựng "Bhagava", "Đức Thế Tôn", là đại danh từ chỉ Đức Phật, thường được sử dụng. Để tránh sử dụng cùng một từ quá thường xuyên trong bản dịch, đôi khi tôi đã sử dụng từ vựng "Đức Phật" cho "Bhagava" hoặc một đại danh từ nhân xưng để chỉ ngài.

The Pali words and names included in this work are lacking in diacritical marks. In some places however, the smaller type with such marks are used. But students of Pali may not find any difficulty in pronouncing them. The reader may refer to the Khandha-vatta Jataka (No. 203) when studying the Khandha Paritta.

Các từ Pali và tên trong tác phẩm này thiếu dấu. Tuy nhiên, ở một số nơi, loại nhỏ hơn với các dấu như vậy được sử dụng. Nhưng học sinh Pali có thể không gặp khó khăn gì trong việc phát âm chúng. Người đọc có thể tham khảo Khandha-vatta Jataka (số 203) khi nghiên cứu Khandha Paritta là thần chú của Đạo Phật, một điển hình của kinh cứu khổ của Phật Giáo .

The Angulimala Paritta is a short discourse that does not appear in the Book of Protection (Paritta text), but as it is a paritta made use of by expectant mothers in Buddhist lands, I have included it in the Appendix. Other Pali stanzas, used by the Buddhists when reciting the Parittas, are also included in the Appendix with their English renderings.

Kinh Angulimala Paritta là một bài kinh ngắn không được ghi trong Kinh Thánh Hộ Trì (văn bản Paritta), nhưng vì nó là một kinh Hộ Trì Paritta được các bà mẹ tương lai sử dụng ở các xứ sở Phật giáo, tôi đã đưa nó vào Phụ lục. Các khổ thơ Pali khác, được các Phật tử sử dụng khi đọc tụng kinh Pali, cũng được đưa vào Phụ lục với phần trình bày bằng tiếng Anh.

I am indebted beyond measure to Mr. V.F. Gunaratna, retired public trustee of Sri Lanka, for his painstaking reading of the script, his careful and valuable suggestions, and for writing the Foreword. The Ven. Kheminda Maha Thera assisted me in finding the references, the Ven. Siridhamma Thera in reading the proofs, and Mr. K.G. Abeysinghe in typing the script. I am grateful to them. To Miss K. Jayawardana of Union printing Works and her staff who took a keen interest in the printing of this work, I am thankful. Last, but far from least, my thanks are due to Messrs D. Munidase and U.P. de Zoysa for all the help they have given me.

Tôi mang ơn ông V.F. Gunaratna, ủy viên chính phủ đã nghỉ hưu của Sri Lanka, ông đã chăm chút đọc kịch bản, ông đã cẩn thận đề xuất có giá trị, cũng như để viết Lời nói đầu. The Ven. Kheminda Maha Thera đã hỗ trợ tôi trong việc tìm kiếm các tài liệu tham khảo, Ven. Siridhamma Thera khi đọc các bản chứng minh, và ông K.G. Abeysinghe khi nhập văn bản. Tôi biết ơn họ. Xin gửi lời cảm ơn tới cô K. Jayawardana của Union in Works và nhân viên của cô, những người đã quan tâm đến việc in ấn tác phẩm này. Cuối cùng, nhưng ít nhất, lời cảm ơn của tôi là cho Messrs D. Munidase và U.P. de Zoysa cho tất cả sự giúp đỡ mà họ đã dành cho tôi.

—Piyadassi
Vesakha-mase, 2519: May 1975
Vajirarama,
Colombo 5,
Sri Lanka (Ceylon).

—Piyadassi
Vesakha-mase, 2519: May 1975
Vajirarama,
Colombo 5,
Sri Lanka (Ceylon).

Foreword  

by V.F. Gunaratna

Lời Tựa  

by V.F. Gunaratna

The world of English Buddhist literature has been enriched by the publication of this book entitled "The Book of Protection." This is a translation by the Ven. Piyadassi Maha Thera of what is well known to every Sinhala Buddhist home as the Pirit Potha which means the book of protection. It contains a collection of suttas or discourses taken from the teaching of the Buddha and are meant to be recited in temples and homes for the purpose of obtaining protection from all harm. This is achieved by recalling with saddha or confidence the virtues of the Buddha, Dhamma, and Sangha referred to in these discourses. There are many who listen to the recitation of these discourses but who hardly understand the import of these discourses and therefore any benefit they may gain must be necessarily slight. This translation, therefore, supplies a long-felt need as it will help such persons to listen with understanding when pirith is being recited. The venerable translator is therefore to be congratulated as being the first to translate a book of this nature.

Thế giới văn học Phật giáo tiếng Anh trở nên phong phú nhờ xuất bản cuốn sách này có tựa đề "Kinh Thánh Hộ Trì" (The Book of Protection). Đây là bản dịch của Ven. Piyadassi Maha Thera được mọi người Phật tử Sinhala biết đến với cái tên Pirit Potha có nghĩa là kinh Thánh Hộ Trì. Bao gồm một bộ sưu tập các bài kinh hoặc bài giảng được trích từ lời dạy của Đức Phật và được sử dụng để tụng đọc trong các ngôi chùa và gia đình với mục đích được bảo vệ khỏi mọi nguy hại. Điều này đạt được bằng cách nhớ lại với niềm Tin (saddha) hoặc tin tưởng vào các đức tính của Đức Phật, Giáo pháp và Tăng đoàn được đề cập đến trong các bài giảng này. Có nhiều người nghe tụng những bài giảng này nhưng hầu như không hiểu được sự lợi ích của những bài kinh này và do đó bất kỳ lợi ích nào mà họ có thể đạt được là nhỏ. Do đó, bản dịch này cung cấp một nhu cầu từ lâu vì nó sẽ giúp những người như vậy lắng nghe với sự hiểu biết khi được đọc thuộc lòng. Bởi vậy, Vị Sư phiên dịch đó đáng được tán thán vì là người đầu tiên dịch cuốn kinh thể loại này.

To translate a book is not so easy as to write a book. The work of translation calls for precision and concentrated thought. A translation that keeps too close to the original is apt to suffer from a failure to convey the spirit underlying the original text.

Để dịch một cuốn sách không dễ như viết một cuốn sách. Công việc dịch thuật đòi hỏi sự chính xác và tập trung tư tưởng. Một bản dịch quá sát với bản gốc sẽ không có khả năng truyền tải được tinh thần cơ bản của văn bản gốc.

At the same time a translation that is too free runs the risk of expressing more than the author of the original composition had intended and thereby misrepresents him. The venerable translator has certainly done well by steering clear between these two extremes and therefore deserves special praise.

Đồng thời, một bản dịch quá phóng khoán có nguy cơ diễn đạt xa hơn những gì tác giả của bản gốc đã dự định và do đó có sự hiểu lầm về tác giả. Vị Sư dịch giả chắc chắn đã làm tốt bằng cách phân định rạch ròi giữa hai thái cực này và do đó đáng được khen ngợi đặc biệt.

Further more, he has by the manner of his translation made it evident that he has been at pains to facilitate the purpose for which pirith is recited. By means of explanations in parenthesis and helpful foot notes he has striven to elucidate the meaning of words and phrases where their full significance appears to be obscure. If a further clarification is needed the reader is invited to refer to Ven. Piyadassi Maha Thera's book The Buddha's Ancient Path [Buddhist Publication Society, P.O. Box 61, Kandy, Sri Lanka] which deals with quite a number of points concerning the Buddha-dhamma.

Hơn nữa, Ngài đã bằng cách thức dịch thuật của mình, đã chứng tỏ rằng Ngài rất nỗ lực để tạo điều kiện thuận lợi cho mục đích của việc tụng đọc kinh. Bằng những lời giải thích trong ngoặc đơn và những ghi chú hữu ích, Ngài đã làm sáng tỏ ý nghĩa của các từ vựng và cụm từ mà ý nghĩa đầy đủ của chúng dường như bị che khuất. Nếu cần làm rõ thêm, xin mời độc giả tham khảo Cuốn sách "Con đường cổ xưa của Đức Phật" của Piyadassi Maha Thera [Hiệp hội xuất bản Phật giáo, P.O. Hộp 61, Kandy, Sri Lanka] đề cập đến khá nhiều điểm liên quan đến Phật-pháp.

There can be no doubt that this translation of the Pirith Potha by one such as the Ven. Piyadassi Maha Thera — a reputed author of several Buddhist books and a preacher whose sermons have gained great acceptance both in the East and the West — will be hailed with delight by those who desire to obtain a full understanding of the pirith that is recited in temples and homes — sometimes with marvelous effect.

Không thể nghi ngờ rằng bản dịch kinh Thánh Hộ Trì (Pirith Potha) này của Ngài Piyadassi Maha Thera - một tác giả nổi tiếng của một số cuốn sách Phật giáo và là một nhà thuyết giảng có bài giảng của họ đã nhận được sự chấp nhận lớn ở cả phương Đông và phương Tây - sẽ được ca ngợi một cách vui mừng bởi những người mong muốn có được sự hiểu biết đầy đủ về việc tụng niệm trong các ngôi chùa và nhà - đôi khi có hiệu quả kỳ diệu.

Hitanukampa sambuddho-yadannamanusasati
Anurodha virodhehi-vippamutto Tathagato
Love and compassion does the Enlightened feel
Towards another when he instructs him
The Tathagata is fully released
From attachment and resentment.

— Samyutta Nikaya i. p. iii.

Hitanukampa sambuddho-yadannamanusasati
Anurodha virodhehi-vippamutto Tathagato
Lòng từ và sự bi mẫn đã tạo nên cảm giác sáng ngời
Đến đối tượng khi anh ta hướng dẫn họ
Như Lai đã giải thoát hoàn toàn
Khỏi sự lưu luyến và sự oán hận.

— Samyutta Nikaya i. p. iii.

'Recent research in medicine, in experimental psychology and what is still called parapsychology has thrown some light on the nature of mind and its position in the world. During the last forty years the conviction has steadily grown among medical men that very many causes of diseases organic as well as functional, are directly caused by mental states. The body becomes ill because the mind controlling it either secretly wants to make it ill, or else because it is in such a state of agitation that it cannot prevent the body from sickening. Whatever its physical nature, resistance to disease is unquestionably correlated with the physiological condition of the patient.'[1]

Trong sự nghiên cứu của giới y khoa cho thấy ngành tâm lý học thực nghiệm và cái vẫn được gọi là siêu tâm lý học hay tâm linh học đã đưa ra một số ánh sáng về bản chất của tâm và vị trí của nó trong thế giới. Trong suốt bốn mươi năm qua niềm tin ngày càng gia tăng trong giới y học rằng rất nhiều nguyên nhân gây ra các căn bệnh hữu cơ cũng như chức năng, đều do trạng thái tâm trực tiếp gây ra. Cơ thể bị bệnh bởi vì tâm kiểm soát nó hoặc tạo nên căn bệnh mà không biết, hoặc bởi vì nó ở trong trạng thái kích động đến mức nó không thể tránh khỏi căn bệnh. Dù bản chất vật lý của nó là gì, khả năng chống lại bệnh tật có mối tương quan chắc chắn với tình trạng sinh lý của bệnh nhân.[1]

'Mind not only makes sick, it also cures. An optimistic patient has more chance of getting well than a patient who is worried and unhappy. The recorded instances of faith healing includes cases in which even organic diseases were cured almost instantaneously.'[2]

'Tâm không chỉ tạo nên bệnh, mà nó còn có thể chữa bệnh. Một bệnh nhân lạc quan có nhiều cơ hội khỏi bệnh hơn một bệnh nhân lo lắng và ưu phiền. Các trường hợp chữa bệnh bằng đức tin được ghi lại bao gồm các trường hợp ngay cả các bệnh hữu cơ (bệnh hữu cơ là bất kỳ bệnh nào trong đó có sự thay đổi về thể chất trong cấu trúc của một cơ quan hoặc bộ phận), cũng được chữa khỏi gần như ngay lập tức. '[2]

In this connection it is interesting to observe the prevalence, in Buddhist lands, of listening to the recital of the dhamma or the doctrine of the Buddha in order to avert illness or danger, to ward off the influence of malignant beings, to obtain protection and deliverance from evil, and to promote health, prosperity, welfare, and well-being. The selected discourses for recital are known as "paritta suttas," discourses for protection. But they are not "rakshana mantras" or protective incantations found in Brahmanic religion, nor are they magical rites. There is nothing mystical in them.

Trong mối liên hệ này thuyết phục cho thấy sự đang thịnh hành, ở các quốc gia Phật giáo, sự nghe giảng Pháp hoặc giáo lý của Đức Phật để ngăn chặn bệnh tật hoặc sự nguy hiểm, để tránh bị ảnh hưởng của những sinh vật hiểm ác, để có được sự bảo vệ và giải cứu khỏi ma quỉ, và để nâng cao sức khỏe, sự thịnh vượng, phúc lợi và hạnh phúc. Các bài kinh được chọn để tụng đọc được gọi là "kinh hộ trì paritta", các bài kinh hộ trì. Nhưng không phải là "thần chú rakshana" hay thần chú bảo vệ được tìm thấy trong tôn giáo Bà la môn, cũng không phải là nghi thức ma thuật. Không có gì thần bí trong kinh hộ trì paritta.

"Paritta" in Pali, "paritrana" in Sanskrit and "pirit" (pronounced pirith) in Sinhala[3] mean principally protection. Paritta suttas describe certain suttas or discourses delivered by the Buddha and regarded as affording protection. This protection is to be obtained by reciting or listening to the paritta suttas. The practice of reciting or listening to the paritta suttas began very early in the history of Buddhism. The word paritta, in this context, was used by the Buddha, for the first time, in a discourse known as Khandha Paritta [4] in the Culla Vagga of the Vinaya Pitaka (vol. ii, p. 109), and also in the Anguttara Nikaya under the title "Ahi (metta) Sutta" (vol. ii, p. 82). This discourse was recommended by the Buddha as guard or protection for the use of the members of the Order. The Buddha in this discourse exhorts the monks to cultivate metta or loving-kindness towards all beings.

Thuật ngữ "Paritta" trong tiếng Pali, trong tiếng Phạn là "paritrana" và "pirit" (phát âm là pirith) trong tiếng Sinhala [3] có nghĩa là bảo vệ chủ yếu. Các bài kinh Paritta mô tả một số bài kinh hoặc bài giảng chân thực do Đức Phật thuyết giảng và được coi là đủ khả năng hộ trì. Có được sự hộ trì này bằng cách đọc tụng thuộc lòng hoặc nghe các bài kinh paritta. Việc tu tập trì tụng hoặc nghe các bài kinh paritta có từ rất sớm trong lịch sử Phật giáo. Thuật ngữ paritta, được Đức Phật sử dụng lần đầu tiên trong một bài kinh tên là Kinh Ngũ Uẩn (Khandha Paritta) [4] trong Culla Vagga của Luật tạng (quyển ii, trang 109), và cũng trong Kinh Anguttara Nikaya với tiêu đề "Ahi (metta) Sutta" (quyển ii, trang 82). Bài pháp này đã được Đức Phật đề nghị như một sự bảo vệ hoặc hộ trì cho những người tụng đọc. Đức Phật trong bài kinh này khuyên các tu sĩ hãy trau dồi tâm từ hay lòng từ đối với tất cả chúng sinh.

It is certain that paritta recital produces mental well-being in those who listen to them with intelligence, and have confidence in the truth of the Buddha's words. Such mental well being can help those who are ill to recover, and can also help not only to induce the mental attitude that brings happiness but also to overcome its opposite. Originally, in India, those who listened to paritta sayings of the Buddha understood what was recited and the effect on them was correspondingly great. The Buddha himself had paritta recited to him, and he also requested others to recite paritta for his own disciples when they were ill. [5] This practice is still in vogue in Buddhist lands.

Không thể nghi ngờ rằng Kinh Hộ Trì Paritta tạo ra tinh thần an lạc cho những ai tụng đọc và lắng nghe với sự hiểu biết và tin tưởng vào chân lý của những lời Đức Phật dạy. Như thế, tinh thần an lạc có thể giúp những người bị bệnh phục hồi, và cũng có thể giúp không chỉ tạo ra thái độ tinh thần mang lại hạnh phúc mà còn giúp khắc phục điều ngược lại của nó. Tại Ấn Độ thời Đức Phật còn tại thế, những người đọc tụng hoặc nghe những câu Kinh Hộ Trì Pparitta của Đức Phật đều hiểu những gì được trì tụng và ảnh hưởng của câu kinh là rất lớn. Chính Đức Phật đã hộ niệm paritta cho mình, và Ngài cũng yêu cầu người khác niệm paritta cho các đệ tử của mình khi họ bị bệnh. [5] Tập tục này vẫn còn thịnh hành ở các xứ sở Phật giáo.

The Buddha and the arahants (the Consummate Ones) can concentrate on the paritta suttas without the aid of another. However, when they are ill, it is easier for them to listen to what others recite, and thus focus their minds on the dhamma that the suttas contain, rather than think of the dhamma by themselves. There are occasions, as in the case of illness, which weaken the mind (in the case of worldlings), when hetero-suggestion has been found to be more effective than autosuggestion.

Đức Phật và các vị Thánh A-la-hán có thể tập trung vào các bài Kinh Hộ Trì Paritta mà không cần sự trợ giúp của người khác. Tuy nhiên, khi bị bịnh, họ sẽ dễ dàng lắng nghe những gì người khác đọc tụng hơn, và do đó, họ tập trung tâm vào giáo pháp mà bài kinh chứa đựng, hơn là tự mình nghĩ ra giáo pháp. Có những trường hợp, chẳng hạn như trong trường hợp bệnh tật, làm suy yếu trí óc ( trường hợp những người phàm tục), khi gợi ý đặc biệt được cho là hiệu quả hơn so với việc tự họ tìm hiểu.

According to the teachings of the Buddha the mind is so closely linked with the body that mental states affect the body's health and well being. Some doctors even say there is no such thing as purely physical disease. That even so grossly "physical" a complaint as dental caries may be due to mental causes was maintained in a paper read before the American Dental Congress in 1937. The author pointed out that children living on a perfectly satisfactory diet may still suffer dental decay. In such cases, investigation generally shows that the child's life at home or at school is in some way unsatisfactory. The teeth decay because their owner is under mental strain.'[6] Unless, according to the Buddhist doctrine of kamma (Sanskrit karma), [7] these bad mental states are caused as a result of one's own acts (akusala kamma-vipaka), and are therefore unalterable, it is possible so to change these mental states as to cause mental health and physical well-being to follow thereafter.

Dựa vào giáo pháp của Đức Phật, tâm và thân có sự kết hợp chặt chẽ với các trạng thái tinh thần ảnh hưởng đến sức khỏe của thân và niềm hạnh phúc. Một số bác sĩ thậm chí nói rằng không phải bệnh là do hoàn toàn về thể chất. Ngay cả một sự thật rất rõ ràng là một sự than vãn khi bị nhức răng có thể do vấn đề tâm lý gây ra đã được viết trong một bài đọc trước Đại hội Nha khoa Hoa Kỳ năm 1937. Tác giả chỉ ra rằng trẻ em sống với một chế độ ăn kiêng hoàn toàn đạt tiêu chuẩn vẫn có thể bị sâu răng. Trong những trường hợp như vậy, sự nghiên cứu thường cho thấy cuộc sống của đứa trẻ ở nhà hoặc ở trường về một mặt nào đó không được thỏa mãn. Răng sâu bởi vì chủ nhân của chúng đang bị căng thẳng về tinh thần. '[6] Trừ khi, theo học thuyết nghiệp của Phật giáo về nghiệp (Trong tiếng Sanskrit viết là karma), [7] những trạng thái tinh thần xấu này là do hành vi của chính mình gây ra (akusala kamma-vipaka ), và do đó không thể thay đổi được, vì vậy có thể thay đổi những trạng thái tinh thần này để tạo ra sức khỏe tâm linh và thể chất sau đó.

1. The Power of Truth

1. Năng Lực Của Chân Thực

Several factors combine to contribute towards the efficacy of paritta recitals. Paritta recital is a form of saccakiriya, i.e., an asseveration of truth. Protection results by the power of such asseveration. This means establishing oneself in the power of truth to gain one's end. At the end of the recital of each sutta, the reciters bless the listeners with the words, etena sacca vajjena sotti te hotu sabbada which means "by the power of the truth of these words may you ever be well." The saying, "the power of the dhamma or Truth protects the follower of the dhamma" (dhammo have rakkhati dhammcarin) indicates the principle behind these sutta recitals.

Nhiều yếu tố kết hợp để góp phần tạo nên hiệu quả của các buổi tụng đọc Kinh Hộ Trì Paritta. Việc tụng đọc Kinh Hộ Trì Paritta là một dạng của năng lực thần thông hay còn được coi là năng lực của chân thực (saccakiriya), tức là một sự khẳng định chân thật. Kết quả được hộ trì bằng sức mạnh của sự đảm bảo đó. Điều này có nghĩa là thiết lập chính mình trong sức mạnh của sự thật để đạt được mục đích của mình. Vào cuối mỗi bài kinh, người trì tụng ban phước cho người nghe bằng những lời, etena sacca vajjena sotti te hotu sabbada có nghĩa là "nhờ sức mạnh sự thật chân thật của những lời này, bạn sẽ được khỏe mạnh." Câu nói, "sức mạnh của giáo pháp hay Chân lý hộ trì người theo giáo pháp" (dhammo có rakkhati dhammcarin) chỉ ra nguyên tắc đằng sau những buổi trì tụng kinh này.

"The belief in the effective power to heal, or protect, of the saccakiriya, or asseveration of something quite true, is but another aspect of the work ascribed to the paritta."[8]

""Niềm tin trong năng lực hữu hiệu để chữa lành, hoặc hộ trì, của năng lực chân thật (saccakiriya), hoặc chứng thực một điều gì đó hoàn toàn đúng, nhưng chỉ là một khía cạnh khác của việc được công nhận cho Kinh Hộ Trì paritta." [8]"[8]

2. The Power of Virtue

Several discourses of the Book of Protection describe the virtuous life. The starting point in Buddhism is sila (virtue). Standing on the firm ground of sila one should endeavor to achieve a collected mind. If it is true that virtue protects the virtuous, then a person who listens to the recital of paritta suttas intelligently, in a reflective mood, with complete confidence in the Buddha's words, uttered by one who has gained complete Enlightenment, will acquire so virtuous a state of mind as would enable him to dominate any evil influence, and to be protected from all harm.

2. Năng Lực của Đức Hạnh

Nhiều bài kinh thuộc Kinh Thánh Hộ Trì nói về đời sống đức hạnh. Điểm khởi đầu trong Phật giáo là giới (đức hạnh). Đứng trên nền tảng vững chắc của giới hành giả nên cố gắng đạt được một tâm thanh thản. Nếu thực sự rằng đức hạnh bảo vệ người có đức hạnh, thì một người nghe tụng các bài kinh Thánh hộ trì paritta một cách thông minh, với tâm trạng suy tư, hoàn toàn tin tưởng vào những lời Phật dạy, Ngài là một người đã đạt được Giác ngộ hoàn toàn, sẽ có được đức hạnh như vậy. trạng thái của tâm sẽ cho phép hành giả chế ngự bất kỳ ảnh hưởng xấu nào, và được hộ trì khỏi mọi tổn hại.

3. The Power of Love

The utterances of the compassionate Buddha are never void of love. He walked the high-ways and by-ways of India enfolding all within the aura of his love and compassion, instructing, enlightening, and gladdening the many by his teaching. The reciters of the paritta are therefore expected to do so with a heart of love and compassion wishing the listeners and others weal and happiness and protection from all harm.

Năng Lực của Lòng Từ

Lời giảng dạy của Đức Phật về lòng từ bi là không bao giờ bỏ quên lòng thương vạn vật. Ngài đã đi trên những con đường cao và những con đường nhỏ của Ấn Độ, bao bọc tất cả với ánh hào quang của lòng từ và sự bi mẫn, chỉ dẫn, khai sáng và làm vui lòng nhiều người bởi sự giảng dạy của Ngài. Do đó, những người trì tụng kinh thánh paritta phải làm như vậy với một trái tim của lòng từ và sự bi mẫn mong muốn người nghe và những người khác khỏe mạnh, hạnh phúc và được hộ trì khỏi mọi sự tổn hại.

Love (metta) is an active force. Every act of one who truly loves is done with the pure mind to help, to cheer and to make the paths of others more easy, more smooth and more adapted to the conquest of sorrow, the winning of the Highest Bliss.

Lòng từ (metta) là một động lực. Mọi hành động của một người thật sự với tâm từ đều được thực hiện với tâm trong sáng để giúp đỡ, để cổ vũ và làm cho cách tiếp cận của người khác dễ dàng hơn, suôn sẻ hơn và thích nghi hơn với việc chinh phục nỗi buồn, chiến thắng niềm hạnh phúc cao nhất.

C. A. F. Rhys Davids commenting on amity (metta) writes: "The profession of amity, according to Buddhist doctrine, was no mere matter of pretty speech. It was to accompany and express a psychic suffusion of the hostile man or beast or spirit with benign, fraternal emotion — with metta. For strong was the conviction, from Sutta and Vinaya, to Buddhaghosa's Visuddhi Magga,[9] that "thoughts are things," that psychical action, emotional or intellectual, is capable of working like a force among forces. Europe may yet come round further to this Indian attitude."[10]

Bà C. A. F. Rhys Davids đưa ra nhận xét về tâm từ (metta) viết: "Chức vụ của sự thân thiện, theo học thuyết Phật giáo, không chỉ là một lời nói khéo léo. Mà là để đồng hành và thể hiện nỗi đau tâm linh của con người hoặc con thú hoặc linh hồn với sự tử tế, sự thương xót như anh em - với tâm từ. Đối với niềm tin mạnh mẽ, trong Kinh tạngLuật tạng, đến Thanh Tịnh Đạo luận Visuddhi Magga của Luận sư Buddhaghosa, [9] rằng "tư tưởng là sự vật," rằng hành động tâm linh, tình cảm hoặc trí tuệ, có khả năng hoạt động giống như một lực lượng giữa các lực lượng. Người Tây Phương có thể sẽ đi xa hơn với thái độ này của Ấn Độ. "[10]

4. The Power of Sound

It is believed that the vibratory sounds produced by the sonorous and mellifluous recital of the paritta suttas in their Pali verses are soothing to the nerves and induce peace and calm of mind; they also bring about harmony to the physical system.

4. Năng Lực của việc nghe Trì Tụng Kinh Thánh Paritta

Người ta tin rằng những âm thanh rung động được tạo ra bởi phần độc tấu hay và bay bổng của các bài thánh kinh paritta trong các bài kệ tiếng Pali có tác dụng xoa dịu tinh thần và tạo ra sự bình yên và tĩnh lặng cho tâm trí; chúng cũng mang lại sự hài hòa cho cơ thể.

How can bad influences springing from evil beings be counteracted by recital of paritta suttas? Bad influences are the results of evil thinking. They can, therefore, be counteracted by wholesome states of mind. One sure way of inducing a wholesome state of mind is by listening and reflecting on paritta recitals with intelligence and confidence. So great is the power of concentration that by adverting whole-heartedly to the truth contained in the paritta recitals one is able to develop a wholesome state of mind.

Có thế nào mà những ảnh hưởng xấu đến từ những sinh vật xấu xa làm ngược lại bằng cách tụng đọc lại các bài thánh kinh paritta? Ảnh hưởng xấu là kết quả của suy nghĩ xấu xa. Do đó, sự suy nghĩ xấu xa có thể bị chống lại bởi trạng thái lành mạnh của tâm. Một cách chắc chắn để tạo ra trạng thái tâm lành mạnh là lắng nghe và suy ngẫm về các bài tụng paritta với trí thông minh và sự tự tin. Sức mạnh của sự tập trung tuyệt vời đến nỗi bằng cách toàn tâm toàn ý đề cập đến sự chân thật chứa đựng trong các bài tụng paritta, người ta có thể phát triển một trạng thái tinh khiết của tâm.

The recital of paritta suttas can also bring material blessings in its wake through the wholesome states of mind induced by concentration and confidence in listening intelligently to the recital. According to the Buddha, right effort is a necessary factor in overcoming suffering.[11] Listening to these recitals in the proper way can also generate energy for the purpose of securing worldly progress while it also secures spiritual progress.

Việc tụng đọc các bài kinh paritta cũng có thể mang lại những phước lành vật chất khi nó thức tỉnh thông qua các trạng thái lành mạnh của tâm trí được tạo ra bởi sự tập trung và tự tin khi lắng nghe bài giảng một cách có trí tuệ. Theo Đức Phật, nỗ lực đúng đắn là yếu tố cần thiết để vượt qua đau khổ. [11] Nghe những bài tụng này theo cách thích hợp cũng có thể tạo ra năng lượng cho mục đích bảo đảm sự tiến bộ trên thế giới đồng thời nó cũng đảm bảo sự tiến bộ về tâm linh.

There is no better medicine than truth (Dhamma) for the mental and physical ills which are the causes of all suffering and misfortune. So the recital of paritta suttas in as much as they contain the dhamma, may, when they are listened to in the proper attitude, bring into being wholesome states of mind which conduce to health, material progress and spiritual progress. The effect of Pirit can also transcend distance however great.

Không có loại thuốc nào tốt hơn pháp chân thật (Pháp) cho những bệnh tật về tinh thần và thể chất vốn là nguyên nhân của mọi đau khổ và bất hạnh. Vì vậy, việc tụng đọc các bài kinh paritta càng nhiều càng chứa đựng giáo pháp, khi được lắng nghe với thái độ thích hợp, có thể mang lại trạng thái tâm trí lành mạnh dẫn đến khỏe mạnh, tiến bộ vật chất và tiến bộ tinh thần. Tác dụng của hộ trì Pirit cũng có thể vượt xa khoảng cách rất lớn.

It is true that the Buddhists consider the parittas as a never-failing, potent, and purifying force, a super-solvent. However, a question may arise whether recitals from the Book of Protection will, in every case, result in the protection and blessing sought for. In this connection the same reply given by the Venerable Nagasena to King Milinda's question why the recital of paritta does not in all cases protect one from death, is worth remembering: "Due to three causes recital of paritta may have no effect: kamma hindrances (kammavarana); hindrances from defilements (kilesavarana); lack of faith (asaddhanataya)." [12]

Điều đó đúng là các Phật tử coi các thánh kinh paritta như một lực lượng không bao giờ thất bại, mạnh mẽ và thanh lọc, một sự chắc chắn. Tuy nhiên, một câu hỏi có thể nảy sinh là liệu trong mọi trường hợp, liệu các bài tụng đọc kinh thánh hộ trì paritta có mang lại sự bảo vệ và ban phước cho người tìm kiếm hay không. Trong sự liên quan này, câu trả lời tương tự mà Đại đức Nagasena trả lời cho câu hỏi của Vua Milinda tại sao trong mọi trường hợp, việc trì tụng kinh thánh paritta không bảo vệ một người khỏi cái chết, đáng được ghi nhớ: "Do ba nguyên nhân mà việc tụng đọc kinh thánh paritta có thể không có tác dụng: 1 là nghiệp chướng ngại ( kammavarana); 2 là chướng ngại từ phiền não (kilesavarana); 3 là thiếu đức tin (asaddhanataya). " [12]

Kamma means action and not the result of action; therefore action can be counteracted by other action. Kamma is not something static, but is always changing, i.e., always in the making; that being so, action can be counteracted by other action. Hence bad actions on the part of the hearers of the recital may negative the beneficial effects of the recital.

Nghiệp có nghĩa là hành động chứ không phải kết quả của hành động; do đó nghiệp có thể bị chống lại bởi hành động khác. Nghiệp không phải là một cái gì đó bất biến, nó luôn luôn thay đổi, tức là luôn luôn tạo ra; vì vậy, hành động (nghiệp)có thể bị chống lại bởi hành động khác. Do đó, những hành động xấu đối với người nghe buổi trì tụng có thể làm tiêu cực những tác động có lợi của việc trì tụng đó.

If the mind of the hearer is contaminated with impure thoughts then also the intended beneficial effects of the recital may not materialize. But however impure the mind of the hearer may be if there is great confidence in the efficacy of the recital then this important factor may help to secure for him the beneficial effects of the recital.

Nếu tâm của người nghe bị nhiễm bẩn bởi những ý nghĩ không thanh tịnh thì những tác động có lợi dự liệu của buổi trì tụng cũng có thể không thành hiện thực. Nhưng tâm của người nghe có thể không thanh tịnh (chẳng hạn như tâm đang sầu khổ vì thân đang đau đớn) đến đâu nếu họ tin tưởng tuyệt đối vào hiệu quả của buổi trì tụng thì yếu tố quan trọng này có thể giúp đảm bảo cho người đó những tác dụng có lợi của buổi tụng đọc.

Notes

1.
For the physical basis of resistance, see The Nature of Disease by J. E. R. McDonagh, F.R.C.S.
2.
Aldous Huxley. Ends and Means (London, 1946), p. 259.
3.
The state language of Sri Lanka (Ceylon).
4.
See below, discourse no. 5.
5.
See below Bojjhanga and Girimananda suttas, numbers 12, 13, 14 and 15.
6.
Aldous Huxley, Ends and Means, London 1946, p. 259.
7.
Karma in Buddhism means action brought about by volition.
8.
C. A. F. Rhys Davids, Dialogues of the Buddha, part 3, p. 186.
9.
Chapter ix. p. 313. According to the Sasamalankara quoted in Gray's Buddhaghosuppatti, p.15, Buddhaghosa was about to write a Commentary on the Paritta, when he was sent to greater work in Ceylon.
10.
Dialogues of the Buddha, part 3, p. 185.
11.
S. i. 214.
12.
Milinda Pañha, vol. I., p. 216.

Notes

1.
For the physical basis of resistance, see The Nature of Disease by J. E. R. McDonagh, F.R.C.S.
2.
Aldous Huxley. Ends and Means (London, 1946), p. 259.
3.
The state language of Sri Lanka (Ceylon).
4.
See below, discourse no. 5.
5.
See below Bojjhanga and Girimananda suttas, numbers 12, 13, 14 and 15.
6.
Aldous Huxley, Ends and Means, London 1946, p. 259.
7.
Karma in Buddhism means action brought about by volition.
8.
C. A. F. Rhys Davids, Dialogues of the Buddha, part 3, p. 186.
9.
Chapter ix. p. 313. According to the Sasamalankara quoted in Gray's Buddhaghosuppatti, p.15, Buddhaghosa was about to write a Commentary on the Paritta, when he was sent to greater work in Ceylon.
10.
Dialogues of the Buddha, part 3, p. 185.
11.
S. i. 214.
12.
Milinda Pañha, vol. I., p. 216.

This collection of paritta discourses — in Sinhala, The Pirit Potha — is the most widely known Pali book in Sri Lanka. It is called The Buddhist Bible; it is given an important place in the Buddhist home, and is even treated with veneration. In most houses where there is a small shrine, this book is kept there so that the inmates may refer to it during their devotional hour. Some have committed to memory the three well known discourses — Mangala, Ratana and Karaniya-metta suttas. [1] Even children are familiar with these discourses; for they learn them from their parents and elders or from the "dhamma school."

Tuyển tập các bài kinh paritta này - trong Sinhala, kinh Pirit Potha là một kinh Thánh Pali - được phổ biến rộng rãi nhất ở Sri Lanka. Được gọi là Kinh thánh Phật giáo; đứng một vị trí quan trọng trong ngôi nhà của những người Phật tử, và thậm chí được các Phật tử hết sức tôn kính. Trong hầu hết các ngôi nhà của người Phật tử đều có một phòng nguyện nhỏ, cuốn kinh này được lưu giữ ở đó để mọi người trong nhà có thể tham khảo trong giờ tụng kinh của họ. Một số người đã nguyện ghi nhớ ba bài kinh nổi tiếng - các bài Kinh Điềm Lành (Mangala Sutta) , Kinh Châu Báu (Ratana Sutta) Kinh Tâm Từ -Karaniya-metta. [1] Ngay cả trẻ em cũng thuộc lòng với những bài bài kinh này; vì trẻ em học những bài kinh này từ cha mẹ và ở người lớn tuổi hoặc từ "trường dạy pháp".

The habit of listening to the recital of paritta suttas among the Westerners is growing slowly but steadily. The present writer, while on his missions in the European and American countries, has, at request of several residents there, tape-recorded the recital of paritta suttas for their benefit, and has air-mailed cassettes containing the sutta recitals to those who sent him such cassettes.

Khuynh hướng nghe tụng kinh paritta của người phương Tây đang phát triển chậm nhưng đều đặn. Người viết hiện nay, trong khi đi công tác ở các nước Âu Mỹ, theo yêu cầu của một số cư dân ở đó, đã thu băng ghi âm bài tụng kinh paritta vì lợi ích của họ, và đã gửi băng cát-xét bằng đường hàng không chứa bài kinh đọc tụng cho những người đã đưa ông ta những băng cát-xét để nhờ thâu âm.

Now what does this book contain? It is a collection of twenty four suttas or discourses almost all delivered by the Buddha, and found scattered in the five original collections (nikayas) in Pali, which form the Sutta Pitaka, the "Canonical Discourses." These discourses are preceded by an enunciation of the Three Refuges; the Ten Precepts and the questions asked of a novice.

Bây giờ cuốn sách nội dung là gì? Đây là một tuyển tập gồm hai mươi bốn bài kinh đều do Đức Phật thuyết giảng, và được tìm thấy rải rác trong năm tuyển tập nguyên bản (Kinh Tạng nikayas) bằng tiếng Pali, tạo thành Kinh tạng, "Canonical Discourses." Những bài giảng này bắt đầu bằng Tam Quy; Mười giới luật và những câu hỏi của một sa di.

This collection of discourses, popularly known as Pirit Potha or The Book of Protection, has a less known title, Catubhanavara (in Sinhala Satara Banavara). A 13th century Commentary to this, written in Pali, by a pupil of the Venerable Rajaguru Vanaratana of Sri Lanka, is available under the title Catubhanavara Atthakatha or Sarattha Samuccaya.

Tuyển tập các bài kinh này, thường được biết đến với cái tên Pirit Potha hay kinh Thánh hộ trì, có một tựa đề ít được biết đến hơn, Catubhanavara (trong tiếng Sinhala Satara Banavara). Một bài Bình luận thế kỷ 13 về vấn đề này, được viết bằng tiếng Pali, bởi một học trò của Hòa thượng Rajaguru Vanaratana ở Sri Lanka, có sẵn dưới tựa đề Catubhanavara Atthakatha hoặc Sarattha Samuccaya.

What is a bhanavara? It is a collection of sermons or discourses. Four such collections are called Catubhanavara. As the teachers of old have said, a three-word line (pada) is made up of eight syllables (attha akkhara), four such padas make a stanza or a gatha. Thus stanzas consists of thirty-two syllables. 250 such stanzas is called a bhanavara which consists of 8,000 syllables. The Catunabhanavara was compiled by the Maha Theras, the teachers of yore (paranakacariya), of Sri Lanka, and today it is known among the Buddhists of Sri Lanka as the Pirit Potha The Book of Protection.

Kinh Tụng Bhanavara là một phần kinh tụng có 8.000 chữ là gì? Là một bộ tổng hợp các bài giảng hoặc các bài kinh. Bốn bộ tổng hợp như vậy được gọi là Catubhanavara (catu nghĩa là 4). Như những người thầy ngày xưa đã nói, một dòng ba từ (pada) được tạo thành từ tám âm tiết (attha akkhara), bốn padas (cú) như vậy tạo thành một khổ thơ hoặc một gatha (phúng tụng). Như vậy khổ thơ gồm có ba mươi hai âm tiết. 250 khổ thơ như vậy được gọi là bhanavara bao gồm 8.000 âm tiết. Catunabhanavara được biên soạn bởi Maha Theras, những người thầy của yore (paranakacariya), người Sri Lanka, và ngày nay nó được các Phật tử Sri Lanka biết đến với cái tên Pirit Potha Kinh Thánh Hộ Trì.

It is customary for Buddhist monks, when they are invited to the homes of the laity on occasions of domestic importance, such as birth days, house-warming, illness, and similar events, to recite the three popular discourses mentioned above. In the domestic and social life of the people of Sri Lanka pirit ceremony is of great significance. No festival or function, religious or social, is complete without the recital of the paritta. On special occasions monks are invited to recite the paritta suttas not for short periods but right through the night or for three or seven days, and at times, for weeks. On such occasions a pavilion (pirit mandapaya) is constructed for the purpose of accommodating the monks at the recital. Before the commencement of the recital the laity present at the ceremony makes a formal invitation to the monks by reciting in Pali three stanzas which explain the purpose of the recital.[2] Then the monks, generally about twelve or fourteen, who have been invited, will recite the three popular suttas. Thereafter a pair of monks will commence reciting the remaining suttas for two hours. They will then retire and will be followed by another pair for another two hours. Two monks must be constantly officiating. In this manner the recital will last till dawn.

Thông thường thì các nhà sư Phật giáo khi được mời đến nhà cư sĩ vào những dịp trọng đại của gia đình, chẳng hạn như ngày sinh, tân gia, ốm đau, và những sự kiện tương tự, phải tụng ba bài kinh phổ biến nói trên. Trong đời sống và sinh hoạt trong xã hội của người dân Sri Lanka lễ pirit có ý nghĩa vô cùng to lớn. Không có lễ hội hay chức năng nào, tôn giáo hay xã hội, hoàn chỉnh mà không có sự tụng đọc của Thánh Kinh Paritta. Vào những dịp đặc biệt, các nhà sư được thỉnh đọc tụng các bài kinh paritta không phải trong thời gian ngắn mà ngay trong một đêm hoặc trong ba hoặc bảy ngày, và đôi khi, trong nhiều tuần. Vào những dịp như vậy, một đạo tràng (pirit mandapaya) được lập lên để các nhà sư làm buổi lễ trì tụng kinh. Trước khi bắt đầu buổi lễ, giáo dân có mặt tại buổi lễ đưa ra lời thỉnh chính thức đến các nhà sư bằng cách đọc ba khổ thơ bằng tiếng Pali giải thích mục đích của buổi trì tụng. [2] Sau đó, các nhà sư, thường khoảng mười hai hoặc mười bốn, những người đã được mời, sẽ tụng ba bài kinh phổ biến (Kinh Điềm Lành, Kinh Châu Báu, Kinh Tâm Từ). Sau đó, hai nhà sư sẽ bắt đầu đọc các bài kinh còn lại trong hai giờ. Sau đó, họ sẽ nghỉ và hai nhà sư khác sẽ tiếp theo làm lễ trong hai giờ nữa. Cứ như vậy, hai nhà sư phải thường xuyên làm lễ. Theo cách này, buổi tụng đọc sẽ kéo dài đến bình minh.

While the recital continues there will be found a pot of water placed on a table before the monks. On this table there is also a sacred thread (pirit nula). For an all night pirit ceremony the casket containing a relic of the Buddha, and the Pirit Potha or The Book of Protection written on ola leaves, are also brought into the pavilion. The relic represents the Buddha, the "Pirit Potha" represents the Dhamma or the teachings of the Buddha, and the reciting Bhikkhu-Sangha represent the Ariya-Sangha, the arahant disciples of the Buddha.

Trong khi buổi trì tụng tiếp tục một chậu nước được đặt trên bàn trước các nhà sư. Trên bàn này cũng có một sợi dây thiêng (pirit nula). Đối với một buổi lễ pirit suốt đêm, một hộp đựng (bảo tháp) xá lợi của Đức Phật, và Kinh Pirit Potha hoặc Kinh Thánh Hộ Trị được viết trên lá ola, cũng được mang vào đạo tràng. Xá lợi tượng trưng cho Đức Phật, kinh Hộ Trì "Pirit Potha" tượng trưng cho Giáo pháp hoặc lời dạy của Đức Phật, và các Tỳ-kheo trì tụng tượng trưng cho các vị Thánh Tăng (Ariya-Sangha), những đệ tử a-la-hán của Đức Phật.

The thread is drawn round the interior of the pavilion, and its end twisted round the casket, the neck of the pot of water, and tied to the cord of the ola-leaf book. While the special discourses are being recited the monks hold the thread. The purpose is to maintain an unbroken communication from the water to the relic, to the Pirit Potha and to the officiating monks, (Buddha, Dhamma, Sangha, the Ti-ratana, the three jewels.) A ball of thread connected to "The Three Jewels" and the water, is unloosened and passed on to the listeners (seated on the ground on mats), who hold the thread while the recital goes on.

Sợi dây được kéo xung quanh bên trong gian nhà, và phần cuối của nó xoắn quanh bảo tháp đựng xá lợi, cổ chậu nước, và buộc vào sợi dây của cuốn kinh bằng lá ola. Trong khi các bài kinh đặc biệt được tụng đọc, các nhà sư giữ sợi dây. Mục đích là để duy trì một sự liên lạc không gián đoạn từ nước đến thánh tích, đến kinh Pirit Potha và các nhà sư đang hành lễ, (Phật, Pháp, Tăng - Tam Bảo.) Một quả cầu của sợi dây kết nối với " Tam Bảo "và nước, được mở ra và truyền cho người nghe (những người ngồi trên chiếu trên mặt đất), cầm sợi dây trong khi buổi trì tụng tiếp tục.

When the recital in Pali of the entire book is over at dawn, the thread sanctified by the recital is divided into pieces and distributed among the devotees to be tied round their wrists or necks. At the same time the sanctified water is sprinkled on all, who even drink a little of it and sprinkle it on their heads. These are to be regarded as symbols of the protective power of the paritta that was recited. It is a service of inducing blessings. It has its psychological effects.

Khi buổi trì tụng bằng tiếng Pali của toàn bộ kinh Thánh kết thúc vào lúc bình minh, sợi dây được thánh hóa bởi buổi trì tụng được chia thành nhiều mảnh và phân phát cho những người Phật tử để buộc quanh cổ tay hoặc cổ của họ. Đồng thời, nước thánh được rảy trên tất cả mọi người, thậm chí ai cũng uống một chút nước và rảy trên đầu. Đây được coi là biểu tượng của sức mạnh hộ trì của paritta đã được truyền tụng. Đó là một dịch vụ ban phước. Nó có tác dụng tâm lý .

Dr. Bernard Grad of McGill University in Montreal painstakingly proved that if a psychic healer held water in a flask and this water was later poured on barley seeds, the plants significantly outgrew untreated seeds. But — and this is the intriguing part — if depressed psychiatric patients held the flasks of water, the growth of seeds was retarded.

Tiến sĩ Bernard Grad của Đại học McGill ở Montreal ông đã thực hiện một loạt thí nghiệm trên hạt giống cây trồng đã dẫn đến một số bằng chứng mạnh mẽ nhất về khả năng chữa bệnh trong bệnh lý cận thần kinh rằng với một vị pháp sư về tâm linh giữ nước trong một cái bình và sau đó nước này được đổ lên hạt lúa mạch, thì lúa mạch sẽ lớn hơn những hạt chưa được vẩy nước đó. Nhưng - và đây là phần hấp dẫn - nếu bệnh nhân tinh thần chán nản cầm bình nước, sau đó đổ lên hạt giống thì sự phát triển của hạt giống sẽ bị chậm lại.

'Dr. Grad suggests, that there appeared to be some "x factor" or energy that flows from the human body to affect growth of plants and animals. A person's mood affected this energy. This previously unacknowledged "energy" has the widest implications for medical science, from healing to lab tests, Grad says.'[3]

Dr. Grad cho rằng dường như có một số "yếu tố x" hoặc năng lượng chảy từ cơ thể con người để ảnh hưởng đến sự phát triển của thực vật và động vật. Tâm trạng của một người ảnh hưởng đến năng lượng này. Tiến sĩ Grad cho biết "năng lượng" chưa được công nhận trước đây này có ý nghĩa rộng lớn nhất đối với khoa học y tế, từ chữa bệnh cho đến các thử nghiệm trong phòng thí nghiệm. '[3]

As experimentally discovered by Dr. Grad mind can influence matter. If that be so, not much thinking is necessary to draw the logical inference that mind can influence mind. Further if the human mind can influence lower animals, then by a parity of reasoning the human mind can influence the minds of beings higher than animals.

căn cứ vào thực nghiệm được phát hiện bởi Tiến sĩ Grad, tâm trí có thể ảnh hưởng đến vật chất. Nếu đúng như vậy, không cần phải suy nghĩ nhiều để rút ra suy luận logic mà tâm trí có thể ảnh hưởng đến tâm trí. Hơn nữa, nếu tâm trí con người có thể ảnh hưởng đến động vật thấp hơn, thì bằng một lý luận ngang hàng, tâm trí con người có thể ảnh hưởng đến tâm trí của những sinh vật cao hơn động vật.

Notes

1.
See below nos. 2, 3, 4.
2.
See Invitation (aradhana) below.
3.
Psychic Dicoveries Behind the Iron Curtain, Sheila Ostrander & Lynn Schroeder, Bantam Books, U.S.A., p. 224; also read chapter on "Healing with Thought," p. 293.

Notes

1.
See below nos. 2, 3, 4.
2.
See Invitation (aradhana) below.
3.
Psychic Dicoveries Behind the Iron Curtain, Sheila Ostrander & Lynn Schroeder, Bantam Books, U.S.A., p. 224; also read chapter on "Healing with Thought," p. 293.

Invitation (aradhana)  

Vipatti patibahaya -sabba sampatti siddhiya
Sabba dukkha vinasaya — parittam bratha mangalam
Vipatti patibahaya -sabba sampatti siddhiya Sabba bhhya vinasaya — parittam bratha mangalam
Vipatti patibahaya -sabba sampatti siddhiya Sabba roga vinasaya — parittam bratha mangalam

Lời Mời (aradhana)  

Vipatti patibahaya -sabba sampatti siddhiya
Sabba dukkha vinasaya — parittam bratha mangalam
Vipatti patibahaya -sabba sampatti siddhiya Sabba bhhya vinasaya — parittam bratha mangalam
Vipatti patibahaya -sabba sampatti siddhiya Sabba roga vinasaya — parittam bratha mangalam

That from misfortune I may be free
That all good luck should come to me
And also from anguish to be free
Chant "THE PROTECTION" I invite thee.

That from misfortune I may be free
That all good luck should come to me
Also from all fear to be free
Chant "THE PROTECTION" I invite thee.[1] 

That from misfortune I may be free
That all good luck should come to me
And also from sickness to be free
Chant "THE PROTECTION" I invite thee.

Thoát khỏi bất hạnh, tôi có thể được tự do
Mọi điều may mắn sẽ đến với tôi
Và cũng thoát khỏi đau khổ để được tự do
Tri Tụng Kinh "Hộ Trì" Tôi mời bạn

Thoát khỏi bất hạnh, tôi có thể được tự do
Mmọi điều may mắn sẽ đến với tôi
Và cũng thoát khỏi sợ hãi để được tự do
Tri Tụng Kinh "Hộ Trì" Tôi mời bạn.[1] 

Thoát khỏi bất hạnh, tôi có thể được tự do
Mmọi điều may mắn sẽ đến với tôi
Và cũng thoát khỏi bệnh tật để được tự do
Tri Tụng Kinh "Hộ Trì" Tôi mời bạn

Note

1.
See above section on The Book of Protection.

Note

1.
Xem phần trên về Kinh Thánh Hộ Trì.

I. Going for Refuge (Sarana-gamana [1])  

Namo tassa bhagavato arahato samma sambuddhassa

Homage to the Blessed One, the Consummate One,
the supremely Enlightened One

Buddham saranam gacchami
Dhammam saranam gacchami
Sangham saranam gacchami

Dutiyampi Buddham saranam gacchami
Dutiyampi Dhammam saranam gacchami
Dutiyampi Sangham saranam gacchami

Tatiyampi Buddham saranam gacchami
Tatiyampi Dhammam saranam gacchami
Tatiyampi Sangham saranam gacchami
I go for refuge to the Buddha (Teacher)
I go for refuge to the Dhamma (the Teaching)
I go for refuge to the Sangha (the Taught)

For the second time I go for refuge to the Buddha
For the second time I go for refuge to the Dhamma
For the second time I go for refuge to the Sangha

For the third time I go for refuge to the Buddha
For the third time I go for refuge to the Dhamma
For the third time I go for refuge to the Sangha

Note

1.
Vin. I, 22 (cf. M. i. 24); Khp. No. 1.

I. Qui Y Tam Bảo (Sarana-gamana [1])  

Namo tassa bhagavato arahato samma sambuddhassa

Homage to the Blessed One, the Consummate One,
the supremely Enlightened One

Buddham saranam gacchami
Dhammam saranam gacchami
Sangham saranam gacchami

Dutiyampi Buddham saranam gacchami
Dutiyampi Dhammam saranam gacchami
Dutiyampi Sangham saranam gacchami

Tatiyampi Buddham saranam gacchami
Tatiyampi Dhammam saranam gacchami
Tatiyampi Sangham saranam gacchami
Con đem hết lòng thành kính xin Quy y Phật. (Giáo Thọ Sư)
Con đem hết lòng thành kính xin Quy y Pháp. (Giáo Thọ Sư)
Con đem hết lòng thành kính xin Quy y Tăng. (Giáo Thọ Sư)

Con đem hết lòng thành kính xin Quy y Phật, lần thứ nhì.
Con đem hết lòng thành kính xin Quy y Pháp, lần thứ nhì.
Con đem hết lòng thành kính xin Quy y Tăng, lần thứ nhì.

Con đem hết lòng thành kính) xin Quy y Phật, lần thứ ba.
Con đem hết lòng thành kính) xin Quy y Pháp, lần thứ ba.
Con đem hết lòng thành kính) xin Quy y Tăng, lần thứ ba.

Note

1.
Vin. I, 22 (cf. M. i. 24); Khp. No. 1.

II. The Ten Training Precepts (Dasa-sikkhapada)   [1]

1. I undertake to abide by the precept to abstain from killing.

2. I undertake to abide by the precept to abstain from stealing.

3. I undertake to abide by the precept to abstain from sexual misconduct.

4. I undertake to abide by the precept to abstain from lying.

5. I undertake to abide by the precept to abstain from liquor that causes intoxication and heedlessness.

6. I undertake to abide by the precept to abstain from untimely eating.

7. I undertake to abide by the precept to abstain from dancing, singing, music, and visiting unseemly shows.

8. I undertake to abide by the precept to abstain from the use of garlands, perfumes, cosmetics, and embellishments.

9. I undertake to abide by the precept to abstain from the use of high and luxurious beds.

10. I undertake to abide by the precept to abstain from accepting gold and silver.

Note

1.
Khp. No. 2; cf. Vin. I, 83-84; Vbh. 285 ff.

II. Mười Giới (Dasa-sikkhapada)   [1]

1. Pāṇātipātā veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi.
1. Tôi xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa sự sát sanh.

2. Adinnādānā veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi.
2. Tôi xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa sự trộm cắp.

3. Abrahmacariyā veramaṇī sikkhā-padaṃ samādiyāmi.
3. Tôi xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa sự tà dâm.

4. Musāvādā veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi.
4. Tôi xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa sự nói dối..

5. Surāmerayamajjappamādaṭṭhānā veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi.
5. Tôi xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa sự dễ duôi uống rượu và các chất say.

6. Vikālabhojanā veramaṇī sikkhā-padaṃ samādiyāmi.
6- Tôi xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa sự ăn sái giờ.

7. Nāccagītavāditavisū kadassanamālā gandhavilepanadhāranamaṇdaṇavibhū sa-naṭṭhānā veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi.
7- Tôi xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa sự múa hát thổi kèn, đờn, xem múa hát, nghe đờn kèn và trang điểm thoa vật thơm, đồi phấn, đeo tràng hoa.

8. Uccāsayanamahāsayanā veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi.
8- Tôi xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa chỗ nằm ngồi nơi quá cao và xinh đẹp.

9- Uccāsayanamahāsayanā veramaṇī
9 - Tôi xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa việc sử dụng sàng tọa cao rộng .

10. Jāta-rūparajatapaṭiggahaṇā veramaṇī
10 - Tôi xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa Kiêng tránh sự thọ nhận vàng bạc.

Note

1.
Khp. No. 2; cf. Vin. I, 83-84; Vbh. 285 ff.

III. Questions to be Answered by a Novice (Samanera Pañha [1])  

1) One is what? All beings subsist on food.[2]

2) Two is what? Name and form (mind and matter).

Three is what? Three kinds of feeling.

Four is what? Four Noble Truths.

Five is what? Five aggregates subject to grasping.

Six is what? Internal six-fold base.

Seven is what? Seven Factors of Enlightenment.

Eight is what? The Noble Eightfold Path.

Nine is what? Nine abodes of beings.

Ten is what? He that is endowed with ten attributes is called an arahant.

Notes

1.
Also known as "Kumaro Pañha," Questions to be answered by the Young One. Khp. No. 4; cf. A. v. 50 ff; 55 ff. The novice referred to here is the seven-year old Sopaka. He was questioned by the Buddha. It is not a matter for surprise that a child of such tender years can give profound answers to these questions. One has heard of infant prodigies. (See Encyclopaedia Britannica. Inc., 1955, II. p. 389. Also read The Case for Rebirth, Francis Story, Wheel 12-13, Buddhist Publication Society, Kandy, Sri Lanka.)
2.
See notes at the end of the book.

III. Nam Tử Hỏi Ðạo (Samanera Pañha [1])  

1) Ekaṃ nāma kiṃ? Sabbe sattā āhāraṭṭhitikā.
1) Thế nào là một? - Mọi loài hữu tình đều tồn tại nhờ thức ăn.[2]

2) Dve nāma kiṃ? Nāmañca rūpañca
2) Thế nào là hai? - Danh và sắc.

3) Tīṇi nāma kiṃ? Tisso vedanā.
3) Thế nào là ba? - Ba loại cảm thọ.

4) Cattāri nāma kiṃ? Cattāri ariyasaccāni.
4)Thế nào là bốn? - Bốn Thánh đế.

5) Pañca nāma kiṃ? Pañcupādānakkhandhā.
5)Thế nào là năm? - Năm thủ uẩn.

6)Cha nāma kiṃ? Cha ajjhattikāni āyatanāni.
6)Thế nào là sáu? - Sáu nội xứ.

7) Satta nāma kiṃ? Satta bojjhaṅgā.
7)Thế nào là bảy? - Bảy giác chi.

8)Aṭṭha nāma kiṃ? Ariyo aṭṭhaṅgiko maggo.
8)Thế nào là tám? - Thánh đạo tám ngành.

9) Nava nāma kiṃ? Nava sattāvāsā.
9) Thế nào là chín? - Chín nơi cư trú của các loài hữu tình.

10) Dasa nāma kiṃ? Dasahaṅgehi samannāgato “arahā”ti vuccatīti.
10)Thế nào là mười? - Vị nào có đủ mười đức tánh được gọi là vị A-la-hán.

Notes

1.
Also known as "Kumaro Pañha," Questions to be answered by the Young One. Khp. No. 4; cf. A. v. 50 ff; 55 ff. The novice referred to here is the seven-year old Sopaka. He was questioned by the Buddha. It is not a matter for surprise that a child of such tender years can give profound answers to these questions. One has heard of infant prodigies. (See Encyclopaedia Britannica. Inc., 1955, II. p. 389. Also read The Case for Rebirth, Francis Story, Wheel 12-13, Buddhist Publication Society, Kandy, Sri Lanka.)
2.
See notes at the end of the book.

IV. The Thirty-two Parts of the Body (Dvattimsakara [1])  

There are in this body head-hairs, body-hairs, nails, teeth, skin, flesh, sinews, bones, marrow, kidneys, heart, liver, pleura, spleen, lungs, intestines, intestinal tract, stomach, feces, bile, phlegm, pus, blood, sweat, fat, tears, grease, saliva, nasal mucus, synovium (oil lubricating the joints), urine, and brain in the skull.

Note

1.
Khp. No. 3; cf. D. ii, 293; M. I, 57; iii, 90. Also see below Girimananda sutta 15.

IV. 32 Thể Trược (Dvattimsakara [1])  

1- Kesā: Tóc mọc trên da đầu, 2- Lomā: Lông mọc toàn da thân, 3- Nakhā: Móng mọc 10 đầu ngón tay, 10 ngón chân, 4- Dantā: Răng mọc, 2 hàm răng trên và dưới, 5- Taco: Da bao bọc toàn thân, 6- Maṃsaṃ: Thịt dính với xương, 7- Nahāru: Gân có toàn thân, 8- Aṭṭhi: Xương các bộ phận, 9- Aṭṭhimiñjaṃ: Tủy trong ống xương, 10- Vakkaṃ: Thận , 11- Hadayaṃ: Trái tim, 12- Yakanaṃ: Gan, 13- Kilomakaṃ: Màng phổi, 14- Pihakaṃ: Bao tử, 15- Papphāsaṃ: Buồng phổi, 16- Antaṃ: Ruột già, 17- Antaguṇaṃ: Ruột non, 18- Udariyaṃ: Vật thực mới, 19- Karīsaṃ: Phẩn, 20- Mattaluṅgaṃ: Óc, 21- Pittaṃ: Mật, 22- Semhaṃ: Đàm, 23- Pubbo: Mủ, 24- Lohitaṃ: Máu, 25- Sedo: Mồ hôi, 26- Medo: Mỡ đặc, 27- Assu: Nước mắt, 28- Vasā: Mỡ lỏng, 29- Khelo: Nước miếng (bọt), 30- Singhāṇikā: Nước mũi, 31- Lasikā: Nước nhớt trong các khớp xương. 32- Muttaṃ: Nước tiểu.

Note

1.
Khp. No. 3; cf. D. ii, 293; M. I, 57; iii, 90. Also see below Girimananda sutta 15.

V. The Fourfold Reflection of a Monk (Paccavekkhana [1])  

V. Quán tưởng Y Phục, Vật Thực, Trú Xứ, Dược Phẩm (Paccavekkhana [1])  

1. Wisely reflecting do I wear the robe, only in order to protect myself from cold, heat, gadflies, mosquitoes, wind, and sun and from snakes; and also as a constant covering for my modesty.

1. Cīvare - Paṭisaṅghā yoniso, cīvaraṃ paṭisevāmi, yāvādeva sītassa paṭighātāya, uṇhassa paṭighātāya, ḍaṃsa-makasa-vāt’ātapa-sarīsapa-samphassānaṃ paṭighātāya, yāvadeva hiri-kopīna-ppaticchādanatthaṃ.
1. Y phục Chơn chánh quán tưởng rằng Ta thọ dụng y phục Để ngăn ngừa nóng lạnh Hoặc xúc chạm muỗi mòng Gió sương và mưa nắng Cùng rắn rít côn trùng Và chỉ để che thân Tránh những điều hổ thẹn.

2. Wisely reflecting I will partake of food not for pleasure of it, not for the pride (resulting from physical strength obtainable), not for adornment, not for beautifying the body, but merely to maintain this body, to still the hunger, and to enable the practice of the holy life; also to resist the pangs of hunger (due to previous want of food), and to resist the pain (resulting from excess of food). Thus will my life be maintained free from wrong doing and free from discomfort.

2. Piṇḍapāte - Paṭisaṅghā yoniso, piṇḍapātaṃ paṭisevāmi, n’eva davāya, na madāya, na maṇḍanāya, na vibhūsanāya, yāvadeva imassa kāyassa ṭhitiyā yāpanāya, vihiṃsūparatiyā, brahmacariyānuggahāya, iti purāṇañca vedanaṃ paṭihaṅkhāmi, navañca vedanaṃ na uppādesāmi, yātrā ca me bhavissati, anavajjatā ca phāsuvihāro ca.
2. Vật thực Chơn chánh quán tưởng rằng Ta thọ dụng vật thực Không phải để vui đùa Không ham mê vô độ Không phải để trang sức Không tự làm đẹp mình Mà chỉ để thân này Được bảo trì mạnh khoẻ Để tránh sự tổn thương Để trợ duyên Phạm hạnh Cảm thọ cũ được trừ Thọ mới không sanh khởi Và sẽ không lầm lỗi Ta sống được an lành.

3. Wisely reflecting I will make use of lodgings only in order to protect myself from cold and heat, from gadflies and mosquitoes; from wind and sun, from snakes, and also as a constant protection against the rigours of climate, and in order to realize that ardent desire for seclusion (which begets mental concentration).

3. Senāsane - Paṭisaṅghā yoniso, senāsanaṃ paṭisevāmi, yāvādeva sītassa paṭighātāya, uṇhassa paṭighātāya, ḍaṃsa-makasa-vāt’ātapa-sarīsapa-samphassānaṃ paṭighātāya, yāvadeva utuparissaya- vinodana-ppaṭisallānārāmatthaṃ.
3. Trú xứ Chơn chánh quán tưởng rằng Ta thọ dụng liêu thất Để ngăn ngừa nóng lạnh Hoặc xúc chạm muỗi mòng Gió sương và mưa nắng Cùng rắn rít côn trùng Để giải trừ nguy hiểm Do phong thổ tứ thời Và chỉ với mục đích Sống độc cư an tịnh.

4. Wisely reflecting I will make use of medicine only as an aid to eliminate bodily pains that have arisen, and also to maintain that important condition, freedom from disease.

4. Gilāna-paccaya-bhesajje - Paṭisaṅghā yoniso, gilānapaccaya-bhesajjaparikkhāraṃ paṭisevāmi, yāvādeva, uppannānaṃ veyyābādhikānaṃ, vedanānaṃ paṭighātāya, abyābajjha-paramatāya.
4. Dược Phẩm Chơn chánh quán tưởng rằng Ta thọ dụng y dược Dành cho người bệnh dùng Để ngăn ngừa cảm thọ Tàn hại đã phát sanh Được hoàn toàn bình phục.

Note

1.
M. i. p. 10; cf. A. ii. 40; M. 53.

Note

1.
M. i. p. 10; cf. A. ii. 40; M. 53.

Discourses

1. Discourse on the Ten Dhammas (Dasa-dhamma sutta [1])  

Discourses

1. Mười Pháp Quán Tưởng Của Người Xuất Gia (Dasa-dhamma sutta [1])  

Thus have I heard:

[pts][than][piya][olds] Evaṃ me sutaṃ:|| ||
Như vầy tôi nghe:

On one occasion the Blessed One was living near Savatthi at Jetavana at the monastery of Anathapindika.

Ekaṃ samayaṃ Bhagavā Sāvatthiyaṃ viharati.|| ||
Một thời Thế Tôn ở Savatthi (Xá-vệ), tại Jetavana (Kỳ-đà Lâm), vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Ðộc).

Then the Blessed One addressed the monks, saying: "Monks." — "Venerable Sir," they said by way of reply. The Blessed One then spoke as follows:

Tatra kho Bhagavā bhikkhū āmantesi:|| || "Bhikkhavo" ti.|| || "Bhadante" ti te bhikkhū Bhagavato paccassosuṃ.|| || Bhagavā etad avoca:||
Chính tại nơi đó Đức Thế Tôn gọi các tỳkhưu rằng:Này các tỳkhưu

"These ten essentials (dhammas) must be reflected upon again and again by one who has gone forth (to live the holy life). What are these ten?

. Dasayime bhikkhave dhammā pabbajitena abhiṇhaṃ paccavekkhitabbā. Katame dasa?
Này các Tỷ-kheo, có mười pháp này, vị xuất gia phải luôn luôn quán sát. Thế nào là mười ?

1. "'I am now changed into a different mode of life (from that of a layman).' This must be reflected upon again and again by one who has gone forth.

1- "Vevaṇṇiyamhi ajjhupagato"ti pabbajitena abhiṇhaṃ paccavekkhitabbaṃ.
1) Vị xuất gia phải luôn luôn quán sát : "Ta nay đi đến tình trạng là người không có giai cấp" (mất hết giai cấp).

2. "'My life depends on others.'

2- "Parapaṭibaddhā me jīvikā"ti pabbajitena abhiṇhaṃ paccavekkhitabbaṃ.
2) Vị xuất gia phải luôn luôn quán sát : "Đời sống của ta tùy thuộc vào người khác."

3. "'I must now behave in a different manner.' This must be reflected upon again and again by one who has gone forth.

3- "Añño me ākappo karaṇīyo"ti pabbajitena abhiṇhaṃ paccavekkhitabbaṃ.
3) Vị xuất gia cần phải luôn luôn quán sát : "Nay cử chỉ uy nghi của ta cần phải thay đổi ! "

4. "'Does my mind upbraid me regarding the state of my virtue (sila)?' This must be reflected upon again and again by one who has gone forth.

4- "Kacci nu kho me attā sīlato na upavadatī"ti pabbajitena abhiṇhaṃ paccavekkhitabbaṃ.
4) Vị xuất gia cần phải luôn luôn quán sát : "Không biết tư ngã có chỉ trích ta về giới hạnh không ? "

5. "'Do my discerning fellow-monks having tested me, reproach me regarding the state of my virtue?' This must be reflected upon again and again by one who has gone forth.

5- "Kacci nu kho maṃ anuvicca viññū sabrahmacārī sīlato na upavadatī"ti pabbajitena abhiṇhaṃ paccavekkhitabbaṃ.
5) Vị xuất gia cần luôn luôn quán sát : "Không biết các đồng Phạm có trí, sau khi tìm hiểu, có chỉ thích ta về giới hạnh không ? "

6. "'There will be a parting (some day) from all those who are dear and loving to me. Death brings this separation to me.' This must be reflected upon again and again by one who has gone forth.

6- "Sabbehi me piyehi manāpehi nānābhāvo vinābhā-vo"ti pabbajitena abhiṇhaṃ paccavekkhitabbaṃ.
6) Vị xuất gia cần phải luôn luôn quán sát : "Mọi sự vật khả ái, khả ý của ta bị đổi khác, bị biến hoại".

7. "'Of kamma[2] I am constituted. Kamma is my inheritance; kamma is the matrix; kamma is my kinsman; kamma is my refuge. Whatever kamma I perform, be it good or bad, to that I shall be heir.' This must be reflected upon again and again by one who has gone forth.

7- "Kammassako’mhi kammadāyako kammayoni kammabandhu kammappaṭisaraṇo, yaṃ kammaṃ karissāmi kalyāṇaṃ vā pāpakaṃ vā, tassa dāyādo bhavissāmī"ti pabbajitena abhiṇhaṃ paccavekkhitabbaṃ.
7) Vị xuất gia cần phải quán sát : "Ta là chủ của nghiệp, là thừa tự của nghiệp. là thai tạng của nghiệp, là bà con của nghiệp. là chỗ quy hướng của nghiệp ; phàm nghiệp gì ta sẽ làm, thiện hay ác ta sẽ thừa tự nghiệp ấy".

8. 'Sabbehi me piyehi manāpehi nānābhāvo vinābhāvo' ti.|| || Pabba-jitena abhiṇhaṃ pacc'avekkhitabbaṃ.|| ||
8. "'How do I spend my nights and days?' This must be reflected upon again and again by one who has gone forth.

8- "Kathaṃ bhūtassa me rattindivā vītivattantī"ti pabbajitena abhiṇhaṃ paccavekkhitabbaṃ.
8) Vị xuất gia cần phải luôn quán sát : "Đêm ngày trôi qua bên ta và nay ta đã thành người như thế nào ?

9. "'Do I take delight in solitude?' This must be reflected upon again and again by one who has gone forth.

9- "Kacci nu kho ahaṃ suññāgāre abhiramāmī"ti pabbajitena abhiṇhaṃ paccavekkhitabbaṃ.
9) Vị xuất gia cần phải luôn luôn quán sát : "Ta có cố gắng hoan hỷ trong ngôi nhà trống không hay không ? "

10. "'Have I gained superhuman faculties? Have I gained that higher wisdom so that when I am questioned (on this point) by fellow-monks at the last moment (when death is approaching) I will have no occasion to be depressed and downcast?' This must be reflected upon again and again by one who has gone forth.

10- "Atthi nu kho me uttarimanussadhammo, alamariyañāṇadassanaviseso adhigato, yenāhaṃ pacchime kāle sabrahmacārīhi puṭṭho, na maṅku bhavissāmī"ti pabbajitena abhiṇhaṃ paccavekkhitabbaṃ.
10) Vị xuất gia cần phải luôn luôn quán sát : "Ta có chứng được pháp Thượng nhân, tri kiến thù thắng xứng đáng bậc Thánh không, để đến những ngày cuối cùng, các đồng Phạm hạnh có hỏi, ta sẽ không có xấu hổ ? "

"These, monks, are the essentials that should be reflected again and again by one who has gone forth (to live the holy life)."

Ime kho bhikkhave dasa dhammā||
Này các Tỷ-kheo, mười pháp này, vị xuất gia cần phải luôn luôn quán sát.

So spoke the Blessed One. Those monks rejoiced at the words of the Blessed One.

pabba-jitena abhiṇhaṃ pacc'avekkhitabbā" ti.|| ||
Thế Tôn đã nói. Những vị tỳ khưu vui mừng trước những lời của Đức Thế Tôn.

Notes

1.
A. v. 87.
2.
Literally action — mental, verbal, and physical.

Notes

1.
A. v. 87.
2.
Literally action — mental, verbal, and physical.

2. Discourse on Blessings (Maha-mangala Sutta [1])  

Thus have I heard:

2. Hạnh Phúc Kinh (Maha-mangala Sutta [1])  

Ta (là A nan Ðà) có nghe như vầy:

On one occasion the Blessed One was living near Savatthi at Jetavana at Anathapindika's monastery. Now when the night was far advanced, a certain deity, whose surpassing radiance illuminated the whole of Jetavana, approached the Blessed One, respectfully saluted him, and stood beside him. Standing thus, he addressed the Blessed One in verse:

Ekaṃ samayaṃ Bhagavā Sāvatthiyaṃ viharati Jetavane Anāthapiṇḍikassa ārāme. Atha kho aññatarā devatā abhikkantāya rattiyā abhikkantavaṇṇā kevalakappaṃ Jetavanaṃ obhāsetvā yena Bhagavā tenupasaṅkami upasaṅkamitvā Bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ aṭṭhāsi. Ekamantaṃ ṭhitā kho sā devatā Bhagavantaṃ gāthāya ajjabhāsi:
Một thuở nọ Đức Thế Tôn ngự tại Kỳ-Viên Tịnh Xá của trưởng giả Cấp-Cô-Độc gần thành Xá-Vệ (Sāvatthi). Khi ấy, có vị Trời chiếu hào-quang xinh đẹp, làm cho trọn cả Kỳ-Viên sáng ngời rực-rỡ, vị Trời ấy đến nơi Phật ngự, đảnh lễ đức Thế Tôn xong rồi, đứng tại chỗ nên đứng. Khi đã đứng yên, vị Trời ấy bèn bạch với đức Thế Tôn, bằng lời kệ rằng:

1. "Many deities and men longing for happiness have pondered on (the question of) blessings. Pray tell me what the highest blessings are.

1)Bahū devā manussā ca, Maṅgalāni acintayuṃ, Ākaṅkhamānā soṭṭhānaṃ, Brūhi maṅgalamuttamaṃ.
Tất cả Chư Thiên cùng nhơn loại, đều cầu mong được những hạnh phúc và cố tìm xét những điều hạnh phúc. Bạch đức Thế Tôn, xin Ngài mở lòng Bác ái, giảng giải về những hạnh phúc cao thượng. Đức Thế Tôn tùy lời hỏi mà giảng rằng:

2. "Not to associate with the foolish, but to associate with the wise, and to honor those worthy of honor — this is the highest blessing.

2)Asevanā ca bālānaṃ, Paṇḍitānañca sevanā, Pūjā ca pūjanīyānaṃ, Etammaṅgalamuttamaṃ.
Một: tư cách không xu hướng theo kẻ dữ. Hai: tư cách thân-cận các bậc Trí tuệ. Ba: tư cách cúng dường các bậc nên cúng dường. Cả ba điều ấy là hạnh phúc cao-thượng..

3. "To reside in a suitable locality, to have performed meritorious actions in the past, and to set oneself in the right direction — this is the highest blessing.

3)Paṭirūpadesavāso ca, Pubbe ca katapuññatā, Attasammāpaṇidhi ca, Etammaṅgalamuttamaṃ.
Một: tư cách ở trong nước nên ở. Hai: tư cách của người đã làm được việc lành để dành khi trước. Ba: nết hạnh giữ mình theo lẽ chánh. Cả ba điều ấy là hạnh phúc cao thượng.

4. "Vast learning, skill in handicrafts, well grounded in discipline, and pleasant speech — this is the highest blessing.

4) Bāhusaccañca sippañca, Vinayo ca susikkhito, Subhāsitā ca yā vācā, Etammaṅgalamuttamaṃ.
Một: nết hạnh của người được nghe nhiều học rộng. Hai: sự suốt thông phận sự của người xuất gia và tại gia. Ba: Điều học mà người đã thọ trì được chín-chắn. Bốn: lời mà người nói ra được ngay thật, Cả bốn điều ấy là hạnh phúc cao thượng.

5. "To support one's father and mother; to cherish one's wife and children, and to be engaged in peaceful occupations — this is the highest blessing.

5) Mātāpitu upaṭṭhānaṃ, Puttadārassa saṅgaho, Anākulā ca kammatā, Etammaṅgalamuttamaṃ.
Một: nết hạnh phụng sự Mẹ. Hai: nết hạnh phụng sự Cha. Ba: sự tiếp độ Vợ Con. Bốn: những nghề chẳng lẫn lộn nghiệp dữ. Cả bốn điều ấy là hạnh phúc cao thượng.

6. "Liberality, righteous conduct, rendering assistance to relatives, and performance of blameless deeds — this is the highest blessing.

6) Dānañca dhammacariyā ca, Ñātakānañca saṅgaho, Anavajjāni kammāni, Etammaṅgalamuttamaṃ.
Một: nết hạnh bố thí. Hai: nết hạnh ở theo Phật Pháp. Ba: sự tiếp độ quyến thuộc. Bốn: những nghề vô tội. Cả bốn điều ấy là hạnh phúc cao thượng.

7. "To cease and abstain from evil, to abstain from intoxicating drinks, and diligent in performing righteous acts — this is the highest blessing.

7) Āratī viratī pāpā, Majjapānā ca saññamo, Appamādo ca dhammesu, Etammaṅgalamuttamaṃ.
Một: nết hạnh ghê sợ và tránh xa tội lỗi. Hai: sự thu thúc để tránh khỏi sự uống rượu. Ba: sự không dể duôi Phật Pháp. Cả ba điều ấy là hạnh phúc cao thượng.

8. "Reverence, humility, contentment, gratitude, and the timely hearing of the Dhamma, the teaching of the Buddha — this is the highest blessing.

8) Gāravo ca nivāto ca, Santuṭṭhī ca kataññutā, Kālena dhammassavanaṃ, Etammaṅgalamuttamaṃ.
Một: sự tôn kính bậc nên tôn kính. Hai: nết hạnh khiêm nhượng. Ba: tri túc đến của đã có. Bốn: nết hạnh biết đền ơn người. Năm: nết hạnh tùy thời nghe Pháp. Cả năm điều ấy là hạnh phúc cao thượng.

9. "Patience, obedience, meeting the Samanas (holy men), and timely discussions on the Dhamma — this is the highest blessing.

9) Khantī ca sovacassatā, Samaṇānañca dassanaṃ, Kālena dhammasākacchā, Etammaṅgalamuttamaṃ.
Một: sự nhịn nhục. Hai: nết hạnh người dễ dạy. Ba: nết hạnh được thấy được gặp các bậc Sa-Môn. Bốn: nết hạnh biện luận về Phật Pháp. Cả bốn điều ấy là hạnh phúc cao thượng.

10. "Self-control, chastity, comprehension of the Noble Truths, and the realization of Nibbana — this is the highest blessing.

10. Tapo ca brahmacariyañca, Ariyasaccāna dassanaṃ, Nibbānasacchikiriyā ca, Etammaṅgalamuttamaṃ.
Một: sự cố gắng đoạn tuyệt điều ác. Hai: nết hạnh hành theo Pháp cao thượng. Ba: nết hạnh thấy các Pháp Diệu-đế. Bốn: nết hạnh làm cho thấu rõ Niết-bàn. Cả bốn điều ấy là hạnh phúc cao thượng.

11. "The mind that is not touched by the vicissitudes of life,[2] the mind that is free from sorrow, stainless, and secure — this is the highest blessing.

11) Phuṭṭhassa lokadhammehi, Cittaṃ yassa na kampati, Asokaṃ virajaṃ khemaṃ, Etammaṅgalamuttamaṃ.
Một: tâm không xao động vì Pháp thế gian. Hai: không có sự uất ức. Ba: dứt khỏi tình dục. Bốn: lòng tự tại. Cả bốn điều ấy là hạnh phúc cao thượng.

12. "Those who have fulfilled the conditions (for such blessings) are victorious everywhere, and attain happiness everywhere — To them these are the highest blessings."

12) Etādisāni katvāna, Sabbatthamaparājitā, Sabbattha sotthiṃ gacchanti, Tantesaṃ maṅgalamuttaman’ti.
Tất cả Chư Thiên và nhơn loại, nếu được thật hành theo những điều hạnh phúc như thế, là người thắng quá trong mọi nơi, thì hằng được hạnh phúc trong mọi nơi. Chư Thiên nầy! Các người nên tin rằng cả 38 điều hạnh phúc ấy, là hạnh phúc cao thượng.

Notes

1.
Khp. No. 5; Sn. 46 under the title Mangala sutta; cf. Mahamangala Jataka No. 452.
2.
The vicissitudes are eight in number: gain and loss, good-repute and ill-repute, praise and blame, joy and sorrow. This stanza is a reference to the state of mind of an arahant, the Consummate One.

Notes

1.
Khp. No. 5; Sn. 46 under the title Mangala sutta; cf. Mahamangala Jataka No. 452.
2.
The vicissitudes are eight in number: gain and loss, good-repute and ill-repute, praise and blame, joy and sorrow. This stanza is a reference to the state of mind of an arahant, the Consummate One.

3. The Jewel Discourse (Ratana Sutta [1])  

3. Kinh Châu Báu (Ratana Sutta [1])  

The occasion for this discourse, in brief, according to the commentary, is as follows: The city of Vesali was afflicted by a famine, causing death, especially to the poor folk. Due to the presence of decaying corpses the evil spirits began to haunt the city; this was followed by a pestilence. Plagued by these three fears of famine, non-human beings and pestilence, the citizens sought the help of the Buddha who was then living at Rajagaha.

Dựa theo chú giải nói về nhân duyên cớ có bài kinh này như sau: Thành phố Vesali bị nạn đói hoành hành, gây chết chóc, đặc biệt là đối với những người dân nghèo. Do sự hiện diện của những xác chết đang phân hủy, các linh hồn ma quỷ bắt đầu ám ảnh thành phố; sau đó là một trận dịch hại. Bị kìm hãm bởi ba nỗi sợ hãi về nạn đói, ma quỷ và dịch bệnh, người dân đã tìm đến Đức Phật khi đó đang sống tại Rajagaha xin được giúp đỡ.

Followed by a large number of monks including the Venerable Ananda, his attendant disciple, the Buddha came to the city of Vesali. With the arrival of the Master, there were torrential rains which swept away the putrefying corpses. The atmosphere became purified, the city was clean.

Đức Phật đã đền thành phố Vesali, theo sau là một số lượng lớn chư Tăng, trong đó có Tôn giả Ananda, đệ tử thị giả của Ngài. Với sự xuất hiện của Đức Phật, có những cơn mưa lớn cuốn trôi những xác chết đang bị phân hủu. Bầu không khí trở nên trong sạch, thành phố sạch sẽ.

Thereupon the Buddha delivered this Jewel Discourse (Ratana sutta[2]) to the Venerable Ananda, and gave him instructions as to how he should tour the city with the Licchavi citizens reciting the discourse as a mark of protection to the people of Vesali. The Venerable Ananda followed the instructions, and sprinkled the sanctified water from the Buddha's own alms bowl. As a consequence the evil spirits were exorcised, the pestilence subsided. Thereafter the Venerable Ananda returned with the citizens of Vesali to the Public hall where the Buddha and his disciples had assembled awaiting his arrival. There the Buddha recited the same Jewel Discourse to the gathering: [3]

Ngay sau đó, Đức Phật đã giao bài Châu Báu này (kinh Ratana [2]) cho Đại đức Ananda, và chỉ dẫn cho Ananda về cách cùng với những người dân Licchavi đi quanh thành phố và cùng đọc tụng bài kinh này như một dấu hiệu bảo vệ người dân Vesali. Tôn giả Ananda làm theo lời chỉ dẫn, và rưới nước thánh từ bát khất thực của chính Đức Phật. Kết quả là các linh hồn ma quỷ bị xua đuổi, dịch bệnh giảm bớt. Sau đó, Tôn giả Ananda cùng với những người dân của Vesali trở lại Đại sảnh đường nơi Đức Phật và các đệ tử của Ngài đã tập họp để chờ Ngài đến. Tại đó, Đức Phật đã cùng một bài Kinh Châu Báu tụng đọc cho đại chúng: [3]

1. "Whatever beings (non-humans) are assembled here, terrestrial or celestial, may they all have peace of mind, and may they listen attentively to these words:

1. Yānīdha bhūtāni samāgatāni Bhummāni vā yāni va antalikkhe Sabbeva bhūtā sumanā bhavantu Atho pi sakkacca sunantu bhāsitam

Hạng Bhūta là Chư Thiên ngự trên địa cầu, hoặc hạng Bhūta là Chư Thiên ngự trên hư không thế giới, mà đến hội họp nơi đây. Cầu xin tất cả hạng Bhūta ấy, mở lòng từ thiện, và đem lòng thành kính mà nghe Phật ngôn.

2. "O beings, listen closely. May you all radiate loving-kindness to those human beings who, by day and night, bring offerings to you (offer merit to you). Wherefore, protect them with diligence.

2. Tasmā hi bhūtā nisāmetha sabbe Mettam karotha mānusiyā pajāya Divā ca ratto ca haranti ye balim Tasmā hi ne rakkhatha appamattā

Tất cả chư bhūta được nghe kinh PARITTA rồi, nên mở lòng Bác ái đối với chúng sanh, thuộc về nhơn loại, là những người hằng đem của bố thí đêm ngày không dứt.

3. "Whatever treasure there be either in the world beyond, whatever precious jewel there be in the heavenly worlds, there is nought comparable to the Tathagata (the perfect One). This precious jewel is the Buddha.[4] By this (asseveration of the) truth may there be happiness.

3. Yam kiñci vittam idha vā huram vā Saggesu vā yam ratanam panītam Na no samam atthi tathāgatena Idam pi Buddhe ratanam panītam Etena saccena suvatthi hotu

Vì đó, các Ngài chẳng nên lãnh đạm, cầu xin hộ trì những người ấy. Tài sản trong thế gian nầy, hoặc trong thế giới khác hoặc trân châu quý trọng trên Thiên thượng. Cả tài sản và trân châu ấy, cũng chẳng sánh bằng Đức Như Lai.

4. "That Cessation, that Detachment, that Deathlessness (Nibbana) supreme, the calm and collected Sakyan Sage (the Buddha) had realized. There is nought comparable to this (Nibbana) Dhamma. This precious jewel is the Dhamma.[5] By this (asseveration of the) truth may there be happiness.

4. Khayam virāgam amatam panītam Yadajjhagā sakyamuni samāhito Na tena dhammena sam’atthi kiñci Idam pi dhamme ratanam panītam Etena saccena suvatthi hotu

Đức Giáo-chủ SAKYAMUNI là bậc thanh tịnh, đại ngộ các pháp diệt trừ phiền não, dứt khỏi tình dục, là Pháp bất diệt, là Pháp cao thượng. Chẳng có chi sánh bằng Pháp ấy. Pháp-Bảo nầy như trân châu quý báu cao thượng. Tôi xin thành thật, cầu được phát sanh thạnh lợi.

5. "The Supreme Buddha extolled a path of purity (the Noble Eightfold Path) calling it the path which unfailingly brings concentration. There is nought comparable to this concentration. This precious jewel is the Dhamma. By this (asseveration of the) truth may there be happiness.

5. Yam buddhasettho parivannayi sucim Samādhi-mānantari-kañña-māhu Samādhinā tena samo na vijjati Idam pi dhamme ratanam panītam Etena saccena suvatthi hotu

Đức Phật cao thượng hằng khen ngợi Pháp Thiền định (SAMĀDHI) là Pháp trong sạch. Các bậc Trí tuệ, đã giảng giải về Pháp Chánh Định là Pháp sanh quả theo thứ tự. Thiền định khác chẳng thể sánh bằng. Pháp-Bảo nầy như trân châu quý báu cao thượng. Tôi xin thành thật, cầu được phát sanh thạnh lợi.

6. "The eight persons extolled by virtuous men constitute four pairs. They are the disciples of the Buddha and are worthy of offerings. Gifts given to them yield rich results. This precious jewel is the Sangha.[6] By this (asseveration of the) truth may there be happiness.

6. Ye puggalā attha satam pasatthā Cattāri etāni yugāni honti Te dakkhineyyā sugatassa sāvakā Etesu dinnāni mahapphalāni Idam pi sanghe ratanam panītam Etena saccena suvatthi hotu

Những hạng tu hành có 8 bậc, mà các Thiện trí thức đã ngợi khen, các bậc ấy đều là Thinh Văn, đệ tử của Đức SUGATO [9], các Ngài đáng thọ lãnh những vật thí, của người tin lý nhân quả đem đến dâng cúng. Những sự bố thí đến các bậc (DAKKHIṆEYYA PUGGALĀ) [10], là việc bố thí được kết quả rất nhiều hạnh phúc. Đức Tăng nầy như trân châu quí báu cao thượng. Tôi xin thành thật, cầu được phát sanh thạnh lợi.

7. "With a steadfast mind, and applying themselves well in the dispensation of the Buddha Gotama, free from (defilements), they have attained to that which should be attained (arahantship) encountering the Deathless. They enjoy the Peace of Nibbana freely obtained.[7] This precious jewel is the Sangha. By this (asseveration of the) truth may there be happiness.

7. Ye suppayuttā manasā dalhena Nikkāmino gotama sāsanamhi Te pattipattā amatam vigayha Laddhā mudhā nibbutim bhuñjamānā Idam pi sanghe ratanam panītam Etena saccena suvatthi hotu

Các bậc Thánh nhơn trong giáo Pháp của Đức Chánh-Biến-Tri hiệu GOTAMA [11], đã hành theo lẽ chánh rồi có lòng bền chắc, chẳng còn ái dục. Các bậc Thánh nhơn ấy đã chứng quả A-LA -HÁN, đã nhập Niết-bàn, đã tắt lửa phiền não, và đã hưởng đạo-quả rồi. Đức Tăng nầy như trân châu quí báu cao thượng. Tôi xin thành thật, cầu được phát sanh thạnh lợi.

8. "As a post deep-planted in the earth stands unshaken by the winds from the four quarters, so, too, I declare is the righteous man who comprehends with wisdom the Noble Truths. This precious jewel is the Sangha. By this (asseveration of the) truth may there be happiness.

8. Yathindakhīlo pathavim sito siyā Catubbhi vātehi asampakampiyo Tathūpamam sappurisam vadāmi Yo ariyasaccāni avecca passati Idam pi sanghe ratanam panītam Etena saccena suvatthi hotu

Cột cừ đã đóng cứng dưới đất, dầu gió 4 phương cũng không lay động, thế nào. Người hay suy xét thấy các Pháp Diệu-Đế, Như Lai gọi người ấy là bậc Thiện Trí Thức, hạng không tham nhiễm các Pháp thế gian, ví như cột cừ kia vậy. Đức Tăng nầy như trân châu quí báu cao thượng. Tôi xin thành thật, cầu được phát sanh thạnh lợi.

9. "Those who realized the Noble Truths well taught by him who is profound in wisdom (the Buddha), even though they may be exceedingly heedless, they will not take an eighth existence (in the realm of sense spheres).[8] This precious jewel is the Sangha. By this (asseveration of the) truth may there be happiness.

9. Ye ariyasaccāni vibhāvayanti Gambhīrapaññena sudesitāni Kiñcāpi te honti bhusappamattā Na te bhavam atthamam ādiyanti Idam pi sanghe ratanam panītam Etena saccena suvatthi hotu

Các bậc Thánh nhơn thấy rõ các Pháp Diệu-Đế. Mà Đức Như Lai có Trí tuệ thậm-thâm đã giảng dạy đứng đắn. Các bậc Thánh nhơn ấy dầu có dể duôi, cũng chẳng thọ sanh đến kiếp thứ 8, là chẳng luân hồi quá 7 kiếp. Đức Tăng nầy như trân châu quí báu cao thượng. Tôi xin thành thật, cầu được phát sanh thạnh lợi.

10. "With his gaining of insight he abandons three states of mind, namely self-illusion, doubt, and indulgence in meaningless rites and rituals, should there be any. He is also fully freed from the four states of woe, and therefore, incapable of committing the six major wrongdoings.[9] This precious jewel is the Sangha. By this (asseveration of the) truth may there be happiness.

10. Sahāvassa dassana sampadāya Tayassu dhammā jahitā bhavanti Sakkāyaditthi vicikicchitañ ca Sīlabbatam vāpi yadatthi kiñci Catūhapāyehi ca vippamuto Cha cābhithānāni abhabbo kātum Idam pi sanghe ratanam panītam Etena saccena suvatti hotu

Bậc được chứng đạo-quả Tu-Đà-Hườn, thì đã dứt khỏi 3 phép chướng ngại thường có là Thân Kiến, Hoài Nghi và Giới Cấm Thủ. Bậc Tu-Đà-Hườn đã thoát khỏi cả 4 đường dữ, không còn phạm 6 điều ác, là 5 tội đại nghịch, và cách xu hướng theo ngoại-đạo. Đức Tăng nầy như trân châu quí báu cao thượng. Tôi xin thành thật, cầu được phát sanh thạnh lợi.

11. "Any evil action he may still do by deed, word or thought, he is incapable of concealing it; since it has been proclaimed that such concealing is impossible for one who has seen the Path (of Nibbana).[10] This precious jewel is the Sangha. By this (asseveration of the) truth may there be happiness.

11. Kiñcāpi so kammam karoti pāpakam Kāyena vācā uda cetasā vā Abhabbo so tassa paticchādāya Abhabbatā ditthapadassa vuttā Idam pi sanghe ratanam panītam Etena saccena suvatthi hotu

Nếu bậc Tu-Đà-Hườn vô tâm phạm điều tội lỗi do thân, khẩu, ý, các Ngài cũng chẳng giấu giếm. Nết hạnh của bậc đã thấy đạo quả Niết-bàn, bậc không có thể giấu kín nghiệp dữ, mà Đức Phật đã giảng dạy rồi. Đức Tăng nầy như trân châu quí báu cao thượng. Tôi xin thành thật, cầu được phát sanh thạnh lợi.

12. "As the woodland groves though in the early heat of the summer month are crowned with blossoming flowers even so is the sublime Dhamma leading to the (calm) of Nibbana which is taught (by the Buddha) for the highest good. This precious jewel is the Buddha. By this (asseveration of the) truth may there be happiness.

12. Vanappagumbe yathā phussitagge Gimhānamāse pathamasmim gimhe Tathūpamam dhammavaram adesayi Nibbānagāmim paramam hitāya Idam pi Buddhe ratanam panītam Etena saccena suvatthi hotu

Pháp cao thượng mà đức Chánh-Biến-Tri đã giảng giải, là Pháp có thể tiếp dẫn chúng sanh đến Niết-bàn, cho được sự lợi ích cao thượng. Pháp ấy ví như cây trong rừng, sanh chồi trong đầu mùa hạn. Đức Phật nầy như trân châu quí báu cao thượng. Tôi xin thành thật, cầu được phát sanh thạnh lợi.

13. "The Peerless Excellent one (the Buddha) the Knower (of Nibbana), the Giver (of Nibbana), the Bringer (of the Noble Path), taught the excellent Dhamma. This precious jewel is the Buddha. By this (asseveration of the) truth may there be happiness.

13. Varo varaññū varado varāharo Anuttaro dhammavaram adesayi Idam pi Buddhe ratanam panītam Etena saccena suvatthi hotu

Đức Chánh-Biến-Tri là bậc cao thượng, Ngài suốt thông Pháp cao thượng, Ngài thí Pháp cao thượng, Ngài đem đến Pháp cao thượng. Ngài là bậc vô thượng, đã diễn thuyết các pháp cao thượng. Đức Phật nầy như trân châu quí báu cao thượng. Tôi xin thành thật, cầu được phát sanh thạnh lợi.

14. "Their past (kamma) is spent, their new (kamma) no more arises, their mind to future becoming is unattached. Their germ (of rebirth-consciousness) has died, they have no more desire for re-living. Those wise men fade out (of existence) as the flame of this lamp (which has just faded away). This precious jewel is the Sangha. By this (asseveration of the) truth may there be happiness.

14. Khīnam purānam navam natthi sambhavam Viratta cittā āyatike bhavasmim Te khīnabījā avirūlhicchandā Nibbanti dhīrā yathā’yam padīpo Idam pi sanghe ratanam panītam Etena saccena suvatthi hotu

Nghiệp cũ của các bậc Thánh nhơn đã dứt hẳn rồi, nghiệp mới cũng chẳng phát sanh. Các bậc Thánh nhơn nào đã chán nãn trong việc thoát sanh. Hạt giống đã đoạn tận, lòng dục không tăng trưởng. Là bậc có Trí tuệ thường được viên tịch cũng như ngọn đèn tắt vậy. Đức Tăng nầy như trân châu quí báu cao thượng.

15. "Whatever beings (non-human) are assembled here, terrestrial or celestial, come let us salute the Buddha, the Tathagata (the perfect One), honored by gods and men. May there be happiness.[11]

15. Yānīdha bhūtāni samāgatāni, Bhummāni vā yāniva antalikkhe, Tathāgataṃ devamanussapūjitaṃ, Buddhaṃ namassāma suvatthi hotu.

Hạng Bhūta nào là Chư Thiên ngự trên địa cầu, hoặc hạng Bhūta nào là Chư Thiên ngự trên hư không, mà đến hội họp nơi đây, xin đồng cùng chúng tôi làm lễ Chư Phật, là các đấng Giáo Chủ đã được chứng quả giống nhau, mà Chư Thiên cùng nhơn loại thường hay cúng dường, cầu xin được phát sanh thạnh lợi.

16. "Whatever beings are assembled here terrestrial or celestial, come let us salute the perfect Dhamma, honored by gods and men. May there be happiness.

16. Yanīdha bhūtāni samāgatāni, Bhummāni vā yāniva antalikkhe, Tathāgataṃ devamanussapūjitaṃ, Dhammaṃ namassāma suvatthi hotu.

Hạng Bhūta nào là Chư Thiên ngự trên địa cầu, hoặc hạng Bhūta nào là Chư Thiên ngự trên hư không, mà đến hội họp nơi đây, xin đồng cùng chúng tôi làm lễ các Pháp đã có giống nhau, mà Chư Thiên cùng nhơn loại thường hay cúng dường, cầu xin được phát sanh thạnh lợi.

17. "Whatever beings are assembled here terrestrial or celestial, come let us salute the perfect Sangha, honored by gods and men. May there be happiness."

17. Yānīdha bhūtāni sāmāgatāni, Bhummāni vā yāni va antalikkhe, Tathāgataṃ devamanussapūjitaṃ, Saṅghaṃ namassāma suvatthi hotu.

Hạng Bhūta nào là Chư Thiên ngự trên địa cầu, hoặc hạng Bhūta nào là Chư Thiên ngự trên hư không, mà đến hội họp nơi đây, xin đồng cùng chúng tôi làm lễ Chư Tăng đã có giống nhau, mà Chư Thiên cùng nhơn loại thường hay cúng dường, cầu xin được phát sanh thạnh lợi.

Notes

1.
Khp. No. 6; Sn. 39
2.
Ratana means precious jewel. Here the term is applied to the Buddha, Dhamma, and Sangha.
3.
KhpA. 161.
4.
Literally, in the Buddha is this precious jewel.
5.
Literally, in the Dhamma is this precious jewel.
6.
Literally, in the Sangha is this precious jewel.
7.
Obtained without payment; "avyayena," KhpA. I., 185.
8.
The reason why it is stated that there will be no eighth existence for a person who has attained the stage of sotapatti or the first stage of sanctity is that such a being can live at the most for only a period of seven existences in the realm of sense spheres.
9.
Abhithanani; i. matricide, ii. patricide, iii. the murder of arahants (the Consummate Ones), iv. the shedding of the Buddha's blood, v. causing schism in the Sangha, and vi. pernicious false beliefs (niyata micca ditthi).
10.
He is a sotapanna, stream-enterer, one who has attained the first stage of sanctity. Also see Notes at the end of the book.
11.
The last three stanzas were recited by Sakka, the chief of Devas (gods), KhpA. 195.

Notes

1.
Khp. No. 6; Sn. 39
2.
Ratana means precious jewel. Here the term is applied to the Buddha, Dhamma, and Sangha.
3.
KhpA. 161.
4.
Literally, in the Buddha is this precious jewel.
5.
Literally, in the Dhamma is this precious jewel.
6.
Literally, in the Sangha is this precious jewel.
7.
Obtained without payment; "avyayena," KhpA. I., 185.
8.
The reason why it is stated that there will be no eighth existence for a person who has attained the stage of sotapatti or the first stage of sanctity is that such a being can live at the most for only a period of seven existences in the realm of sense spheres.
9.
Abhithanani; i. matricide, ii. patricide, iii. the murder of arahants (the Consummate Ones), iv. the shedding of the Buddha's blood, v. causing schism in the Sangha, and vi. pernicious false beliefs (niyata micca ditthi).
10.
He is a sotapanna, stream-enterer, one who has attained the first stage of sanctity. Also see Notes at the end of the book.
11.
The last three stanzas were recited by Sakka, the chief of Devas (gods), KhpA. 195.

4. Discourse on Loving-kindness (Karaniya Metta Sutta [1])  

While the Buddha was staying at Savatthi, a band of monks, having received subjects of meditation from the master, proceeded to a forest to spend the rainy season (vassana). The tree deities inhabiting this forest were worried by their arrival, as they had to descend from tree abodes and dwell on the ground. They hoped, however, the monks would leave soon; but finding that the monks would stay the vassana period of three months, harassed them in diverse ways, during the night with the intention of scaring them away.

4. Từ Bi Kinh (Karaniya Metta Sutta [1])  

Trong khi Đức Phật ở tại Savatthi, một nhóm tỳ khưu, sau khi nhận được các đề mục thiền định, đã đến khu rừng để an cư mùa mưa (vassana). Các vị thần cây sống trong khu rừng này lo lắng khi họ đến, vì họ phải xuống khỏi gốc cây và trú ngụ trên mặt đất. Tuy nhiên, các vị thần hy vọng các vị tỳ khưu sẽ sớm ra đi; nhưng nhận thấy rằng các vị tỳ khưu sẽ ở lại suôt mùa an cư vassana trong ba tháng, nên các vị thần ban đêm đã quấy rối họ bằng nhiều cách khác nhau với ý định xua đuổi các vị tỳ khưu.

Living under such conditions being impossible, the monks went to the Master and informed him of their difficulties. Thereon the Buddha instructed them in the Metta sutta and advised their return equipped with this sutta for their protection.

Không thể sống trong những điều kiện như vậy, các vị tỳ khưu đã đến gặp Đức Phật trình bày những khó khăn của họ. Đức Phật đã hướng dẫn họ tụng đọc bài kinh Từ Bi và khuyên họ trở về tụng đọc bài kinh này để bảo vệ họ.

The monks went back to the forest, and practicing the instruction conveyed, permeated the whole atmosphere with their radiant thoughts of metta or loving-kindness. The deities so affected by this power of love, henceforth allowed them to meditate in peace.

Các vị tỳ khưu quay trở lại khu rừng, và thực hành việc trì tụng kinh Từ Bi ban trải tràn ngập khắp bầu không khí với những lòng từ bi của họ. Các vị thần bị ảnh hưởng bởi sức mạnh của tâm từ này, do đó đã cho phép họ thiền định trong thanh tịnh.

The discourse gets divided into two parts. The first detailing the standard of moral conduct required by one who wishes to attain Purity and Peace, and the second the method of practice of metta. [2]

Bài kinh được chia thành hai phần. Phần đầu nêu chi tiết về tiêu chuẩn đạo đức cần có của một người mong muốn đạt được Thanh tịnh và bình yên, và phần thứ hai là phương pháp thực hành rải tâm từ. [2]

1. "He who is skilled in (working out his own) well being, and who wishes to attain that state of Calm (Nibbana) should act thus: he should be dexterous, upright, exceedingly upright, obedient, gentle, and humble.

1) Karaṇīyamatthakusalena, Yantaṃ santaṃ padaṃ abhisamecca, Sakko ujū ca suhujū ca, Suvaco cassa mudu anatimānī.

1) Do sự nào mà bậc Thánh nhơn được Giác Ngộ các Pháp yên lặng là Niết-bàn, người rõ biết trong việc hữu ích nên hành sự ấy, người ấy là bậc dõng cảm thân khẩu ý chân chánh và trong sạch, là người dễ dạy, có tánh nết nhu thuận, không ngã mạn thái quá.

2. "Contented, easily supportable, with but few responsibilities, of simple livelihood, controlled in the senses, prudent, courteous, and not hanker after association with families.

2) Santussako ca subharo ca, Appakicco ca sallahukavutti, Santindriyo ca nipako ca, Appagabbho kulesu ananugiddho.

2) Là người tri túc dễ nuôi, là người ít bận việc, và thân tâm nhẹ nhàng, là người có lục căn thanh tịnh, có nhiều Trí tuệ, là người có liêm sĩ, không quyến luyến theo thân bằng quyến thuộc.

3. "Let him not perform the slightest wrong for which wise men may rebuke him. (Let him think:) 'May all beings be happy and safe. May they have happy minds.'

3) Na ca khuddaṃ samācare kiñci, Yena viññū pare upavadeyyuṃ, Sukhino vā khemino hontu, Sabbe sattā bhavantu sukhitattā.

3) Các bậc Thiện Trí Thức hằng chê bai các chúng sanh tạo những nghiệp không nên làm, là nghiệp xấu xa hèn hạ dầu là nhỏ nhen chút ít mà nên rải lòng Bác ái đến các hạng chúng sanh như vầy:

4.& 5. "Whatever living beings there may be — feeble or strong (or the seekers and the attained) long, stout, or of medium size, short, small, large, those seen or those unseen, those dwelling far or near, those who are born as well as those yet to be born — may all beings have happy minds.

4) Ye keci pāṇabhūtatthi, Tasā vā thāvarā vā anavasesā, Dīghā vā ye mahantā vā, Majjhimā rassakā aṇukathūlā.

4) Cầu cho tất cả chúng sanh đều được an vui thong thả, thân tâm được nhiều hạnh phúc, tất cả chúng sanh không dư sót, dầu là chúng sanh có sự kinh sợ, là còn lòng ham muốn, hoặc là bậc Hiền triết đã dứt lòng ham muốn.

5) Diṭṭhā vā yeva adiṭṭhā, Ye ca dūre vasanti avidūre, Bhūtā vā sambhavesī vā, Sabbe sattā bhavantu sukhitattā.

5) Chúng sanh nào có thân hình dài hoặc lớn, có thân hình bậc trung hoặc vắn, có thân hình gầy hoặc béo, chúng sanh mà ta đã thấy hoặc không thấy được, chúng sanh ngụ nơi xa hoặc gần, đã sanh ra rồi hoặc còn đang tìm nơi thọ sanh.

6. "Let him not deceive another nor despise anyone anywhere. In anger or ill will let him not wish another ill.

6) Na paro paraṃ nikubbetha, Nātimaññetha katthaci naṃ kiñci, Byārosanā paṭighasaññā, Nāññamaññassa dukkhamiccheyya.

6) Chúng sanh chẳng nên dọa hẩm làm khổ chúng sanh khác, chẳng nên khinh bỉ chút ít kẻ khác trong nơi nào cả, chẳng nên muốn làm khổ lẫn nhau vì sự nóng giận hoặc bất bình là sự bực tức trong tâm.

7. "Just as a mother would protect her only child with her life even so let one cultivate a boundless love towards all beings.

7) Mātā yathā niyaṃ puttaṃ, Āyusā ekaputtamanurakkhe, Evampi sabbabhūtesu, Mānasaṃ bhāvaye aparimāṇaṃ.

7) Người mẹ thà liều chết để bảo dưỡng con đẻ là con một, là dám bỏ sanh mạng trong sự bảo dưỡng con thế nào, Người nên niệm lòng Bác ái vô lượng vô biên để rải đến tất cả chúng sanh cũng như thế ấy.

8. "Let him radiate boundless love towards the entire world — above, below, and across — unhindered, without ill will, without enmity.

8) Mettañca sabbalokasmiṃ, Mānasaṃ bhāvaye aparimāṇaṃ, Uddhaṃ adho ca tiriyañca, Asambādhaṃ averaṃ asapattaṃ

8) Người nên niệm tâm Bác ái vô lượng vô biên, là Pháp không nóng giận, không bất bình, không thù oán, không bạn nghịch, để rải trong tất cả thế giới, là rải bên trên, bên dưới, bên ngang và khoảng giữa.

9. "Standing, walking, sitting or reclining, as long as he is awake, let him develop this mindfulness. This, they say, is 'Noble Living' here.

9) Tiṭṭhañcaraṃ nisinno vā, Sayāno vā yāvatassa vigatamiddho, Etaṃ satiṃ adhiṭṭheyya, Brahmametaṃ vihāraṃ idhamāhu.

9) Người niệm lòng Bác ái ấy dầu đứng, đi, ngồi hoặc nằm, là người đã dứt bỏ sự hôn-trầm, là người chẳng còn ngủ mê, đến đâu nên thành tâm thường niệm lòng Bác ái đến đó, các bậc trí thức gọi những tư cách ấy, là Pháp vô lượng tâm trong Phật Pháp.

10. "Not falling into wrong views — being virtuous, endowed with insight, lust in the senses discarded — verily never again will he return to conceive in a womb."

10) Diṭṭhiñca anupagamma, Sīlavā dassanena sampanno, Kāmesu vineyya gedhaṃ, Na hi jātu gabbhaseyyaṃ punaretīti.

10) Người có vô lượng tâm Bác ái, không tà kiến, là người có Trì Giới, có chánh kiến, là người đắc Tu-Đà-Hườn đạo, đã dứt bỏ sự say mê theo ngũ trần rồi.

Notes

1.
Khp. No. 9.; Sn. 25, under the title Metta-sutta.
2.
KhpA. 232.

Notes

1.
Khp. No. 9.; Sn. 25, under the title Metta-sutta.
2.
KhpA. 232.

5. Protection of the Aggregates (Khandha Paritta [1])  

Thus have I heard:

5. Kinh Hộ Trì Các Uẩn (Khandha Paritta [1])  


Như vầy tôi nghe:

On one occasion the Blessed One was living near Savatthi at Jetavana at Anathapindika's monastery. At that time at Savatthi a certain monk had died bitten by a snake. Thereupon many monks approached the Buddha and having saluted him sat beside him. So seated those monks spoke thus to the Blessed One:

Ekaṁ samayaṁ Bhagavā Sāvatthiyaṁ viharati Jetavane Anāthapiṇḍikassa ārāme. Tena kho pana samayena Sāvatthiyaṁ aññataro bhikkhū ahinā daṭṭho kālakato hoti. Atha kho sambahulā bhikkhū yena Bhagavā ten’upasaṅkamiṁsu. Upasaṅkamitvā Bhagavantaṁ abhivādetvā ekamantaṁ nisīdiṁsu. Ekamantaṁ nisinnā kho te bhikkhū Bhagavantaṁ etadavocuṁ.

Một thời, Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, khu vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ, một Tỷ-kheo ở Sàvatthi bị rắn cắn chết. Rồi nhiều Tỷ-kheo đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn, rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, các Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:

"Bhante (Venerable Sir), a certain monk at Savatthi had died bitten by a snake."

Idha bhante Sāvatthiyaṁ aññataro bhikkhu ahinā daṭṭho kālakato’ti.

-" Ở đây, bạch Thế Tôn, một Tỷ-kheo ở Sàvatthi bị rắn cắn đã mệnh chung."

"Assuredly, monks," said the Buddha. "That monk has not suffused with thoughts of loving-kindness (metta) the four royal tribes of snakes. Had he done so, that monk would not have died of snake-bite. What are the four royal tribes of snakes? The royal tribe of snakes called Virupakkha, Erapatha, Chabyaputta, and Kanhagotamaka. Monks, that monk, did not suffuse with thoughts of loving-kindness these four royal tribes of snakes, had not done so he would not have died of snake-bite. Monks, I enjoin you to suffuse with thoughts of loving-kindness these four royal tribes of snakes for your safety, for your preservation and for your protection." So said the Blessed One. Having thus spoken, the Buddha, the "Welcome One" (Sugata), further said (suggesting how they should express themselves:)

Naha nūna so bhikkhave bhikkhu cattāri ahirājakulāni mettena cittena phari. Sacehi so bhikkhave bhikkhu cattāri ahirājakulāni mettena cittena phareyya, nahi so bhikkhave bhikkhu ahinā daṭṭho kālaṁ kareyya. Katamāni cattāri ahirājakulāni? Virūpakkhaṁ ahirājakulaṁ, Erāpathaṁ ahirājakulaṁ, Chabyāputtaṁ ahirājakulaṁ, Kaṇhā gotamakaṁ ahirājakulaṁ. Naha nūna so bhikkhave bhikkhu imāni cattāri ahirājakulāni mettena cittena phari. Sace hi so bhikkhave bhikkhu imāni cattāri ahirājakulāni mettena cittena phareyya, na hi so bhikkhave bhikkhu ahinā daṭṭho kālaṁ kareyya. Anujānāmi bhikkhave imāni cattāri ahirājakulāni mettena cittena pharituṁ attaguttiyā attarakkhāya attaparittāyā’ti. Idam’avoca Bhagavā, Idaṁ vatvā Sugato athāparaṁ etada’voca Satthā.

Tỷ-kheo ấy, này các Tỷ-kheo, với từ tâm đã không hướng đến bốn gia đình vua các loài rắn. Nếu Tỷ-kheo ấy, này các Tỷ-kheo, với từ tâm có hướng đến bốn gia đình vua các loài rắn, thời này các Tỷ-kheo, vị ấy có thể không bị rắn cắn mà mạng chung. Thế nào là bốn gia đình vua các loài rắn ? -Gia đình vua các loài rắn Virùpakkha, -Gia đình vua các loài rắn Eràpattha, -Gia đình vua các loài rắn Chabyàputta, -Gia đình vua các loài rắn Kanhàgotamaka; Tỷ-kheo ấy, này các Tỷ-kheo với từ tâm đã không hướng đến bốn gia đình vua các loài rắn này. Nếu Tỷ-kheo ấy, này các Tỷ-kheo, với từ tâm có thể hướng đến bốn gia đình vua các loài rắn, thời này các Tỷ-kheo, vị ấy có thể không bị rắn cắn mà mạng chung. Này các Tỷ-kheo, Ta cho phép với từ tâm hướng đến bốn gia đình vua các loài rắn này để tự bảo vệ, để tự hộ trì, để tự che chở.

1. May I have metta towards Virupakkhas
Towards Erapathas may I have metta
May my metta be towards Chabyaputtas
Towards Kanha-gotamakas also metta may I have.

2. May I have metta towards the footless
And towards bipeds too, my metta may I have
May I have metta towards the quadrupeds
And towards the many footed also, metta may I have.

3. Let not the footless do me harm
Nor those that have two feet
Let not quadrupeds do me harm
Nor those endowed with many feet.

4. All beings, all living creatures,
May good fortune befall them all
May not the least harm on them befall.

1. Virūpakkehi me mettaṁ – Mettaṁ Erāpathehi me
Chabyāputtehi me mettaṁ – Mettaṁ Kaṇhāgotamakehi ca

2. Apādakehi me mettaṁ – Mettaṁ dipādakehi me
Catuppadehi me mettaṁ – Mettaṁ bahuppadehi me

3. Mā maṁ apādako hiṁsi – Mā maṁ hiṁsi dipādako
Mā maṁ catuppado hiṁsi – Mā maṁ hiṁsi bahuppado

4. Sabbe sattā sabbe pāṇā – Sabbe bhutā ca kevalā
Sabbe bhadrāni passantu – Mā kañci pāpamāgamā

Ta hãy có từ tâm
Với Virùpakkha,
Ta hãy có từ tâm
Với Eràpatha,
Ta hãy có từ tâm
Với Chabyaputta,
Ta hãy có từ tâm
Với Kanhàgotamaka,
Ta hãy có từ tâm
Với các loài không chân,
Ta hãy có từ tâm
Với các loài hai chân,
Ta hãy có từ tâm
Với các loài bốn chân,
Ta hãy có từ tâm,
Với các loài nhiều chân,
Mong rằng loài không chân
Không có làm hại ta,
Mong rằng loài hai chân
Không có làm hại ta,
Mong rằng loài bốn chân
Không có làm hại ta,
Mong rằng loài nhiều chân
Không có làm hại ta,
Mọi chúng sanh, hữu tình
Toàn thể mọi sinh vật,
Mong chúng thấy hiền thiện,
Chớ đi đến điều ác.

"Infinite (in virtue) is the Buddha, infinite is the Dhamma, infinite is the Sangha. Finite are creeping creatures — snakes, scorpions, centipedes, spiders, lizards, and rats. I have guarded myself, I have made my protection. Depart from me, ye beings. I bow down to the Blessed One; and to the seven Supreme Buddhas." [2]

Appamāṇo Buddho appamāṇo Dhammo appamāṇo Saṅgho. Pamāṇavantāni siriṁsapāni ahi vicchikā satapadī uṇṇānābhī sarabhū mūsikā. Katā me rakkhā. Katā me parittā. Paṭikkamantu bhūtāni. So’haṁ namo Bhagavato namo sattannaṁ Sammā Sambuddhānan’ti.

Đức Phật là vô lượng, Pháp là vô lượng, Chúng Tăng là vô lượng, Có lượng là các loài bò sát, Các loài rắn, Các con bò cạp, Các con một trăm chân, Các loại nhện giăng tơ, Các con thằn lằn và các loài chuột. Ta đã làm sự hộ trì. Ta đã làm sự che chở, Mong rằng các loài hữu tình sẽ bỏ đi. Ta đảnh lễ đức Thế Tôn. Ta đảnh lễ bảy vị Chánh Đẳng Giác

Kinh Vua Các Loài Rắn - Ahina Sutta(AN IV.67

Notes

1.
Culla Vagga, ii. p. 110; also in the Anguttara under the title Ahi (metta) sutta, ii.72; Khandha-Vatta Jataka, 203.
2.
AN 4:68 Khandha Paritta, Loving Kindness towards Royal Tribes of Snakes

Vipassi, Sikhi, Vessabhu, Kakusanda, Konagama, Kassapa, Gotama.

Notes

1.
Culla Vagga, ii. p. 110; also in the Anguttara under the title Ahi (metta) sutta, ii.72; Khandha-Vatta Jataka, 203.
2.
AN 4:68 Kinh Vua Các Loài Rắn - Ahina Sutta(AN IV.67

AN 4:68 Khandha Paritta, Loving Kindness towards Royal Tribes of Snakes Vipassi, Sikhi, Vessabhu, Kakusanda, Konagama, Kassapa, Gotama.

6. Discourse on Advantages of Loving-kindness (Mettanisamsa Sutta [1])  

Thus have I heard:

6. Bài giảng về Ưu điểm của Lòng Từ (Mettanisamsa Sutta [1])  

Tôi nghe như vầy:

On one occasion the Blessed One was living near Savatthi at Jetavana at Anathapindika's monastery. Then he addressed the monks saying, "Monks." — "Venerable Sir," said the monks, by way of reply. The Blessed One then spoke as follows:

Vào một dịp nọ, Đức Thế Tôn đang sống gần thành Xá Vệ (Savatthi) tại Kỳ Viên tịnh xá (Jetavana) tại tu viện của ông Cấp Cô Độc (Anathapindika). Sau đó, ông nói với các vị Tỳ Khưu: "Này các Tỳ Khưu ." - "Dạ, Bạch Đức Thế Tôn,” các Tỳ kheo đáp lại. Sau đó Đức Thế Tôn nói như sau:

"Monks, eleven advantages are to be expected from the release (deliverance) of heart by familiarizing oneself with thoughts of loving-kindness (metta), by the cultivation of loving-kindness, by constantly increasing these thoughts, by regarding loving-kindness as a vehicle (of expression), and also as something to be treasured, by living in conformity with these thoughts, by putting these ideas into practice, and by establishing them. What are the eleven?

"Này các Tỷ Kheo, có mười một lợi thế được mong đợi từ việc giải thoát tâm bằng cách thực hành lòng từ (metta), tu tập lòng từ, làm cho sung mãn, bằng cách liên quan đến lòng từ như một phương tiện (biểu hiện), và cũng là một thứ đáng được trân trọng, bằng cách an trú với lòng từ, bằng cách đưa những ý tưởng này vào thực tế, và bằng cách thiết lập chúng. Mười một là gì?

1. "He sleeps in comfort. 2. He awakes in comfort. 3. He sees no evil dreams. 4. He is dear to human beings. 5. He is dear to non-human beings. 6. Devas (gods) protect him. 7. Fire, poison, and sword cannot touch him. 8. His mind can concentrate quickly. 9. His countenance is serene. 10. He dies without being confused in mind. 11. If he fails to attain arahantship (the highest sanctity here and now, he will be reborn in the brahma-world.

1) Sukhaṁ supati. 2) Sukhaṁ paṭibujjhati. 3) Na pāpakaṁ supinaṁ passati. 4) Manussānaṁ piyo hoti. 5) Amanussānaṁ piyo hoti. 6) Devatā rakkhanti. 7) Nâssa aggi vā visaṁ vā satthaṁ vā kamati. 8) Uttariṁ appaṭivijjhanto brahma,lokûpago hoti.

Ngủ an lạc, thức an lạc, không ác mộng được loài Người ái mộ, được phi nhân ái một, chư Thiên bảo hộ, không bị lửa, thuốc độc, kiếm xúc chạm, tâm được định mau chóng, sắc mặt trong sáng, mệnh chung không hôn ám ; nếu chưa thể nhập thượng pháp (A-la-hán quả) ; được sanh lên Phạm thiên giới.

"These eleven advantages, monks, are to be expected from the release of heart by familiarizing oneself with thoughts of loving-kindness, by cultivation of loving-kindness, by constantly increasing these thoughts, by regarding loving-kindness as a vehicle (of expression), and also as something to be treasured, by living in conformity with these thoughts, by putting these ideas into practice and by establishing them."

có mười một lợi thế được mong đợi từ việc giải thoát tâm bằng cách thực hành lòng từ (metta), tu tập lòng từ, làm cho sung mãn, bằng cách liên quan đến lòng từ như một phương tiện (biểu hiện), và cũng là một thứ đáng được trân trọng, bằng cách an trú với lòng từ, bằng cách đưa những ý tưởng này vào thực tế, và bằng cách thiết lập chúng

So said the Blessed One. Those monks rejoiced at the words of the Blessed One.

Thế Tôn nói như vậy. Những vị Tỳ Kheo hoan hỉ trước những lời của Đức Thế Tôn.

Note

1.
The paritta text has puttanam phalamasnati, which means, "blessed with offspring." This is hardly compatible in the context of the stanza concerned. The original Jataka text has vuttanam phalamasnati which means, "the fruit of what is sown he enjoys," a meaning which harmonizes with the rest of the stanza.

Note

1.
The paritta text has puttanam phalamasnati, which means, "blessed with offspring." This is hardly compatible in the context of the stanza concerned. The original Jataka text has vuttanam phalamasnati which means, "the fruit of what is sown he enjoys," a meaning which harmonizes with the rest of the stanza.

7. The Advantages of Friendship (Mittanisamsa)  

These ten gathas (stanzas) recounting the beneficial effects of friendship, are found in the Magapakkha (Temiya) Jataka, vol. vii. No. 538.

7. Ưu Điểm Của Tình Bạn (Mittanisamsa)  

Mười câu kệ này kể lại những tác dụng hữu ích của tình bạn, được tìm thấy trong Magapakkha (Temiya) Jataka, vol. vii. Số 538.

1. He who maintains genuine friendship (who is not treacherous towards friends) will, whenever he goes far out of his home, receive abundance of hospitality. Many will obtain their living through him.

1) Pahūta-bhakkho bhavatī - Vippavuttho sakā gharā
Bahū nam upajīvantī - Yo mittānam na dūbhatī

1) Người giữ tình bạn chân chính (không phản bội bạn bè), bất cứ khi nào anh ta đi xa khỏi nhà của mình, sẽ nhận được sự hiếu khách dồi dào. Nhiều người sẽ được sống nhờ anh ta.

2. He who maintains genuine friendship will, whatever country, village or town he visits, be honored.

2) Yam yam janapadam yātī - Nigame rājadhāniyo
Sabbattha pūjito hoti - Yo mittānam na dūbhati

2) Người giữ tình bạn chân chính, dù ở bất kỳ quốc gia, làng mạc hay thị trấn nào mà anh ta đến thăm, sẽ được tôn kính.

3. He who maintains genuine friendship — robbers will not overpower him. Royalty will not look down upon him. He will triumph over all his enemies.

3) Nāssa corā pasahanti - Nātimaññeti khattiyo
Sabbe amitte tarati - Yo mittānam na dūbhati

3) Người giữ tình bạn chân chính - những tên cướp sẽ không chế ngự được anh ta. Những người có địa vị sẽ không coi thường anh ta. Anh ta sẽ chiến thắng tất cả kẻ thù của mình.

4. He who maintains genuine friendship, returns home with feeling of amity, rejoices in the assemblies of people, and becomes the chief among his kinsmen.

4) Akkuddho sagharam eti - Sabhāya patinandito
Ñātīnam uttamo hoti - Yo mittānam na dūbhati

4) Người giữ tình bạn chân chính, trở về nhà với cảm giác thân thiện, vui vẻ trong đám đông của mọi người, và trở thành người đứng đầu trong số họ hàng của mình.

5. He who maintains genuine friendship, being hospitable to others, in turn, receives hospitality. Being respectful to others, in turn, receives respect. He enjoys both praise and fame.

5) Sakkatvā sakkato hoti - Garu hoti sagāravo
Vanna-kittibhato hoti - Yo mittānam na dūbhati

Người giữ tình bạn chân chính, hiếu khách với người khác, đến lượt mình, sẽ nhận được sự hiếu khách. Tôn trọng người khác sẽ nhận được sự tôn trọng. Anh ấy có được lời khen ngợi và sự nổi tiếng.

6. He who maintains genuine friendship, being a giver, in turn, receives gifts himself. Being worshipful to others, in turn, himself is worshipped. He attains prosperity and fame.

6) Pūjako labhate pūjam - Vandako pati-vandanam
Yaso kittiñca pappoti - Yo mittānam na dūbhati

Người giữ tình bạn chân thành, khi cho đi, cùng một lúc, nhận được quà. Tôn kính người khác, cùng một lúc chính mình cũng được tôn kính. Anh ta đạt được sự thịnh vượng và nổi tiếng.

7. He who maintains genuine friendship, shines (in glory) like the fire, and is radiant as a deity. Never will prosperity forsake him.

7) Aggi yathā pajjalati - Devatā’va virocati
Siriyā ajahito hoti - Yo mittānam na dūbhati

7) Người giữ tình bạn chân chính, tỏa sáng (trong vinh quang) như ngọn lửa, và rạng rỡ như một vị thần. Không bao giờ sự thịnh vượng sẽ từ bỏ anh ta.

8. He who maintains genuine friendship, to him there will be many breeding cattle. What is sown in the field will flourish. The fruit of that which is sown he enjoys.[1]

8) Gāvo tassa pajāyanti - Khette vuttham virūhati
Puttānam phalamasnāti - Yo mittānam na dūbhati

8) Người giữ tình bạn chân chính, sẽ có nhiều gia súc sinh sản cho anh ta. Những gì được gieo trên đồng ruộng sẽ nảy nở. Người ấy được hưởng quả phước.

9. He who maintains genuine friendship, should he fall from a precipice or mountain or tree, he will be protected (will not be harmed).

9) Darito pabbatāto vā - Rukkhāto patito naro
Cuto patittham labhati - Yo mittānam na dūbhati

9) Người giữ tình bạn chân chính, nếu anh ta rơi từ giốc thẳng, núi hoặc cây, anh ta sẽ được bảo vệ (sẽ không bị tổn hại).

10. He who maintains genuine friendship cannot be overthrown by enemies even as the deep-rooted banyan tree cannot be overthrown by the wind.

10) Virūlha-mūla-santānam - Nigro-dhamiva māluto
Amittā nappa-sahanti - Yo mittānam na dūbhati

10) Người giữ tình bạn chân chính không thể bị kẻ thù lật đổ như khi cây đa có rễ sâu cũng không thể bị gió quật đổ.

Note

1.
A. v. 342.

Note

1.
A. v. 342.

8. The Peacock's Prayer for Protection (Mora Paritta [1])  

1. There rises the golden hued one, the one who has sight, the one who is sole monarch, the one who illuminates the earth (it is the sun that is being addressed). I adore thee, the golden hued one who illuminates the earth (it is the sun that is being addressed). I adore thee, the golden hued one who illuminates the earth. Protected by thee we live this day safe and secure.

8. Kinh Khổng Tước (Mora Paritta [1])  

1. Udet’ayaṁ cakkhumā ekarājā – Harissavaṇṇo paṭhavippabhāso Taṁ taṁ namassāmi harissavaṇṇaṁ paṭhavippabhāsaṁ. Tay’ajja guttā viharemu divasaṁ.

1.Ở đó có người với sắc màu vàng chói, người có tầm nhìn, người là quốc vương duy nhất, người chiếu sáng trái đất (chính là mặt trời đang được nói đến). Tôi ngưỡng mộ ngài, người có màu vàng rực rỡ chiếu sáng trái đất (chính là mặt trời đang được nói đến). Tôi tôn thờ ngài, người có màu vàng rực rỡ chiếu sáng trái đất. Được bảo vệ bởi Ngài, chúng con sống ngày này an toàn trọn ngày

2. May my adoration be to those Brahmanas[2] (the Buddhas) who have attained Enlightenment by comprehending all dhammas. May they protect me. May my adoration be to the Buddhas (of the past), to their Enlightenment (the Four Paths and the Four Fruits). May my adoration be to those supremely secured from bondage (the Buddhas) and to their Deliverance.

Having made this protection, the peacock goes about seeking (food).

2. Ye brāhmaṇā vedagū sabbadhamme – Te me namo te ca maṁ pālayantu Namatthu Buddhānaṁ namatthu bodhiyā – Namo vimuttānaṁ namo vimuttiyā.

Imaṁ so parittaṁ katvā moro carati esanā.

2. Cầu mong sự tôn thờ của con đến Chư Phật, những người đã đạt được Giác ngộ bằng cách thấu hiểu tất cả các pháp. Mong họ bảo vệ con. Cầu mong sự tôn thờ của con đối với chư Phật (quá khứ), giác ngộ của họ (bốn Đạo và bốn Quả). Cầu mong sự tôn thờ của con dành cho những người được bảo đảm tối cao khỏi sự trói buộc (các vị Phật) và sự Giải thoát của họ.

Sau khi đọc lên chú bảo hộ này, chim khổng tước đi kiếm mồi..

3. There descends the golden hued one, the one who has sight, the one who is sole monarch, the one who illuminates the earth. I adore thee, the golden hued one who illuminates the earth. Protected by thee we live this night safe and secure.

3. Apet’ayaṁ cakkhumā ekarājā – Harissavaṇṇo paṭhavippabhāso Taṁ taṁ namassāmi harissavaṇṇaṁ paṭhavippabhāsaṁ. Tay’ajja guttā viharemu rattiṁ.

3. Ở đó, người với sắc màu vàng chói, người có thị giác, người là quốc vương duy nhất, người chiếu sáng trái đất. Con tôn thờ ngài, người có màu vàng rực rỡ chiếu sáng trái đất. Được bảo vệ bởi Ngài, chúng con sống an toàn trọn đêm.

4. May my adoration be to those Brahmanas (the Buddhas) who have attained Enlightenment by comprehending all dhammas. May they protect me. May my adoration be to the Buddhas (of the past), to their Enlightenment. May my adoration be to those supremely secured from bondage (the Buddhas) and to their Deliverance. Having made this protection the peacock spent his life happily.

4. Ye brāhmaṇā vedagu sabbadhamme – Te me namo te ca maṁ pālayantu. Namatthu Buddhānaṁ namatthu bodhiyā – Namo vimuttānaṁ namo vimuttiyā Imaṁ so parittaṁ katvā moro vāsamakappayī’ti.

4. Cầu mong sự tôn thờ của con đến Chư Phật đã đạt được Giác ngộ bằng cách thấu suốt tất cả các pháp. Mong họ bảo vệ con. Cầu mong sự tôn thờ của con đối với chư Phật (quá khứ), đến sự giác ngộ của họ. Cầu mong sự tôn thờ của con dành cho những người được bảo đảm tối cao khỏi sự trói buộc (các vị Phật) và sự Giải thoát của họ. Sau khi thực hiện sự bảo vệ này, con công đã trải qua cuộc sống của mình hạnh phúc.

Notes - HỘ CHÚ KHỔNG TƯỚC

1.
Bản tiếng Pali-Anh: Moraparitta, Paritta Chanting, Wat Bukit Perak.
Việt dịch: Tống Phước Khải
ii. 23; No. 159.
2.
Udetayañcakkhumā ekarājā
Harissavaṇṇo paṭhavippabhāso
Taṃ taṃ namassāmi harissavaṇṇaṃ paṭhavippabhāsaṃ
Tayajja guttā viharemu divasaṃ
Ye Brāhmaṇā vedagu sabbadhamme
Te me namo te ca maṃ pālayantu
Namatthu Buddhānaṃ, nammtthu Bodhiyā
Namo Vimuttānaṃ namo Vimuttiyā.
Imaṃ so parittaṃ katvā moro carati esanā.

Apetayañcakkhumā ekarājā
Harissavaṇṇo paṭhavippabhāso
Taṃ taṃ namassāmi harissavaṇṇaṃ paṭhavippabhāsaṃ
Tayajja guttā viharemu divasaṃ
Ye Brāhmaṇā vedagu sabbadhamme
Te me namo te ca maṃ pālayantu
Namatthu Buddhānaṃ, nammtthu Bodhiyā
Namo Vimuttānaṃ namo Vimuttiyā.
Imaṃ so parittaṃ katvā moro vāsamakappayīti.

Notes - HỘ CHÚ KHỔNG TƯỚC

1.
Bản tiếng Pali-Anh: Moraparitta, Paritta Chanting, Wat Bukit Perak.
Việt dịch: Tống Phước Khải
ii. 23; No. 159.
2.
Udetayañcakkhumā ekarājā
Harissavaṇṇo paṭhavippabhāso
Taṃ taṃ namassāmi harissavaṇṇaṃ paṭhavippabhāsaṃ
Tayajja guttā viharemu divasaṃ
Ye Brāhmaṇā vedagu sabbadhamme
Te me namo te ca maṃ pālayantu
Namatthu Buddhānaṃ, nammtthu Bodhiyā
Namo Vimuttānaṃ namo Vimuttiyā.
Imaṃ so parittaṃ katvā moro carati esanā.

Apetayañcakkhumā ekarājā
Harissavaṇṇo paṭhavippabhāso
Taṃ taṃ namassāmi harissavaṇṇaṃ paṭhavippabhāsaṃ
Tayajja guttā viharemu divasaṃ
Ye Brāhmaṇā vedagu sabbadhamme
Te me namo te ca maṃ pālayantu
Namatthu Buddhānaṃ, nammtthu Bodhiyā
Namo Vimuttānaṃ namo Vimuttiyā.
Imaṃ so parittaṃ katvā moro vāsamakappayīti.

NGHĨA BÀI CHÚ

Kìa Ngài vừa mới mọc, vị vua mắt chói chang. Chiếu ánh sáng rực rỡ, trên toàn cõi thế gian. Xin Ngài hãy bảo hộ, trọn ngày luôn bình an. Nay tôi xin đảnh lễ, chư vị Bà La Môn, thành tựu sự Tự Tại, do liễu tri mọi Pháp, hãy bảo hộ cho tôi. Xin đảnh lễ Chư Phật, đảnh lễ hạnh Bồ Đề. Đảnh lễ bậc Giải Thoát, đảnh lễ sự Giải Thoát.

Sau khi thực hiện việc bảo hộ xong, chim công bay đi tìm mồi.

Kìa Ngài đang lặn xuống, vị vua mắt chói chang. Chiếu ánh sáng rực rỡ, trên toàn cõi thế gian. Xin Ngài hãy bảo hộ, trọn đêm luôn bình an. Nay tôi xin đảnh lễ, chư vị Bà La Môn, thành tựu sự Tự Tại, do liễu tri mọi Pháp, hãy bảo hộ cho tôi. Xin đảnh lễ Chư Phật, đảnh lễ hạnh Bồ Đề. Đảnh lễ bậc Giải Thoát, đảnh lễ sự Giải Thoát.

Sau khi thực hiện việc bảo hộ xong, chim công nghỉ ngủ yên lành tại nơi trú ngụ.

GHI CHÚ:

Bài hộ chú này được Đức Phật Thích Ca thuyết giảng khi có một vị Tỳ Kheo trong Tăng Đoàn bị quyến rũ bởi nữ sắc.
Đức Phật kể lại tiền kiếp của mình từng là chim công vàng sống trên đỉnh núi. Mỗi sáng trước khi đi tìm mồi, chim công đậu trên đỉnh núi nhìn về phía mặt trời và tụng bài chú. Buổi chiều về, trước khi vào tổ, chim công lại đậu trên đỉnh núi nhìn về phía mặt trời và tụng bài chú. Đã có nhiều thợ săn đặt bẫy bắt chim công, nhưng do oai lực của bài chú chim công không thể rơi vào bẫy. Mãi về sau, hôm nó vào sáng sớm, chưa kịp trì chú thì công vàng đã bị một công mái - do một thợ săn sắp đặt - quyến rũ và bị rơi vào bẫy. Thợ săn mang chim công về cho vua, chim công đã kể cho vị vua này nghe tiền kiếp của mình cũng từng là một vị vua, để xác thực lời nói, chim công bảo rằng bên dưới hồ nước của hoàng cung trước có chôn một cỗ xe và bảo vua đào lên sẽ rõ. Mọi việc sau đó đúng như lời chim công nói và vua đã thả chim công trở về núi.
Theo truyền thống Phật Giáo Theravada, sáng sớm khi mặt trời mọc thì trì tụng phần đầu của bài chú, buổi chiều khi mặt trời lặn thì trì tụng phần sau. Công năng của bài chú được tin rằng sẽ giúp tránh được những hiểm họa và cạm bẫy, còn nếu bị rơi vào cạm bẫy thì sẽ được giải thoát an toàn.

Notes

1.
Jataka, ii. 23; No. 159.
2.
The word "Brahmana" is used in the literal sense of one who has unloaded the burden of evil (bahita papoti brahmano), i.e., the Buddha, or an arahant, the Consummate One. The word Brahmana in the Brahmana Vagga (last chapter of the Dhammapada, refers to the arahant.

Notes

1.
Jataka, ii. 23; No. 159.
2.
Thuật ngữ "Brahmana" được sử dụng theo nghĩa của một người đã trút bỏ được gánh nặng của điều bất thiện (bahita papoti brahmano), tức là Đức Phật, hoặc một vị A la hán, Đấng Viên mãn. Từ Brahmana trong Brahmana Vagga (chương cuối của Kinh Pháp Cú, dùng để chỉ các bậc A la hán..

9. The Moon Deity's Prayer for Protection (Canda Paritta [1])  

In Indian cosmology the major planets are regarded as deities or gods. This view, at times, extends to the common parlance of today, e.g., "rain god," "sun god," etc. The Buddha was not disposed to comment on these views, and so he contented himself with merely expressing the message of the Dhamma through the medium of these views.

9. Kinh Nguyệt Thiên Tử - Candima Sutta (Canda Paritta [1])  

Trong vũ trụ học của Ấn Độ, các hành tinh chính được coi là các vị thần hoặc các vị thần. Đôi khi quan điểm này, mở rộng đến cách nói thông thường của ngày nay, ví dụ, "thần mưa", "thần mặt trời", v.v. Đức Phật không có khuynh hướng bình luận về những quan điểm này, và vì vậy Ngài chỉ bằng lòng với việc chỉ bày tỏ thông điệp của Giáo pháp qua thuyết chiết trung của những quan điểm này.

Thus have I heard:

Tôi nghe như vầy:

On one occasion the Blessed One was living near Savatthi, at Jetavana at Anathpindika's monastery. At that time Candima, the moon deity, was seized by Rahu, lord of Asura. Thereupon calling to mind the Blessed One, Candima, the moon deity, recited this stanza:

Thế Tôn trú ở Sàvatthi (Xá-vệ). Lúc bấy giờ, Thiên tử Candima bị Ràhu, vua A-tu-la bắt. Rồi Thiên tử Candima, tưởng niệm đến Thế Tôn, trong lúc ấy nói lên bài kệ này:

i. "O Buddha, the Hero, thou art wholly free from all evil. My adoration to thee. I have fallen into distress. Be thou my refuge."

i. Đảnh lễ đấng Giác Ngộ, Bậc Anh Hùng muôn thuở, Ngài là bậc Giải Thoát, Thoát ly thật viên mãn, Còn con bị trói buộc, Hãy cho con quy ngưỡng.

Thereupon the Blessed One addressed a stanza to Rahu, Lord of Asuras, on behalf of Candima, thus:



Rồi Thế Tôn, vì Thiên tử Candima, nói lên bài lệ này cho Ràhu, vua A-tu-la:

ii. "O Rahu, Candima has gone for refuge to the Tathagata, the Consummate One. Release Candima. The Buddhas radiate compassion on the world (of beings)."

ii Canda đã quy y, Như Lai, bậc La-hán, Ràhu, hãy thả nó, Vì chư Phật thương đời.

Thereupon Rahu, Lord of Asuras, released Candima, the deity, and immediately came to the presence of Vepacitta, Lord of Asuras, and stood beside him trembling with fear and with hair standing on end. Then Vepacitta addressed Rahu in this stanza.

Rồi Ràhu, vua A-tu-la, giải thoát cho Thiên tử Candima. Như bị hốt hoảng, Ràhu đi đến Vepacitti, vua A-tu-la, run sợ, lông tóc dựng ngược và đứng một bên. Và Vepacitti, vua A-tu-la, nói lên bài kệ cho Ràhu, vua A-tu-la, đang đứng một bên:

iii. "Rahu. Why did you suddenly release Candima? Why have you come trembling, and why are you standing here terrified?"

iii Vì sao, như hốt hoảng, Ràhu thả Canda, Ông đến, lòng run sợ, Ông đứng, tâm kinh hoàng?

iv. "I have been spoken to by the Buddha in a stanza (requesting me to release Candima). If I had not released Candima my head would have split into seven pieces. While yet I live, I should have had no happiness. (Therefore I released Candima)."

iv Đầu con bể thành bảy, Đời con không hạnh phúc, Với lời kệ đức Phật, Nếu không thả Canda.

^^^^

Evaṁ me sutaṁ. Ekaṁ samayaṁ Bhagavā Sāvatthiyaṁ viharati Jetavane Anāthapiṇḍikassa ārāme. Tena kho pana samayena Candimā devaputto Rāhunā asurindena gahito hoti. Atha kho Candimā devaputto Bhagavantaṁ anussaramāno tāyaṁ velāyaṁ imaṁ gāthaṁ abhāsi.

Namo te Buddha vīra’tthu – Vippamutto’si sabbadhi Sambādhapaṭipanno’smi – Tassa me saraṇaṁ bhavā’ti

Atha kho Bhagavā Candimaṁ devaputtaṁ ārabbha Rāhuṁ asurindaṁ gāthāya ajjhabhāsi.

Tathāgataṁ Arahantaṁ – Candimā saraṇaṁ gato Rāhu candaṁ pamuñcassu – Buddhā lokānukampakā’ti

Atha kho Rāhu asurindo Candimaṁ devaputtaṁ muñcitvā taramānarūpo yena Vepacitti asurindo ten’upasaṅkami. Upasaṅkamitvā saṁviggo lomahaṭṭajāto ekamantaṁ aṭṭhāsi. Ekamantaṁ ṭhitaṁ kho Rāhuṁ asurindaṁ Vepacitti asurindo gāthāya ajjhabhāsi.

Kinnu santaramāno’va – Rāhu, Candaṁ pamuñcasi? Saṁviggarūpo āgamma – Kinnu bhīto’va tiṭṭhasī’ti?

Sattadhā me phale muddhā – Jīvanto na sukhaṁ labhe Buddhagāthābhigīto’mhi – No ce muñceyya Candiman’ti.

Note

1.
S. i. 50.

Note

1.
S. i. 50.

Cập nhập ngày: Chủ Nhật ngày 22-5-2022

webmasters: Minh Hạnh & Nguyễn Văn Hoà

Trang Kế | | trở về đầu trang | Home page |