Contents

Mục Lục


"Bhikkhus, they do not savor the deathless who do not savor mindfulness of the body; they savor the deathless who savor mindfulness of the body."
— A i 45
"A skeleton wrapped up in skin..."
— M 82


"Này các tỳ khưu, người ta không chuộng sống bất tử mà không biết nếm trải chánh niệm thân; họ chuộng sống bất tử mà biết nếm trải chánh niệm thân."
— A i 45
"Bộ xương được bọc trong da..."
— M 82


Introduction  

The body is thought to be most obviously "me," what I regard as the most tangible part of myself. Around it therefore are constructed many views, all of them distorted to some extent, which prevent insight arising into the body as it really is. This book is a small anthology relating to the body in various ways, and presents material which, if contemplated by the earnest and sincere student of Dhamma, will eventually provide fruitful insight and, thereby, freedom from the many desires and fears centered on the body.

Such desires for pleasures in which the body is the instrument (though it is in the heart-mind where they dwell), awaken and intensify greed of all kinds, for food or sex for instance. Greed which is often accompanied by pleasurable sensations — and therefore desired — needs a rather bitter medicine to combat it: hence the number of pieces here on the unattractiveness of the body, its decay and death — all unpleasant matters. Some of the material, concerned with bodily unattractiveness, is like a medicine which need only be taken while the disease of greed-lust is active, and afterwards may be discontinued. It is important to understand this, and not to form the mistaken impression that the Buddha advocated viewing all beauty as loathsome. It is only that there is a hook in beauty which tangles with the greed in one's own heart and leads to more and more complications and difficulties.


Giới Thiệu  

Thân được cho là 'cái tôi' rõ ràng nhất, cái mà tôi xem như là phần tượng hình nhất của bản thân. Do đó có nhiều quan điểm được dựng lên quanh nó, tất cả đều bị méo mó ở một mức độ nào đó, làm cản trở cái nhìn sáng suốt về thân như nó thật sự là. Quyển sách này là một tuyển tập nhỏ liên quan đến thân dưới nhiều hình thức khác nhau, và trình bày các tài liệu mà, nếu được suy ngẫm bởi người học Pháp một cách nghiêm túc và chân thành, sẽ từ từ mang lại cái nhìn sáng suốt và, kết quả là, thoát khỏi nhiều dục vọng và sợ hãi chủ yếu nhắm vào thân.

Những dục vọng về khoái lạc như vậy mà thân là phương tiện (mặc dù tâm hồn là nơi chúng cư ngụ), bị đánh thức và gia tăng ham muốn đủ loại, chẳng hạn như thức ăn hay tình dục. Tham lam thường đi kèm với cảm giác khoái lạc — và do đó mong muốn — cần thuốc đắng để chống lại nó: vì thế đây là một số bài nói về sự không hấp dẫn của thân thể, sự phân rã và chết của nó — tất cả các vấn đề không được thoải mái. Vài bài, liên quan đến sự không hấp dẫn của thân, thì giống như thuốc chỉ cần uống khi bệnh tham hoành hành, và sau đó có thể ngưng. Cần phải hiểu điều này, và không tạo thành ấn tượng sai lầm rằng Đức Phật chủ trương xem mọi vẻ đẹp là ghê tởm. Chỉ là sự đam mê sắc đẹp vướng mắc với lòng tham trong tim của một người và dẫn đến nhiều phiền phức và khó khăn hơn.

Fears center around aging-decay, disease and death. They are not overcome by pretending they do not exist, as the ostrich is said to bury its head in the sand at the approach of enemies. Only resolutely facing these inevitable features of life can bring insight and relief from fear.

The Buddha's instructions on contemplation of the body are addressed to those who are able, through their life-style, to practice them. This means in effect monks and nuns, together with dedicated lay people. The former group have this contemplation given to them by their Teachers at the time of Going-forth from home to homelessness, and they need such a medicine to combat lust, which is destructive to the celibate Holy Life. Lay people keeping the Five Precepts have contentment with their partners as an important part of their practice. Sex is a natural part of their life but should still be restrained and kept within the bounds of the Third Precept. If not, how much trouble follows! But some of them may wish to live without sexual attachment, and this cannot be done in the way of Dhamma by ignoring the power of the sexual drive, or by suppressing it. Only when it is treated with mindfulness can it be transcended. The aspect of mindfulness which is needed for this is the subject, or rather the interrelated subjects of this book.

Nỗi sợ hãi tập trung vào sự già nua, bệnh tật và cái chết. Không thể khắc phục bằng cách giả vờ xem như chúng không hiện hữu, như con đà điểu vùi đầu trong cát khi kẻ thù đến. Chỉ có sự quyết tâm đối diện với những đặc tính không thể tránh khỏi của cuộc sống là có thể mang lại cái nhìn sáng suốt và thoát khỏi sợ hãi.

Những hướng dẫn của Đức Phật về việc quán niệm thân là để cho những ai, qua lối sống của họ, có khả năng thực hành. Điều này có nghĩa là cho chư tăng, ni, cùng với các cư sĩ tín tâm. Chư tăng ni được chỉ dạy về sự quán niệm này bởi Thầy của họ vào lúc xuất gia, và họ cần loại thuốc như vậy để chống lại dục vọng, vốn gây hại cho đời sống độc thân Thánh thiện. Các cư sĩ giữ Năm Giới có sự hài lòng với người phối ngẫu như một phần quan trọng trong sự tu tập của họ. Tình dục là một phần tự nhiên trong cuộc sống của họ nhưng vẫn nên kiềm chế và giữ trong giới hạn của Giới luật thứ ba. Nếu không, làm sao biết được sẽ có bao nhiêu hệ lụy! Nhưng vài người trong số họ có thể muốn sống đời không vương vấn tình dục, và điều này không thể được thực hiện qua Pháp bằng cách làm ngơ sức mạnh của sự thôi thúc tình dục, hay bằng cách đè nén nó. Chỉ khi nào nó được điều trị với chánh niệm thì mới có thể vượt qua được. Khía cạnh chánh niệm là cần thiết vì đây là chủ đề, hay đúng hơn là các chủ đề liên quan của quyển sách này.

In the world today people are subjected to a bombardment of sensuality by way of the mass media. Sex especially is used as a bait to sell things, and as a titillation of sensory experience. When this subjection is continued, the defilements of the mind, notably lust, greed, and attachment, are sure to be strengthened. Then when this has happened the result is not more happiness, only an increase of dukkha, suffering, trouble, and difficulties. The medicine for such over-indulgence and over-stimulation is given in this book.

It is said that this subject of meditation is unique to the Buddha's Teachings and that elsewhere it is not clearly taught. This is not surprising as we find that desire is sometimes accepted as being "natural." Wherever desires are viewed as "natural," that is, inherent in one's nature or self, nothing much can be done about them. But the Buddha analyzed desires into those which are wholesome — to practice Dhamma, for instance — and the unwholesome ones, among which are greed and lust. They may not be gross either, as in the case of the meditator who is greedy for bliss, or visions, and attached to such things. The Buddha has provided the medicine for all unwholesome desires, and according to our various ways of life we can use it to effect partial or complete cures.

Trong thế giới ngày nay người ta bị kích động dục vọng qua truyền thông đại chúng. Đặc biệt là tình dục được sử dụng như mồi nhử để bán mọi thứ, và như chất kích thích cho kinh nghiệm cảm giác. Khi sự kích động này tiếp tục, phiền não ô trược của tâm, nhất là thèm khát, tham lam và luyến ái, chắc chắn sẽ mạnh hơn. Rồi khi điều này xảy ra thì kết quả không phải là vui sướng hơn, mà chỉ là gia tăng đau khổ, chịu đựng, trở ngại và khó khăn. Thuốc điều trị cho sự đam mê thái quá và kích thích thái quá như thế được đưa ra trong quyển sách này.

Người ta nói rằng chủ đề thiền này là độc đáo trong Giáo lý của Đức Phật và nó không được giảng dạy rõ ràng ở nơi khác. Không ngạc nhiên khi chúng ta thấy rằng ham muốn đôi khi được chấp nhận là "tự nhiên". Bất cứ nơi nào ham muốn được xem là "tự nhiên", nghĩa là vốn có trong bản tính hay bản ngã của một người, vì thế không thể làm gì được. Nhưng Đức Phật phân tích ham muốn thành những thứ lành mạnh — chẳng hạn như thực hành Pháp — và những thứ không lành mạnh, trong đó có tham lam và thèm khát. Chúng có thể cũng không thô tục, như trong trường hợp thiền giả muốn có cực lạc, hay linh ảnh, và luyến ái những thứ như vậy. Đức Phật cung cấp thuốc điều trị cho mọi ham muốn thô tục, và tùy theo lối sống khác nhau của chúng ta, chúng ta có thể sử dụng nó để chữa trị phần nào hay hết hẳn.

When the emphasis is so much on sensuality, youth, and beauty as we find now, the darker sides of life get pushed away and attempts are made, always unsuccessful, to sweep them under the carpet. Those who try to do so will not be pleased with the exercises contained in the Buddha's contemplation of the body. Such things will appear to them as morbid and unnatural. Yet they are also a part of this life and should not be ignored. And if the effort is made to ignore what is unpleasant about the body, sooner or later one will be jolted into the recognition of these things. Such jolts are not pleasant. Rather than leave it until one is forced to know the body's unpleasant sides it is better to acquaint one's emotions with this knowledge gradually.

In this spirit, Bag of Bones is being published. Unfortunately, being only a book it cannot give person-to-person advice on special problems. It can only offer some general guidelines to people who are interested in reducing their greed and lust. A word of warning: meditation on the unattractiveness of the body can be very potent and should only be practiced with moderation and care, especially if one has no personal contact with a Teacher of Buddhist meditation. If fear and anxiety, or other extreme unwholesome emotional states arise after practice of it, then it will be better to lay it down and take up Loving-kindness (metta) or Recollection of the Buddha (Buddhanussati) as one's meditation instead.

Khi để ý quá nhiều vào dục lạc, tuổi trẻ, và sắc đẹp như chúng ta thấy hiện nay, các mặt tối của cuộc sống bị đẩy đi và những cố gắng để dấu chúng dưới thảm, luôn luôn thất bại. Những ai cố gắng làm như vậy sẽ không hài lòng với các bài luyện tập có trong giáo lý của Đức Phật về sự quán niệm thân. Những điều như vậy họ xem là bệnh hoạn và không tự nhiên. Thế nhưng chúng cũng là một phần của cuộc sống này và không nên bỏ qua. Và nếu cố gắng bỏ qua những gì không thoải mái về thân thể, sớm hay muộn thì họ cũng sẽ phải chạm trán với việc công nhận những điều này. Chạm trán như vậy thì không dễ chịu. Thay vì phớt lờ nó cho đến khi bị ép buộc phải biết các mặt không thoải mái của thân thể thì tốt hơn là nên để cho cảm xúc của mình quen dần với kiến thức này.

Trong tinh thần này, Túi Xương được xuất bản. Tiếc thay, vì chỉ là một quyển sách nên nó không thể đưa ra lời khuyên trực tiếp có tính cá nhân về các vấn đề đặc biệt. Nó chỉ có thể cung cấp một số hướng dẫn tổng quát cho những người quan tâm đến việc giảm thiểu lòng tham và ham muốn của họ. Lời cảnh báo: thiền định về sự không hấp dẫn của thân có thể gây ảnh hưởng rất mạnh và chỉ nên thực hành vừa phải và thận trọng, nhất là khi người đó không có tiếp xúc trực tiếp với một vị Thiền sư Phật giáo. Nếu sợ hãi và lo lắng, hay các trạng thái tình cảm cực kỳ bất thiện phát sinh sau khi thực hành nó, thì tốt hơn là nên để nó qua một bên và thay vào đó thì chọn thiền định về Tâm Từ (metta) hay Niệm Phật (Buddhanussati)

This book, therefore, is not so much for beginners in Buddhism but rather for those who have already practiced for some time. May it inspire many people to practice the Dhamma more intently!

Translations which have no one's name after them are by the compiler. And all other reflections, dialogues, and poems too are his work, and have been jotted down as they occurred to him, mostly in the peaceful Forest Hermitage of Ven. Nyanaponika Mahathera outside Kandy. May I also here acknowledge the venerable Mahathera's kind advice and help in bringing this collection to print.

Bhikkhu Khantipalo
Wat Buddha-Dhamma
Forest Meditation Centre
Ten Mile Hollow
Wiseman's Ferry, N.S.W. 2255
Australia

Do đó, quyển sách này không phải cho người mới bắt đầu học Phật mà cho những ai đã thực hành một thời gian. Mong rằng nó truyền cảm hứng cho nhiều người để thực hành Pháp nghiêm túc hơn!

Phần dịch thuật không có ghi tên ai bên dưới là do soạn giả viết. Và tất cả những suy nghĩ, đối thoại, và thơ cũng là sáng tác của ông, và đã được ghi chép khi dòng tư tưởng đến với ông, phần lớn là ở tùng lâm Forest Hermitage yên tĩnh của HT. Nyanaponika Mahathera bên ngoài Kandy. Tôi cũng xin tỏ lòng tri ơn HT. Mahathera có lòng tốt cố vấn và giúp đỡ trong việc mang tuyển tập này ra xuất bản.

Bhikkhu Khantipalo
Wat Buddha-Dhamma
Forest Meditation Centre
Ten Mile Hollow
Wiseman's Ferry, N.S.W. 2255
Australia

§1

"Bhikkhus, when one dhamma is developed and cultivated it leads to a great sense of urgency, to great benefit, to great safety from bondage, to great mindfulness and full awareness, to obtainment of knowledge and insight, to a pleasant abiding here and now, to realization of the fruit of true knowledge and deliverance. What is that one dhamma? It is mindfulness occupied with the body."

— A. I. 43, trans. Ven. Ñanamoli

§1

"Này các tỳ khưu, khi một pháp được tu tập và phát triễn nó dẫn đến kiên trì và tận tụy, lợi ích lớn, thoát khỏi ràng buộc, chánh niệm mạnh mẽ và ý thức đầy đủ, đạt được trí tuệ và minh kiến, an trụ ở đây và bây giờ, chứng đắc quả kiến thức thật sự và giải thoát. Một pháp đó là gì? Đó là chuyên chú quán niệm thân."

— A. I. 43, chuyển dịch: HT. Ñanamoli

§2 The Advantages of Mindfulness of the Body  

  1. One conquers aversion and delight,
  2. And fear and dread as well.
  3. Besides, one can stand cold and heat, hunger and thirst, troublesome things in the world, harsh words and painful feelings.
  4. One obtains all four jhanas,
  5. And supernormal faculties,
  6. The heavenly ear element (clairaudience),
  7. Knowledge of others' minds,
  8. And of all one's past lives,
  9. And sees besides, how beings appear and pass away according to their kamma.
  10. Finally one enters upon the two deliverances (of the heart and by wisdom), and all taints (asava) are abolished.

§2 Ưu Điểm của Quán Niệm Thân  

  1. Người biết chế ngự ác cảm và khoái lạc,
  2. Cùng với lo ngại và sợ hãi.
  3. Ngoài ra, họ còn có thể chịu đựng lạnh và nóng, đói và khát, những phiền phức trên thế giới, những lời gay gắt và cảm xúc đau đớn.
  4. Người đó đạt được cả bốn tầng thiền,
  5. Và năng lực siêu nhiên,
  6. Thiên nhĩ thông,
  7. Hiểu biết tâm trí của người khác,
  8. Và tất cả các kiếp sống trong quá khứ của họ,
  9. Và bên cạnh đó nhìn thấy, chúng sinh xuất hiện và qua đời theo nghiệp quả như thế nào.
  10. Cuối cùng người đó đạt được hai sự giải thoát (của trái tim và bằng trí tuệ), và mọi ô nhiễm (asava - hữu lậu) đều bị tiêu hủy.

§3

"When anyone has developed and repeatedly practiced mindfulness of the body, he has included whatever wholesome dhammas (mental states) there are that partake of true knowledge (vijja).

"Just as anyone who extends his mind over the great ocean has included whatever streams there are that flow into the ocean, so too, when anyone has developed and repeatedly practiced mindfulness of the body, he has included whatever wholesome dhammas there are that partake of true knowledge."

— M. 119, trans. Ven. Ñanamoli (revised)

§3

"Khi người nào phát triễn và liên tục tu tập quán niệm thân, người đó hàm chứa những thiện pháp (trạng thái tâm linh) dự phần cùng kiến thức thật sự (vijja).

"Như người nào mở rộng tâm ra biển cả hàm chứa những dòng sông chảy vào biển, cũng vậy, khi người nào phát triễn và liên tục tu tập quán niệm thân, người đó hàm chứa những thiện pháp dự phần cùng kiến thức thật sự."

— M. 119, chuyển dịch: HT. Ñanamoli (chỉnh sửa)

§4 Insight Knowledge  

"This my body consists of the four great elements, is procreated by a mother and father, is built up out of boiled rice and bread, is of the nature of impermanence, of being worn and rubbed away, of dissolution and disintegration, and this my consciousness has that for its support and is bound up with it."

— M. 77, trans. Ven. Ñanamoli

§4 Minh Kiến Tuệ  

Thân thể này của tôi gồm có bốn yếu tố quan trọng, được sanh ra bởi mẹ và cha, nuôi dưỡng bởi cơm và bánh mì, có tính vô thường, hư hao, chết và tan rã, và tâm thức này của tôi có nó vì sự hỗ trợ của nó và bị ràng buộc với nó."

— M. 77, chuyển dịch: HT. Ñanamoli

§5

"Now this body that has material form consists of the four great elements, it is procreated by a mother and father, and built up out of boiled rice and bread, it has the nature of impermanence, of being worn and rubbed away, of dissolution and disintegration. It must be regarded —

  • as impermanent — as (liable to) suffering,
  • as a disease — as a cancer,
  • as a dart — as a calamity,
  • as an affliction — as alien,
  • as a falling to pieces — as void,
  • as without a self.

"When a man regards it thus, he abandons his desire for the body, affection for the body, and his habit of treating the body as a basis for his inferences."[1]

— M. 74, trans. Ven. Ñanamoli

§5

Bây giờ cái thân mà có thể chất bao gồm bốn yếu tố quan trọng, nó được sanh ra bởi mẹ và cha, và nuôi dưỡng bởi cơm và bánh mì, nó có tính vô thường, hư hao, chết và tan rã. Nó phải được xem —

  • như vô thường — như (chịu) đau khổ,
  • như bệnh tật — như ung thư,
  • như phi tiêu — như thiên tai,
  • như tai ách — như người lạ,
  • như tan vỡ thành mảnh vụn — như vô dụng,
  • như không có tự ngã.

"Khi một người xem nó là như vậy, ông ấy từ bỏ ham muốn thân, yêu thích thân, và thói quen xem thân như nền tảng cho sự suy luận của ông."[1]

— M. 74, chuyển dịch: HT. Ñanamoli

§6

You live by "following the body"? Eating when it's hungry, resting when it's tired, dressing when necessary, urinating, defecating, going to work to get money — all for what? For this body? Then what about the time when its end comes? What was it all for?

§6

Bạn sống "theo tiếng gọi của thân"? Ăn khi nó đói, nghỉ ngơi khi nó mệt, mặc áo quần khi cần thiết, đi tiểu, đi bài tiết, đi làm kiếm tiền — tất cả vì cái gì? Cho cái thân này? Thế khi cuộc sống của nó kết thúc thì sao? Tất cả là cho cái gì?

§7

  • to feed it — to clothe it,
  • to cleanse it — to wash it,
  • to beautify it — to relax it,
  • to rest it?

How much time do you spend on your mind?

§7

  • cho nó ăn — cho nó mặc,
  • lau chùi nó — tắm rửa nó,
  • làm đẹp nó — cho nó thoải mái,
  • cho nó nghỉ ngơi?

Bạn dành bao nhiêu thời giờ cho tâm của mình?

§8

Three things we never forget to do for the body:

  • wash it,
  • feed it,
  • medicate it.

Three things we usually forget to do with the mind:

  • wash it (with the purity of calm meditation),
  • feed it (with good Dhamma),
  • medicate it (mindfully ridding ourselves of the diseases of greed, aversion and delusion, with the supreme medicine of Dhamma).

The mind gets dirty and needs washing, it becomes hungry and needs nutriment, and it is most of the time diseased and needs curing.

Why are we so forgetful of our own good?

§8

Ba điều chúng ta không bao giờ quên làm cho thân:

  • tắm rửa nó,
  • cho nó ăn,
  • cho nó uống thuốc.

Ba điều chúng ta thường quên làm cho tâm:

  • tắm rửa nó (với sự thanh tịnh của thiền tĩnh lặng),
  • cho nó ăn (với thiện Pháp),
  • cho nó uống thuốc (chú tâm làm cho chúng ta thoát khỏi bệnh tham, sân và si, với dược phẩm tối thượng của Pháp).

Tâm bị dơ và cần rửa sạch, nó bị đói và cần dinh dưỡng, và nó thường bị đau ốm và cần chữa trị.

Tại sao chúng ta lại quên đi hạnh phúc của chính mình?

§9 Gratification and Danger in Form (Body)  

"And what is gratification in the case of form (body)?

"Suppose there were a girl of warrior-noble cast or brahmin caste or householder stock, in her fifteenth or sixteenth year, neither too tall nor too short, neither too thin nor too fat, neither too dark nor too fair: is her beauty and loveliness then at its height?"

"Yes, venerable sir."

"Now the pleasure and joy that arise in dependence on that beauty and loveliness are the gratification in the case of form.

"And what is danger in the case of form?

"Later on one might see that same woman here at eighty, ninety or a hundred years, aged, as crooked as a roof, doubled up, tottering with the aid of sticks, frail, her youth gone, her teeth broken, grey haired, scanty-haired, bald, wrinkled, with limbs all blotchy: how do you conceive this, bhikkhus, has her former beauty and loveliness vanished and the danger become evident?"

"Yes, venerable sir."

"Bhikkhus, this is the danger in the case of form."

— M. 13, "The Mass of Suffering," trans. Ven. Ñanamoli

N.B. Women reading this should change the sex of the person in the above.

§9 Sự Hài Lòng và Nguy Hiểm trong Sắc (Thân)  

"Và sự hài lòng trong trường hợp sắc (thân) là gì?

"Giả sử có một cô gái thuộc giai cấp chiến binh cao quý hay giai cấp trí thức thượng lưu hay địa chủ, khoảng mười lăm hay mười sáu tuổi, không cao quá hay thấp quá, cũng không ốm quá hay mập quá, không đen quá hay trắng quá: thế có phải sắc đẹp và sự đáng yêu của cô đạt đến cao điểm không?"

"Dạ phải, bạch Thế Tôn."

"Vậy niềm vui và hoan hỉ phát sinh tùy thuộc vào sắc đẹp và sự đáng yêu đó là sự hài lòng trong trường hợp sắc.

"Và sự nguy hiểm trong trường hợp sắc là gì?

"Sau này người ta có thể nhìn thấy rằng người phụ nữ đó nay ở lứa tuổi tám mươi, chín mươi hay một trăm, già nua, cong như mái nhà cũ kỷ, đi lom khom cần gậy để chống đỡ, yếu đuối, tuổi trẻ không còn, răng rụng, tóc bạc và lơ thơ, hói, nhăn nheo, với chân tay đốm đồi mồi: các ông nghĩ thế nào về điều này, này các tỳ khưu, có phải vẻ đẹp và sự đáng yêu trước kia của bà đã biến mất và sự nguy hiểm trở nên hiển nhiên?"

"Dạ phải, bac̣h Thế Tôn."

"Này các tỳ khưu, đây là nguy hiểm trong trường hợp sắc."

— M. 13, "Kinh Đại Khổ Uẩn," chuyển dịch: HT. Ñanamoli

Ghi chú: Phụ nữ đọc bài này nên đổi giới tính của người được đề cập ở trên.

§10 Reflections on her body by the former beautiful courtesan, later the arahat nun Ambapali  

Black was my hair, the color of bees, curled at the ends;
with aging it's likened to fibers of hemp —
not other than this are the Truth-speaker's[2] words.

Fragrant was my hair, full of flowers like a perfume box;
with aging it possesses the smell of dog's fur —
not other than this are the Truth-speaker's words.

Thick as a well-planted grove and comely with comb, pin and parting;
with aging it's thin here and there —
not other than this are the Truth-speaker's words.

Braided well, adorned, black masses beautified by gold;
with aging has the head become quite bald —
not other than this are the Truth-speaker's words.

My eyebrows then as though by artists were well-drawn;
with aging they are wrinkled, hanging down —
not other than this are the Truth-speaker's words.

Flashing and brilliant as jewels, black and long were my eyes;
by aging overwhelmed no longer beautiful —
not other than this are the Truth-speaker's words.

Long, beautiful and delicate my nose in the bloom of my youth;
with aging has become quite pendulous —
not other than this are the Truth-speaker's words.

Fair my earlobes, formerly as bracelets well and truly crafted;
with aging they are wrinkled, hanging down —
not other than this are the Truth-speaker's words.

Then were my teeth beautiful, the hue of plantain buds;
with aging they have broken and yellowed —
not other than this are the Truth-speaker's words.

Sweet was my singing voice as cuckoo in the forest grove;
with aging it is broken now and then —
not other than this are the Truth-speaker's words.

Formerly my throat was beautiful, polished like a conch;
with aging decayed it is and twisted —
not other than this are the Truth-speaker's words.

Round as door-bars then were my arms beautiful;
with aging they are weak as the trumpet-creeper —
not other than this are the Truth-speaker's words.

Adorned with gold and delicate signet rings my hands were beautiful;
with aging just like knotted and twisted roots —
not other than this are the Truth-speaker's words.

Full and round were my breasts, close together, lovely and lofty;
pendulous they hang now as water-skins without water —
not other than this are the Truth-speaker's words.

Fair was my body then as a well-burnished tablet of gold;
now it is covered all over with very fine wrinkles —
not other than this are the Truth-speaker's words.

Lovely both my thighs as the trunks of elephants;
with aging they are as a bamboo's stems —
not other than this are the Truth-speaker's words.

Fair were my legs adorned with fine golden anklets;
with aging stick-like as the sesame —
not other than this are the Truth-speaker's words.

As though filled out with down my feet so lovely;
with aging they are cracked and wrinkled —
not other than this are the Truth-speaker's words.

So was this congeries; decrepit now, abode of dukkha;
old house with its plaster falling off —
not other than this are the Truth-speaker's words.

— Verses of the Elder Bhikkhunis 252-270

§10 Ni Sư Ambapali, trước kia là kỹ nữ xinh đẹp, sau tu đắc quả vị A-la-hán, quán chiếu thân  

Tóc tôi đen màu ong, cuộn tròn ở đầu;
với tuổi già nó giống như sợi gai dầu —
không khác gì lời Người nói về Chân Lý.[2]

Tóc tôi thơm, ngào ngạt như lọ nước hoa;
với tuổi già nó có mùi lông chó —
không khác gì lời Người nói về Chân Lý.

Dầy như khu rừng được vun trồng và chải rẻ gọn gàng với lược và kim gài;
với tuổi già nó lơ thơ tơi tả —
không khác gì lời Người nói về Chân Lý.

Bện đẹp đẽ, khối đen tuyền được tô điểm bằng vàng;
với tuổi già đầu trở nên hói hoàn toàn —
không khác gì lời Người nói về Chân Lý.

Lông mày tôi thuở ấy như tô điểm bởi nghệ sĩ;
với tuổi già nó nhăn nheo, ủ rũ —
không khác gì lời Người nói về Chân Lý.

Mắt tôi đen dài, lóng lánh như nữ trang;
tuổi già che lấp diễm kiều còn đâu —
không khác gì lời Người nói về Chân Lý.

Mũi tôi dài, đẹp và thanh tao thuở thanh xuân;
với tuổi già trở nên khoằm xuống —
không khác gì lời Người nói về Chân Lý.

Vành tai tôi đẹp như vòng xuyến trạm trổ khéo léo;
với tuổi già nó ủ rũ, nhăn nheo —
không khác gì lời Người nói về Chân Lý.

Thuở ấy răng tôi xinh đẹp, trắng đều búp chuối;
với tuổi già chúng rụng mom mem, vàng ố —
không khác gì lời Người nói về Chân Lý.

Giọng tôi thánh thót ngọt ngào như chim hót trong rừng;
với tuổi già nó đứt đoạn ngập ngừng —
không khác gì lời Người nói về Chân Lý.

Trước kia cổ họng tôi đẹp, bóng láng như ốc xà cừ;
với tuổi già nó suy đồi, méo mó —
không khác gì lời Người nói về Chân Lý.

Thuở ấy cánh tay tôi đẹp, tròn rắn chắc như thanh cửa
với tuổi già nó yếu đuối như cây leo —
không khác gì lời Người nói về Chân Lý.

Bàn tay tôi vốn mỹ miều, tô điểm với nhẩn vàng chạm trổ;
với tuổi già giống như rễ xoắn nút —
không khác gì lời Người nói về Chân Lý.

Ngực tôi vốn đầy tròn, săn chắc, đẹp đẽ;
bây giờ chúng lủng lẳng như túi da không nước —
không khác gì lời Người nói về Chân Lý.

Thuở ấy thân hình tôi mỹ miều như thỏi vàng được đánh bóng;
bây giờ nó đầy những nếp nhăn nheo —
không khác gì lời Người nói về Chân Lý.

Đùi tôi đẹp đẽ như vòi voi;
với tuổi già chúng như thân tre —
không khác gì lời Người nói về Chân Lý.

Chân tôi được tô điểm với vòng vàng xinh xắn;
với tuổi già lốm đốm như hạt mè —
không khác gì lời Người nói về Chân Lý.

Bàn chân tôi tròn mềm mại như độn lông ngỗng;
với tuổi già chúng nứt nẻ nhăn nheo —
không khác gì lời Người nói về Chân Lý.

Tấm thân này vốn như thế; bây giờ già yếu hom hem, trụ xứ của khổ;
căn nhà cũ với tường vôi rơi rụng —
không khác gì lời Người nói về Chân Lý.

— Thơ của Trưởng Lão Tỳ-khưu-ni 252-270

§11

"Come, bhikkhus, abide contemplating ugliness in the body, perceiving repulsiveness in nutriment, perceiving disenchantment with all the world, contemplating impermanence in all formations."

— M. 50, trans. Ven. Ñanamoli

Directly counter goes this to the world's way which is: to see beauty in the body or at any rate disguise the ugliness, to delight in food both physical and mental, to be enchanted with (the beauty of) the world (and forget the other side), and to regard mental formations as a basis for a permanent self or soul.

§11

Này các tỳ khưu, hảy quán niệm về sự xấu trong thân, cảm nhận sự gớm ghiếc trong thức ăn dinh dưỡng, tỉnh ngộ với mọi thứ trên thế giới, quán niệm vô thường trong mọi sự hình thành."

— M. 50, chuyển dịch: HT. Ñanamoli

Điều này trực tiếp chống lại cách nhìn của thế giới: nhìn thấy sự đẹp đẽ trong thân hay bất cứ giả dạng nào của sự xấu, ưa thích thức ăn về cả khía cạnh vật chất lẫn tinh thần, mê muội với (vẻ đẹp của) thế giới (và quên đi mặt bên kia), và xem các sự hình thành như là nền tảng cho tự ngã hay linh hồn trường cửu.

§12

Rohitassa, a deva:

"Lord, the world's end where one is neither born nor ages nor dies, nor passes away nor reappears: is it possible to know or see or reach that by traveling there?"

The Buddha:

"Friend, that there is a world's end where one is neither born nor ages nor dies, nor passes away nor reappears, which is to be known or seen or reached by traveling there — that I do not say. Yet I do not say that there is ending of suffering without reaching the world's end. Rather it is in this fathom-long carcass with its perceptions and its mind that I describe the world, the origin of the world, the cessation of the world, and the way leading to the cessation of the world."

— S. II. 36, A. IV. 46, trans, Ven. Ñanamoli

§12

Rohitassa, vị thần:

"Bạch Thế Tôn, sự kết thúc của thế giới là nơi một người không sinh ra hay già hay chết, hay qua đời hay tái xuất hiện, có thể biết hay thấy hay đạt tới bằng cách du hành đến đó không?"

Đức Phật:

"Này bạn, rằng có sự kết thúc của thế giới nơi mà một người không sinh ra hay già hay chết, hay qua đời hay tái xuất hiện, được biết hay thấy hay đạt tới bằng cách du hành đến đó — điều đó tôi không nói. Nhưng tôi không nói rằng có sự chấm dứt của khổ mà không đi đến sự kết thúc của thế giới. Thay vào đó là ở trong xác thịt dài mét tám này với ý thức và tâm trí của nó mà tôi diễn tả thế giới, nguồn gốc của thế giới, sự chấm dứt của thế giới, và con đường dẫn đến sự chấm dứt của thế giới."

— S. II. 36, A. IV. 46, chuyển dịch: HT. Ñanamoli

§13

The current rash of so much porn has the effects we see, increased and open expression of greed and lust. The meditation techniques which can cure these diseases are all the different aspects of mindfulness concerned with the body — for they cut the body down to size, without harming it, while emphasizing the importance of the mind.

§13

Dịch khiêu dâm lan tràn hiện nay dẫn đến hậu quả mà chúng ta thấy là, gia tăng và công khai biểu lộ lòng tham và dục vọng. Các kỹ thuật thiền định có thể chữa trị những căn bệnh này đều là các khía cạnh khác nhau của chánh niệm liên quan đến thân — vì chúng thu hẹp thân lại mà không làm hại nó, đồng thời nhấn mạnh sự quan trọng của tâm.

§14

Contemplation of the body's unattractiveness is not a popular meditation. People are happy to try to rid themselves of anger and hatred because they are painful. This can be done by the well-known meditations developing loving-kindness (metta). But meditating upon the nature of this body dulls the appetites rooted in greed — and greed is often associated with pleasure. And isn't pleasure what this life's all about?

Safely bagged by Mara — Death and Lord of the sensual realm!

§14

Quán niệm sự không hấp dẫn của thân không phải là một chủ đề thiền phổ thông. Người ta vui sướng khi cố gắng loại bỏ sân hận vì chúng gây đau khổ. Điều này có thể thực hiện bằng phương pháp thiền định nổi tiếng là tu tập tâm từ (metta). Nhưng thiền quán về bản tánh của thân làm giảm những thèm muốn bắt nguồn từ tham lam — và tham lam thường kết hợp với niềm vui. Và không phải niềm vui là tất cả của cuộc sống này sao?

Được bỏ bao cẩn thận bởi Mara — Tử thần và Chúa tể của địa hạt khoái cảm!

§15

When the body is not washed it attracts flies and vermin which feed on it. When the mind is not purified but is full of lust, hate and delusion what does it attract...?

§15

Khi thân không được tắm rửa nó thu hút ruồi và bọ chét bám vào ăn. Khi tâm không được thanh tịnh mà chỉ đầy những tham, sân và si thì nó thu hút cái gì...?

§16

The body is so near, yet like an unexplored continent. Large areas in it are a blank. While this is so, greed, lust and craving dwell safely in the jungles of ignorance.

§16

Thân thì rất gần, nhưng giống như một lục địa chưa được khám phá. Phần lớn là đất hoang vu. Khi nó là như vậy, tham lam, thèm khát và ham muốn cư ngụ an toàn trong rừng vô minh.

§17

People's attitudes to the body are liable to swing from the extreme of indulging the desires connected with the body, to the other extreme of mortifying it.

The Middle Way of mindfulness regarding the body is unknown to them.

§17

Thái độ của người ta đối với thân có khuynh hướng nghiêng từ cực đoan của việc lạm dụng những ham muốn liên quan với thân, đến cực đoan của việc hành hạ nó.

Trung Đạo của quán niệm về thân không được họ biết đến.

§18

When desires connected with bodily pleasures can be indulged, which means that greed rules the mind, aversion only arises if one's aims are thwarted; but when a person has undertaken some method of self-discipline not guided by wisdom (pañña), then suppressed desires find their outlet not only by aversion but also by bodily mortification. As though the body was responsible! So, having no wisdom, people subject their bodies to "disciplines" and rigors of various kinds in order, they think, to control strong desires. Then aversion, that is self-hatred in a more or less subtle form, reigns supreme and sufferings are increased. Desires can never be understood in this way, only suppressed. The only way to understand desires is through mindfulness, and the various exercises on mindfulness of the body are for this purpose.

§18

Khi ham muốn cùng với dục lạc có thể bị lạm dụng, nghĩa là tham lam cai trị tâm, ác cảm chỉ phát sinh nếu mục đích của người ta bị cản trở; nhưng khi một người thực hiện một số phương pháp kỷ luật tự giác không được hướng dẫn bởi trí tuệ (pañña) thì những ham muốn bị đè nén sẽ tìm thấy lối thoát không chỉ bằng ác cảm mà còn bằng việc hành xác. Như thể thân chịu trách nhiệm! Vì vậy, không có trí tuệ, người ta mang thân thể họ vào "kỷ luật" và đủ loại răn đe khắc nghiệt để, họ nghĩ rằng, kiểm soát những ham muốn mảnh liệt. Thì ác cảm, một hình thức vi tế của việc tự ghét mình, thống trị và đau khổ gia tăng. Ham muốn không bao giờ có thể được hiểu theo cách này, chỉ là đè nén. Cách duy nhất để hiểu ham muốn là qua chánh niệm, và một số bài luyện tập về quán niệm thân là vì mục đích này.

§19

There are very few beings who do not suffer from lust, in this world of sensuality at any rate. It is a great sickness of the mind, an epidemic with no beginning, and no end in sight for most beings. Wise men want to be cured of this disease and the Buddha offers for this the medicine of contemplating the unattractive in one's own body. One should not try to see the ugly or foul in others. This could turn to hatred — even if not, it could result in a "sour grapes" attitude to them. Towards others maintain one of the Divine Abidings: loving-kindness, compassion, joy-with-others, or equanimity, but towards one's own selfish desires for pleasure develop the seeing of unattractiveness.

§19

Có rất ít người không bị ham muốn trong thế giới dục lạc này. Nó là căn bệnh lớn nhất của tâm, một bệnh dịch mà không có khởi đầu, và không có kết thúc cho đa số chúng sinh. Người khôn ngoan muốn được chữa khỏi bệnh này và Đức Phật đề nghị phương thuốc chữa bệnh bằng việc quán chiếu sự không hấp dẫn trong thân thể của chính mình. Người ta không nên cố gắng nhìn thấy sự xấu xí hay dơ bẩn của người khác. Điều này có thể biến thành ghét — ngay cả nếu không có, nó có thể dẫn đến thái độ không tốt đối với họ. Đối với người khác, nên duy trì một trong những Thiền định Thánh thiện: từ, bi, hỷ, hay xả, nhưng đối với những ham muốn ích kỷ của chính mình thì hảy tu tập quán chiếu sự không hấp dẫn.

§20

True love, which is cool, unattached metta, and compassion for others' sorrows, do not grow when people are bound up with greed and sensuality.

§20

Tình yêu thật sự, đó là trầm tỉnh, từ bi, và cảm thông nỗi buồn của người khác, không phát triễn khi người ta bị ràng buộc bởi tham lam và dục lạc.

§21

When lust arises in the mind, which leads to more defilements, more burning desires in future, just take a look at this butcher's shop of a body. Anything attractive about red meat? Are white bones specially lovable? Or coiled "innards" desirable? Lust soon disappears when the body is regarded in this way. Repeating this practice, lust becomes weaker and arises less often.

§21

Khi ham muốn phát sinh trong tâm, dẫn đến nhiều phiền não ô trược hơn, nhiều khao khát cháy bỏng hơn trong tương lai, chỉ cần nhìn vào gian hàng thịt. Có gì hấp dẫn với thịt sống? Xương trắng có đáng yêu không? Hay ruột gan phèo phổi có quyến rũ không? Ham muốn sớm biến mất khi thân thể được nhìn theo cách này. Khi lập đi lập lại sự thực hành này, ham muốn yếu dần và không phát sinh thường xuyên.

§22

"...no one who searches earnestly throughout the whole of this fathom-long carcass, starting from the soles of the feet upwards, starting from the top of the hair downwards, and starting from the skin all round, ever sees even the minutest atom of pureness in it such as a pearl or a crystal or a beryl or aloes or sandalwood or saffron or camphor or talcum powder, etc; on the contrary, he sees nothing but various very malodorous offensive drab-looking sorts of impurity consisting of head-hair, body-hairs, and the rest."

— M.R., iii, 4, trans. Ven. Ñanamoli

§22

"...không ai khi hết lòng tìm kiếm khắp thân xác này, bắt đầu từ lòng bàn chân trở lên, từ đỉnh đầu trở xuống, và từ da trở vào, bao giờ nhìn thấy thậm chí một nguyên tử tinh khiết trong nó chẳng hạn như ngọc trai hay thủy tinh hay ngọc thạch hay gỗ đàn hương hay nghệ hay long não hay phấn hoạt thạch, vv.; trái lại, họ không thấy gì ngoài những tạp chất hôi thúi, khó chịu, buồn tẻ, bao gồm tóc, lông, và phần còn lại."

— M.R., iii, 4, chuyển dịch: HT. Ñanamoli

§23 The Thirty-two Parts of the Body  

The practice of this mindfulness attending to the body can begin by reciting this passage:

"In this very body, from the soles of the feet up, from the crown of the head down, surrounded by skin, full of these various mean impurities, he reviews thus:

"There are in this body:

Kesa head-hair
Loma body-hair
Nakha nails
Danta teeth
Taco skin
Mamsam flesh
Naharu sinews
Atthi bones
Atthimiñjam bone-marrow
Vakkam kidneys
Hadayam heart
Yakanam liver
Kilomakam membranes
Pihakam spleen
Papphasam lungs
Antam gut
Antagunam gut
Udariyam gorge
Karisam dung
Pittam bile
Semham phlegm
Pubbo pus
Lohitam blood
Sedo sweat
Medo fat
Assu tears
Vasa grease
Khelo spit
Singhanika snot
Lasika joints
Muttam urine."

(to which is added "brain in the skull" to make up 32 parts).

"In this very body, from the soles of the feet up, from the crown of the head down, surrounded by skin, full of these various mean impurities, he reviews thus."

— M. 10, Satipatthana Sutta, trans. Ven. Ñanamoli

§23 Ba mươi hai Phần của Thân  

Sự thực hành quán niệm thân có thể bắt đầu bằng cách đọc câu này:

"Trong tấm thân này, từ lòng bàn chân lên, từ đỉnh đầu xuống, bao bọc bởi da, đầy những tạp chất bất tịnh, ông ấy quan sát như vậy:

"Trong thân này có:

Kesa tóc
Loma lông
Nakha móng
Danta răng
Taco da
Mamsam thịt
Naharu gân
Atthi xương
Atthimiñjam tủy
Vakkam thận
Hadayam tim
Yakanam gan
Kilomakam màng
Pihakam lá lách
Papphasam phổi
Antam ruột già
Antagunam ruột non
Udariyam cổ họng
Karisam phân
Pittam mật
Semham đờm
Pubbo mủ
Lohitam máu
Sedo mồ hôi
Medo mỡ
Assu nước mắt
Vasa dầu
Khelo nước miếng
Singhanika nước mũi
Lasika khớp xương
Muttam nước tiểu."

(cộng thêm "não trong sọ" là 32 phần).

"Trong tấm thân này, từ lòng bàn chân lên, từ đỉnh đầu xuống, bao bọc bởi da, đầy những tạp chất bất tịnh, ông ấy quan sát như vậy"

— M. 10, Satipatthana Sutta - Kinh Niệm Xứ, chuyển dịch: HT. Ñanamoli

§24

There is no unhealthy self-disgust or aversion here, just seeing what is unattractive as it really is. But in later times some teachers (such as Shantideva in his Bodhicaryavatara)[3] went to extremes in this matter. One must suspect in such a case not the proper dispassion with the body but rather perverted passion. Lust can switch to aversion and hatred quickly.

§24

Không có sự tự ghê tởm không lành mạnh hay chán ghét ở đây, chỉ là nhìn thấy những gì thật sự không hấp dẫn. Nhưng sau đó một số thầy (chẳng hạn như Shantideva trong tác phẩm Bodhicaryavatara của ông)[3] đã trở nên cực đoan trong vấn đề này. Trong trường hợp như vậy người ta phải nghi ngờ rằng đó không phải là sự chán ghét thân thể mà là sự đam mê sai lầm. Ham muốn có thể nhanh chóng chuyển sang chán ghét và hận thù.

§25

It is a remarkable thing that the first five parts on this list — the "person" we see — are all dead! Hair of the head and body lives only at its roots, we see dead hair. Nails that we see are dead nails, the quick is painful and hidden. The teeth, all that is visible, are dead, and their tender living roots we only experience painfully from time to time. Outer skin is dead — horrible if it was not, for it is sensitive enough already. The living skin below is more painful.

So when we get excited about a visual form — someone else's body — we are stimulated by impressions of what has died already. Strange to be excited by what is dead on the outside and dying within! However, the real lure is in our own minds: the thoughts of lust that arise there and embellish the corpse before us.

Apart from this, live bodies and dead ones differ only in degree. Lust fastens only on the body. But loving-kindness and compassion are concerned with the well-being of peoples' minds and bodies.

§25

Điều đáng chú ý là năm phần đầu tiên trong danh sách này — "con người" mà chúng ta nhìn thấy — đều chết! Tóc và lông chỉ sống ở gốc, chúng ta nhìn thấy tóc chết. Móng mà chúng ta nhìn thấy là móng chết, phần gốc móng đau đớn và không thấy được. Răng, các phần nhìn thấy đều chết, và chân răng vẫn sống và chúng ta chỉ thỉnh thoảng cảm thấy đau. Da bên ngoài là da chết — thật khủng khiếp nếu nó không chết, vì nó đủ nhạy cảm rồi. Phần da sống bên dưới thì đau hơn.

Vì vậy khi chúng ta để ý đến một hình dáng — thân hình của người khác — chúng ta bị kích thích bởi những ấn tượng của cái đã chết. Thật lạ lùng khi bị quyến rũ bởi những gì đã chết ở bên ngoài và sắp chết ở bên trong! Tuy nhiên, mồi nhử thật sự là trong tâm của chúng ta: ý tưởng thèm khát phát sinh ở đó và tô điểm xác chết trước chúng ta.

Ngoài điều này, thân sống và thân chết chỉ khác nhau ở mức độ. Ham muốn chỉ bám chặt vào thân. Nhưng tình thương và từ bi thì quan tâm đến hạnh phúc của tâm và thân của mọi người.

§26

When we see a "person," we see just the first five of the 32 parts: head-hair, body-hair, nail, teeth and skin. When head-hair is of certain colors and forms, body-hair present or absent according to sex and race, nails cut and cleaned, teeth white, polished and with none missing, and skin, well washed and unblemished by scars or wrinkles and covering flesh of certain shapes — then with all these conditions fulfilled, desire arises!

What about grey or white hair on the head or body — thin and straggly, nails cracked, dirty and broken, teeth yellow or mostly missing and skin wrinkled and blotchy? Who gets excited?

§26

Khi chúng ta nhìn một "người", chúng ta chỉ nhìn thấy năm phần đầu của 32 phần: tóc, lông, móng, răng và da. Khi tóc có màu sắc và hình dạng nào đó, lông lộ hay ẩn tùy theo giới tính và chủng tộc, móng tay được cắt dũa và sạch, răng trắng bóng và đầy đủ, và da sạch sẽ, mịn màng và bao bọc xác thịt tạo nên một dáng vóc — thì với đầy đủ các điều kiện này, ham muốn phát sinh!

Thế còn tóc bạc hay lông bạc thì sao — mỏng và bù xù, móng tay nứt nẻ và dơ bẩn, răng vàng ố và rụng gần hết, và da nhăn nheo đốm đồi mồi? Ai bị mê mẩn?

§27

Staring at corpses as recommended by commentary-writer Buddhaghosa in his Path of Purification is not really to the point. One has inwardly to stare at this corpse to accomplish anything.

And he gets much too complicated in his descriptions of how to do the actual practice, which does not require a lot of categories and analysis, or things to be learnt by heart. This applies to both the meditation of corpses and to the 32 parts of the body.

In the latter case, just a few parts are needed for repetition and inspection, and even one will be sufficient if one's mind wanders. Simplicity and directness cut out the clutter of thoughts — and clearing those out is the way to get into meditation.

§27

Nhìn chằm chặp vào xác chết như đề nghị của nhà bình luận Buddhaghosa trong tác phẩm Con đường Thanh Tịnh của ông không thật sự thích đáng. Người ta phải nhìn chằm chặp vào trong xác chết này để hoàn thành bất cứ điều gì.

Và ông ấy diễn tả quá phức tạp về việc làm thế nào để thực hành, vốn không đòi hỏi nhiều phân loại và phân tích, hay những gì phải được học hỏi bởi trái tim. Điều này áp dụng cho cả thiền định về xác chết lẫn 32 phần của thân.

Trong trường hợp thứ hai, chỉ vài phần là cần thiết cho việc xem xét nhiều lần, và vẫn đủ cho dù tâm của họ đi lang thang. Sự đơn giản và trực tiếp loại bỏ được những tư tưởng hỗn tạp — và hiểu rõ những thứ đó là cách để đi vào thiền định.

§28 Meditation On Bones  

"Bones in a pattern ordered
Standing end to end
With many joints, whose shaping
On no one does depend;
By sinews held together,
Menaced by aging's threat,
Incognizant, resembling
A wooden marionette."

— M. R., iii 22

§28 Quán Niệm Xương  

"Xương trong một khuôn mẫu sắp đặt
Từ đầu này đến đầu kia
Với nhiều khớp, mà hình dạng
Không phụ thuộc vào ai;
Được kết nối bằng gân,
Bị đe dọa bởi tuổi già,
Vô ý thức, giống như
Con múa rối gỗ."

— M. R., iii 22

§29 Contemplation of the Body: Charnel Ground Meditations  

"Again, a bhikkhu judges this same body as though he were looking at bodily remains thrown on a charnel ground, bones without sinews scattered in all directions: here a hand bone, there a foot bone, there a shin bone, there a thigh bone, there a hip bone, there a back bone, there a rib bone, there a breast bone, there an arm bone, there a shoulder bone, there a neck bone, there a jaw bone, there a tooth bone, there the skull.

"This body too is of such a nature, it will be like that, it is not exempt from that!

"In this way he abides contemplating the body as a body in himself, or he abides contemplating the body as a body externally, or he abides contemplating the body as a body in himself and externally. Or else he abides contemplating in the body its arising factors, or he abides contemplating in the body its vanishing factors, or he abides contemplating in the body its arising and vanishing factors.

"Or else, mindfulness that 'There is a body' is simply established in him to the extent of bare knowledge and remembrance (of it), while he abides independent, not clinging to anything in the world."

— from M. 10, trans. Ven. Ñanamoli

§29 Quán Niệm Thân: Thiền Định về Bãi Tha Ma  

"Lại nữa, tỳ khưu phán xét cái thân này như thể ông ta nhìn vào các mảnh thân thể bị liệng ở bãi tha ma, những khúc xương nằm rải rác khắp nơi: chỗ này là xương tay, chỗ kia là xương chân, chỗ nọ là xương ống quyển, kia là xương đùi, kia là xương hông, đó là xương sống lưng, đó là xương sườn, xương ngực, xương tay, kia là xương vai, xương cổ, nọ là xương hàm, xương răng, kia là xương sọ.

"Thân này cũng cùng một bản chất, nó sẽ giống như vậy, nó không ngoại lệ!

"Theo cách này ông quán niệm thân như cái thân trong ông, hay ông quán niệm thân như cái thân bên ngoài, hay ông quán niệm thân như cái thân bên trong ông và bên ngoài. Hay là ông quán niệm thân qua các yếu tố phát sinh của nó, hay ông quán niệm thân qua các yếu tố biến mất của nó, hay ông quán niệm thân qua các yếu tố phát sinh và biến mất của nó.

"Hay là, biết rằng 'Có cái thân' chỉ đơn giản được thiết lập trong ông vì mục đích của sự hiểu biết căn bản và hồi tưởng (về nó), khi ông trụ trong định một cách độc lập, không bám víu vào bất cứ điều gì trên thế giới."

— M. 10, chuyển dịch: HT. Ñanamoli

§30

When the mind is calm, look into this bony frame to see its emptiness, how the wind blows through it. Who owns these bones?

§30

Khi tâm yên tĩnh, nhìn vào khung xương này để thấy tánh không của nó, gió thổi qua nó như thế nào. Ai sở hữu bộ xương này?

§31

It seems that as the Elder (Maha-tissa) was on his way from Cetiyapabbata to Anuradhapura for alms, a certain daughter-in-law of a clan, who had quarreled with her husband and had set out early from Anuradhapura all dressed up and tricked out like a celestial nymph to go to her relatives' home, saw him on the road, and being low-minded, she laughed a loud laugh. (Wondering) "What is that?", the Elder looked up and finding in the bones of her teeth the perception of foulness, he attained arahatship. But her husband who was going after her saw the Elder and asked "Venerable sir, did you by any chance see a woman?" The Elder told him:

"Whether it was a man or a woman
That went by I noticed not;
But only that on this high road
There goes a group of bones."

The Path of Purification, I, 55

§31

Dường như khi Trưởng Lão (Maha-tissa) đang trên đường đi khất thực từ Cetiyapabbata đến Anuradhapura, nàng dâu của một gia tộc, vì cãi vả với chồng nên đã rời khỏi Anuradhapura từ sáng sớm, chưng diện đẹp đẽ như một tiên nữ, để đi đến nhà người thân của cô, nhìn thấy ông trên đường, và là người thấp kém, cô bật cười khanh khách. (Tự hỏi) "Cái gì vậy?", Trưởng Lão nhìn lên và thấy trong xương răng của cô khái niệm của sự hôi thối, ông đắc quả vị A-la-hán. Nhưng chồng của cô đang truy tìm cô, nhìn thấy Trưởng Lão bèn hỏi "Bạch Tôn giả, ngài có thấy người đàn bà nào trên đường đi không? Trưởng Lão nói với người ấy:

Liệu có một người đàn ông hay đàn bà
Đi qua mà tôi không để ý thấy;
Nhưng ở trên con đường cao này
Chỉ có một bộ xương."

Con Đường Thanh Tịnh, I, 55

§32

A mound of about five feet high of bones, skulls, long bones and vertebrae all mixed up. No knowing where one person's bones ended and another's began. Over them all the hot sun beat down and bleached them, the rains lashed down and washed them; these remains of unknown poor people waiting to be cremated in a Chinese graveyard in Bangkok. A rare and stirring sight in these days of "window-dressing."

§32

Một núi xương cao khoảng mét rưỡi, xương sọ, xương ống, xương sườn chồng chất lẫn lộn. Không biết được xương của người này ngưng ở đâu và xương người kia bắt đầu chỗ nào. Nắng chiếu xuống gay gắt làm bạc màu chúng, mưa tuôn xuống rửa sạch chúng; hài cốt của những người nghèo đang đợi hỏa táng trong một nghĩa địa người Hoa ở Bangkok. Một cảnh tượng hiếm hoi và bắt mắt vào thời buổi mà hàng hóa được trưng bày lộng lẩy trong khung kính cửa hàng ngày nay.

§33

Suppose, that during meditation, this bony frame appeared to one's mind's eye but when one opened the eyes at the meditation's end, the bones of the hand, or other parts, were still visible without their covering of "decent" flesh — how upsetting for oneself — and others if they too could see it. How very odd to be so fearful of a part of one's "own" body!

§33

Giả sử, khi thiền định, khung xương này xuất hiện trong mắt tâm linh của một người nhưng khi họ mở mắt ra vào lúc xuất định, xương tay, hay các loại xương khác, vẫn hiện ra mà không có da thịt che đậy một cách "lịch sư"̣ — người ấy thất vọng biết bao — và cả những người khác nếu họ cũng có thể nhìn thấy. Thật kỳ quặc khi sợ một phần thân thể của "chính mình"!

§34

Once there was a man who had charge of a hothouse in which a great variety of tropical water-lilies and gourds were growing. On this particular afternoon it was cold and raining outside, so that a continuous stream of visitors entered to warm themselves and admire the exotic plants. Having sprayed the plants over with water from a hose the man bent down to turn off the tap. When he raised his eyes he saw, not people, but a procession of skeletons. The vision lasted a moment and was gone. An indication of what sort of meditation he should practice, perhaps?

§34

Ngày xưa có một người trông coi nhà kính trồng nhiều loại cây bông súng và bầu bí vùng nhiệt đới. Vào một buổi chiều trời lạnh và mưa bên ngoài, vì vậy không ngớt khách vãng lai bước vào cho ấm áp và chiêm ngưỡng những cây hiếm lạ. Vừa tưới cây xong nên ông cúi xuống tắt vòi nước. Khi ngẩng đầu lên ông thấy, không phải người, mà là những bộ xương đang đi tới. Hình ảnh chỉ hiện ra chốc lát rồi biến mất. Có lẽ đó là dấu hiệu của loại thiền định mà ông nên thực hành?

§35

"Bhikkhus, the bones of a single person journeying on, wandering on for an eon, would make a cairn, a pile, a mound as great as Mount Vepulla, were there a collector of those bones and if the collection were not destroyed."

— Itivuttaka 17

§35

"Này các tỳ khưu, xương của một người du hành, lang thang hàng bao nhiêu kiếp, có lẽ tạo thành bia mộ, một đống, gò đất lớn như núi Vepulla, nếu có người thu thập những xương đó và nếu bộ sưu tập đó không bị phá hủy."

— Itivuttaka 17

§36

"Just as when a space is enclosed by timber and creepers, grass and clay, there comes to be the term 'house,' so too, when a space is enclosed by bones and sinews, flesh and skin, there comes to be the term 'form'."

— M. 28, para 36, trans. Ven. Ñanamoli

§36

"Như một khoảng trống được bao quanh bởi gỗ và dây leo, cỏ và đất sét, thì có từ 'căn nhà', cũng vậy, khi một khoảng trống được bao quanh bởi xương và gân, thịt và da, thì có từ 'thân thể'."

— M. 28, đoạn 36, chuyển dịch: HT. Ñanamoli

§37

Or again, the Ancient Teachers said:
"Nine hundred sinews all round
In this fathom-long carcass found
Whereby its bony frame is bound
As creepers serve a building to compound."

— M. R. again

§37

Lại nữa, bậc Thánh Hiền thời Cổ đại nói:
"Chín trăm gân bao quanh
trong thân xác dài thước tám này
Nơi khung xương của nó được buộc lại
Như dây leo buộc khung nhà vào đất vữa."

— M. R.

§38

Or how about this for the body?
"A tumor where nine holes abide[4]
Wrapped in a coat of clammy hide
And trickling filth on every side,
Polluting the air with stenches far and wide."

— M. R., quoting "Questions of Milinda" 74

§38

Hay là nói về thân như thế này?
"Một khối u có chín lỗ cư ngụ[4]
Bọc trong áo khoác da nhớp nhúa
Và chất dơ nhỏ giọt chung quanh,
Làm ô nhiễm không khí với mùi hôi thoảng bay xa."

— M. R., trích từ "Những câu hỏi của Milinda" 74

§39 An Ulcer  

Monks, it is just like an ulcer that had been growing for many years, having nine gaping wounds, nine lesions, and whatever discharged and oozed out of it would be foul and stinking, it would be loathsome.

"Ulcer," monks, is a name for this body consisting of the four great elements, procreated by mother and father, and built up out of rice and bread. It is subject to impermanence, to breaking up and wearing away, to dissolution and to disintegration, having nine gaping wounds, nine lesions. Whatever discharges and oozes out of it is foul and stinks, it is loathsome.

Therefore, monks, turn away from[5] this body.

— A. IX, 15

§39 Ung Nhọt  

Này các tỳ khưu, giống như ung nhọt mọc từ nhiều năm, có chín lỗ hổng lở loét, chín vết thương, và chất mủ tiết ra dơ bẩn và hôi thối, trông ghê tởm.

"Ung nhọt," này các tỳ khưu, là tên cho cái thân này gồm có bốn yếu tố lớn, tạo ra bởi mẹ và cha, và nuôi dưỡng bởi cơm và bánh mì. Nó có tính vô thường, hư hỏng và hao mòn, phân hủy và tan rã, có chín lỗ hổng lở loét, chín vết thương. Chất mủ tiết ra dơ bẩn và hôi thối, trông ghê tởm.

Vì vậy, này các tỳ khưu, hảy lánh xa cái thân này.[5]

— A. IX, 15

§40

"A man's body is structurally simply a hollow ring. A hollow ring elongated into a hollow cylinder, with the inner portion further lengthened and coiled; and above the upper orifice there bulges a head and between the upper and lower orifices the limbs stick out. The world passes in small portions through the ring, helped in by spoon and gulping, and out by pressure and paper."

— A Thinker's Notebook" by Ven. Ñanamoli, 240, March '56

§40

"Thân người được cấu trúc đơn giản như chiếc vòng rỗng. Chiếc vòng rỗng kéo dài thành ống rỗng, với phần bên trong dài ra và cuộn lại; và trên miệng ống lồi ra cái đầu và ở giữa lỗ hổng bên trên và bên dưới thò ra tay chân. Từng phần của thế giới đi vào thông qua cái vòng, bằng muỗng và nuốt, và ra bằng sức ép và giấy."

— "Sổ Tay của Nhà Tư Tưởng" sáng tác bởi HT. Ñanamoli, 240, tháng Ba năm 1956

§41 Tale  

A woman, infatuated, came to a bhikkhu and stripped off her clothes. The bhikkhu, without batting an eyelid, said —

"Now take off your skin."

§41 Câu Chuyện  

Một phụ nữ, say đắm, đến gặp một tỳ khưu và cởi y phục của cô ra. Vị tỳ khưu, không chớp mắt, nói —

"Bây giờ cởi da của cô ra."

§42

"Beauty is skin-deep" — how true this saying is. Who wants a beautiful body without skin? How fragile is skin, but how strong is lust!

§42

"Sắc đẹp ở ngoài da" — câu nói này đúng làm sao. Ai muốn một thân hình đẹp mà không có da? Da mỏng manh thế nào, nhưng ham muốn mạnh mẽ biết bao!

§43

Another view of the body:

"A carcass daubed with bits of meat
Nine times a hundred when complete,
Where swarming clans of worms[6] compete
To share the rotting midden for their seat."

§43

Một góc nhìn khác về thân:

"Một thân xác hầm vụn nát
Chín lần một trăm khi hoàn tất,
Nơi hàng đàn giun sán [6] cạnh tranh
Dành chỗ đống phân mục nát."

§44

On this subject we have also:

"As to sharing the body with many: This body is shared by many. Firstly, it is shared by the eighty families of worms (parasites). There too, creatures live in dependence on the outer skin, on the inner skin, on the flesh, on the sinews, on the bones, on the marrow, feeding on these things. And there they are born, grow old and die, evacuate and make water; and the body is their maternity home, their hospital, their charnel ground, their privy and their urinal. The body can also be brought to death with the upsetting of these worms. And just as it is shared with the eighty families of worms, so too it is shared by the several hundred internal diseases, as well as by such external causes of death as snakes, scorpions and what not."

The Path of Purification, Chapter VII, 25

§44

Về chủ đề này chúng ta cũng có:

Như chia sẻ thân với chúng sinh: Thân này được chia sẻ bởi chúng sinh. Đầu tiên, nó được chia sẻ bởi tám mươi dòng họ giun sán (ký sinh trùng). Cũng có, những sinh vật sống nhờ vào da bên ngoài, da bên trong, thịt, gân, xương, tủy, ăn những thứ này. Và ở đó chúng được sinh ra, lớn lên, già và chết, bài tiết và làm ra nước; thân là nhà hộ sản của chúng, bệnh viện của chúng, nghĩa địa của chúng, và nhà tiểu tiện của chúng. Thân cũng có thể bị chết vì sự xáo trộn của những con giun này. Và giống như nó chia sẻ với tám mươi dòng họ giun sán, nó cũng được chia sẻ bởi hàng trăm bệnh nội tạng, và bởi những nguyên nhân tử vong bên ngoài chẳng hạn như rắn, bọ cạp và những loại tương tự."

Con Đường Thanh tịnh, Chương VII, 25

§45 The Discourse on Victory  

[The Buddha:]

Walking or standing, sitting, lying down,
He bends it in or stretches it: this is the body's movement.
This body by bones and sinews bound, bedaubed with membrane, flesh,
And covered up with skin — is not seen as it really is.
Filled with guts, with belly filled with liver-lump and bladder,
With heart, with lungs as well, with kidneys and with spleen,
With snot and spittle, and with fat and sweat,
With blood, and oil for the joints, with bile, and grease of the skin;
Then by nine streams the unclean flows forever from it:
Eye-dirt from the eyes, ear-dirt from the ears,
Snot from the nose, now from the mouth bile is spewed,
Now is spewed out phlegm, and from the body sweat and dirt.
And then its hollow head is stuffed with brains;
The fool thinks (all is) beautiful — led on by ignorance.
But when it's lying dead, bloated up and livid blue,
Cast away in the charnel ground, even kin do not care for it.
Dogs eat it and jackals, and wolves and worms,
Crows and vultures eat it, and whatever other creatures are.
Wise the bhikkhu in this world who having heard the Buddha-word,
The body he knows surely and thoroughly, he sees it as it really is,
(Thinking): As this (living body) so that (corpse was once),
As that (corpse is now) so this (body will surely be) —
So for the body, within and without, discard desire.
Such a bhikkhu, wise, discarding desire and lust in this world,
Attains to deathlessness, to peace, Nibbana the unchanging state.
Pampered is this foul, two-footed, fetid thing,
Though filled with various sorts of stench and oozing here and there:
He who with such a body thinks to exalt himself,
Or should despise another — what else is this but blindness?

— Sutta-Nipata, Vijaya Sutta, Verses 193-206

§45 Kinh Thắng Trận  

[Đức Phật:]

Đi hay đứng, ngồi, nằm,
Co tay hay duỗi chân: đây là cử động của thân.
Thân này ràng buộc bởi xương và gân, thoa trét với màng, thịt,
Và được che đậy bằng da — không được nhìn thấy như nó tḥât sự là.
Trong bụng chứa đầy ruột, gan, bọng đái,
Cũng như là tim, phổi, thận và lá lách,
Nước mũi và nước miếng, mỡ và mồ hôi,
Máu, và chất nhờn khớp xương, mật, và da dầu;
Rồi từ chín nguồn suối bất tịnh luôn tuôn chảy:
Chất bẩn từ mắt, chất bẩn từ tai,
Nước mũi từ lỗ mũi, từ miệng khi thì mật phun ra,
Khi thì đờm nhổ ra, và từ thân tiết ra mồ hôi và cáu ghét.
Và rồi đầu rỗng của nó được chứa đầy óc não;
Kẻ ngu nghĩ là (tất cả đều) đẹp — dẫn dắt bởi vô minh.
Nhưng khi nó nằm chết, phồng lên và tím bầm,
Liệng ở bãi tha ma, thậm chí thân nhân không đoái hoài.
Chó đến ăn, sài lang, chó sói và côn trùng,
Quạ và diều hâu đến ăn, còn có các loài thú khác.
Tỳ khưu có trí tuệ trên thế gian, nghe được lời Phật dạy,
Ông hiểu biết thấu đáo về thân, nhìn thấy nó như nó thật sự là,
(Nghĩ rằng): Như (thân đang sống) này (đã có lần là xác chết),
Như (đang là xác chết) vì thế nó (chắc chắn sẽ là thân) —
Vì vậy đối với thân, trong và ngoài, từ bỏ mọi ham muốn.
Một tỳ khưu như thế, có trí tuệ, từ bỏ lòng tham dục trên thế gian này,
Đạt được bất tử, bình an, cõi Niết-bàn thường trú.
Nuông chiều sinh vật hai chân dơ bẩn, hôi thối này,
Dù chứa đầy những chất hôi dơ bẩn và rỉ ra chỗ này chỗ kia:
Người có thân như vậy lại nghĩ cách tâng bốc mình,
Hay khinh thường người khác — nếu không phải mù quáng thì là gì?

— Sutta-Nipata, Vijaya Sutta, Phẩm 193-206

§46 Dhammapada Verses on the Body  

Not long alas — and it will lie
this body here, upon the earth!
Rejected, void of consciousness
and useless as a rotten log.

— v. 41

Having known this body likened unto foam
and understanding thoroughly its nature mirage-like,
cutting down the shafts of Mara, flower-tipped,
unseen one can go beyond the king of death.

— v. 46

See this body beautiful,
a mass of sores, a congeries,
much considered but miserable
where nothing is stable, nothing persists.

All decrepit is this body,
diseases' nest and frail;
this foul mass is broken up —
indeed life ends in death.

— v. 148

These dove-hued bones
scattered in fall
like long white gourds,
what joy in seeing them?

— v. 149

This city is made of bones
plastered with flesh and blood;
in it are stored decay and death
as well as pride, detraction.

— v. 150

Even rich royal chariots decay;
this body also reaches to decay;
but the Dhamma of the good does not decay;
so the good make it known to the calm.

— v. 151

But those who always practice well
bodily mindfulness,
do never what should not be done
and ever do what should be done;
mindful, clearly comprehending,
their pollutions out of existence go.

— v. 293

Well awake and watchful
ever are Gotama's savaka,[7]
who constantly by day and night
are mindful of the body.

— v. 299

§46 Kinh Pháp Cú - Thân  

Chẳng bao lâu — và nó sẽ nằm
Thân này, ở đây, trên mặt đất!
Bị loại bỏ, không có ý thức
và vô dụng như gỗ mục.

— v.41

Biết thân này giống như bọt biển
và hiểu rõ bản tánh như ảo ảnh của nó,
cắt đi lưỡi hái của Mara, được che đậy đẹp đẽ,
không nhìn thấy người ta có thể vượt qua Ma vương.

— v. 46

Nhìn thấy thân thể mỹ miều này,
một khối u nhọt, đống tạp nhạp,
không đáng lưu tâm ngoài đau khổ
nơi không có gì ổn định, không có gì kiên trì.

Suy nhược là tấm thân này,
tổ của bệnh tật và yếu đuối;
khối dơ bẩn này bị tan rã —
quả thật đời sống kết thúc qua cái chết.

v. 148

Những khúc xương sắc bồ câu này
nằm rơi rải rác
như những quả bầu dài trắng,
có gì đáng coi?

— v. 149

Thành phố này làm bằng xương
thoa trét với thịt và máu;
trong đó tích trữ sự phân rã và chết
cũng như là kiêu hãnh và gièm pha.

— v. 150

Ngay cả long xa lộng lẫy cũng phân rã;
thân này cũng đi đến phân rã;
nhưng thiện Pháp không phân rã;
vì vậy người thiện nói cho người điềm tĩnh biết.

— v. 151

Nhưng những ai luôn tu tập tốt
chuyên chú quán niệm thân,
không bao giờ làm điều không nên làm
và luôn làm điều nên làm;
chánh niệm, hiểu biết rõ ràng,
ô nhiễm của họ được loại bỏ.

— v. 293

Luôn tỉnh thức và thận trọng
đệ tử của ngài Cồ Đàm,[7]
liên tục ngày đêm
quán niệm thân.

— v. 299

§47 Two Pairs of Verses on the Contemplation of Beauty and Unattractiveness  

One who lives contemplating beauty,
with faculties of sense unrestrained,
who knows not moderation in his food,
and who is indolent, of little effort;
him indeed does Mara overthrow
as wind a tree of little strength.

One who lives contemplating foulness,
with faculties of sense well-restrained,
who does know moderation in his food,
and who has faith, of roused-up effort;
him indeed does Mara never overthrow
as wind does not the rocky mount.

— vv. 7-8

One who contemplates the beautiful,
of agitating thoughts and active lust,
craving in this person constantly increases;
that one indeed makes strong his bonds.

But who delights in calming thoughts,
he develops foulness ever mindfully,
he indeed will make an end;
that one will sever Mara's bonds.

— vv. 349-350

§47 Hai Cặp Thơ về Quán Niệm Vẻ Đẹp và Sự Không Hấp Dẫn  

Một người sống quán niệm vẻ đẹp,
với các giác quan buông lung,
không biết tiết chế việc ăn uống,
và lười biếng, ít nỗ lực;
ông quả nhiên bị Mara đánh gục
như gió quất cây ngã dễ dàng.

Một người sống quán niệm sự dơ bẩn,
với các giác quan được kiểm soát,
biết tiết chế việc ăn uống,
và có niềm tin, phấn đấu nỗ lực;
ông quả nhiên không bao giờ bị Mara đánh gục
như gió không lay động núi đá.

— vv.7-8

Một người sống quán niệm vẻ đẹp,
của những suy nghĩ kích động và dục vọng,
ham muốn trong người này liên tục gia tăng;
người đó quả nhiên tạo ra những ràng buộc mạnh mẽ.

Nhưng người ưa thích những suy nghĩ bình yên,
ông không ngừng quán niệm sự dơ bẩn,
ông quả nhiên sẽ đi đến kết thúc;
người đó sẽ cắt đứt những ràng buộc của Mara.

— vv. 349-350

§48 Verses of the Arahat Kappa Thera  

Full of many kinds of filth,
producer of much excrement,
as ripe as a midden-pool,
a tumor, a great wound
filled up with pus and blood,
as though sunk in a cesspit
the body oozes water
and ever filth outflows.
Tied together by sixty tendons
and plastered with plaster of flesh,
tightly jacketed with skin —
with no value, this body of filth.
A connected skeleton of bones
bound together with sinew cords
producing various postures
by conditioned things combined.
Set out with certainty of death
and near to King Mortality
but having rejected it[8] just here
a man goes as he likes.
Covered over with ignorance
and tied with the fourfold tie,
enmeshed in the net of tendencies
this body sinks in the flood.

Hitched to the five hindrances
and so, affected by thoughts,
accompanied by craving's root
and wrapped by delusion's wrappings —
this body continues on,
made to go by kamma's means,
its existence in the end destroyed,
all sorts of beings perish.
Those ordinary people, blinded fools,
thinking their bodies belong to them
fill up the fearful cemeteries
and seize repeated birth.
Those who abandon[9] this body
as one would a dung-smeared snake,
having vomited being's root,
will, taintless, Nibbana attain.

— Verses of the Elder Bhikkhus 567-576

§48 Thơ của A-la-hán Kappa Thera  

Đầy đủ các loại rác rưởi,
cội nguồn của những chất bài tiết,
chín muồi như hố phân bón,
một khối u, một vết thương lớn
chứa đầy máu mủ,
như chìm trong hố phân
thân tiết ra nước
và cả dòng chất bẩn.
Được bó lại bởi sáu mươi gân
và thoa trét bằng thịt,
bọc chặt bằng da —
không có giá trị, tấm thân dơ bẩn này.
Một bộ xương xếp đặt gọn ghẽ
cột lại với nhau bằng dây gân
tạo ra nhiều tư thế khác nhau
bởi kết hợp của những thứ có điều kiện.
Đặt ra một cách chắc chắn với cái chết
và gần với Ma Vương
nhưng đã từ chối nó [8] ngay tại đây
một người đi theo ý thích.
Che phủ bởi vô minh
và ràng buộc với bốn lần cột,
vướng trong mạng lưới xu hướng
thân này chìm trong cơn lũ.

Cột vào năm chướng ngại
vì vậy, bị ảnh hưởng bởi những suy nghĩ,
cùng với rễ ham muốn
và bọc bởi lớp vỏ của ảo tưởng —
thân này tiếp tục đi,
làm cho đi bằng phương tiện của nghiệp,
sự tồn tại của nó cuối cùng bị hủy diệt,
chịu đủ loại hư hoại.
Những người bình thường, mù quáng đó,
nghĩ rằng thân thể thuộc về họ
lấp đầy những nghĩa trang đáng sợ
và bám lấy tái sinh.
Những người từ bỏ [9] thân này
như người ta liệng bỏ con rắn dính đầy phân,
nôn ra cội rễ của sự sống,
sẽ, không ô nhiễm, đạt được Niết bàn.

— Thơ của Trưởng Lão Tỳ khưu 567-576

§49 Verses of the Arahat Nandaka Thera  

Shame on it then, full of stinks
and oozing, Mara's partisan,[10]
in your body nine streams are
leaking out continually.
Do not conceive of these filled-up things,
they are not praised by Tathagatas
who desire not even the heavens,
not to speak of the human world.
But those who are foolish, stupid,
ill-counseled, dullness-shrouded,
such do indeed desire it
thrown down by Mara's snare.
Those in whom desire and hate
and ignorance are discarded —
such do not desire it,
severed their ropes — unbound!

— Verses of the Elder Bhikkhus 279-282

§49 Thơ của A-la-hán Nandaka Thera  

Xấu hổ thay, đầy hôi thối
và rò rỉ, đồng đảng của Mara,[10]
chín dòng suối trong thân ông
liên tục chảy ra.
Đừng nghĩ về những thứ chồng chất này,
chúng không được tán dương bởi Như Lai
người không ham muốn cả cõi trời
nói chi đến cõi người.
Nhưng những người khờ khạo, ngu ngốc,
bị hướng dẫn sai, che phủ bởi u mê,
họ quả thật ham muốn nó
tung ra bởi lưới bẫy của Mara.
Những người mà lòng ham muốn và sân hận
và vô minh được loại bỏ —
họ không ham muốn nó,
cắt đứt dây trói — không bị ràng buộc!

— Thơ của Trưởng Lão Tỳ khưu 279-282

§50 Verses of the Arahat Sabbakama Thera  

This foul two-footed thing,
full of many kinds of filth
flowing out from here and there,
ill-smelling — dearly loved it is.
As by a trap the wary deer,
as by the hook the fish,
just as the monkey's caught with pitch
so ordinary men are trapped.
Forms, sounds, smells and tastes
and tangibles, delighting the mind,
these are the five cords of desire
seen in a woman's form.[11]
Those who pursue them —
ordinary men with minds enflamed —
fill up the fearful cemeteries
and heap up further birth.
But one who does avoid it
as the feet a serpent's head,
mindful, such a one transcends
clinging to this world.
Seeing the danger of sensual desires,
renunciation seeing secure,
escaped from all desires[12]
to exhaustion of taints attained.

— Verses of the Elder Bhikkhus 453-458

§50 Thơ của A-la-hán Sabbakama Thera  

Loài hai chân hôi thối này,
chứa đủ loại rác rưởi
chảy ra từ đây và đó,
tỏa mùi hôi — nó được yêu thương.
Như cái bẫy con nai cảnh giác,
như cái móc câu cá,
như con khỉ bị bắt bằng lời dẫn dụ
người bình thường cũng bị mắc bẫy như vậy.
Hình dáng, âm thanh, mùi, vị
và cảm giác va chạm, khiến tâm ưa thích
đây là năm dây cột của ham muốn
nhìn thấy trong thân hình của đàn bà.[11]
Những ai theo đuổi chúng —
đàn ông bình thường với tâm bốc lửa —
chứa đầy những nghĩa trang đáng sợ
và chồng chất thêm tái sinh.
Nhưng ai tránh được nó
như chân tránh đạp đầu rắn,
chánh niệm, người như thế vượt qua
niềm bám víu thế gian này.
Nhìn thấy nguy hiểm của ham muốn dục lạc,
nhìn thấy an toàn nên từ bỏ,
thoát khỏi mọi ham muốn[12]
đạt được thanh tịnh hết ô nhiễm.

— Thơ của Trưởng Lão Tỳ khưu Bhikkhus 453-458

Notes  

1.
Or "habit of following the body, being dependent on the body."
2.
The Truth-speaker (who speaks the truth of impermanence) is the Buddha.
3.
Many verses in Chapter VIII of that work are certainly "sick."
4.
(Two) eyes, (two) ears, (two) nostrils, mouth, urinary duct and anus.
5.
Pali: nibbindatha. This can also be rendered "be weary of" or "be averse to" or "be disgusted with." But none of these renderings conveys the flavor of very subtle Dhamma-practice; they are too gross and convey negative or defiled states of mind. We should note that the Buddha is speaking to monks — that is, to those who practice Dhamma full-time, and if we knew the circumstances in which these words were spoken, we should probably find that the monks addressed needed such a "severe" exhortation in order to overcome greed or attachment.
6.
"Worms" means not only the parasitic worms, but all the other parasites, visible or of microscopic size, which make this body their home.
7.
Disciples, literally "listeners."
8.
As "me" or "mine."
9.
Abandon attachment to it.
10.
Why is the body called "Mara's partisan" (lit: on the side of Mara)? Because the body is subject to all sorts of pain, dismemberment, death, as well as unwholesome desires connected with the body — such as to overeat or for sex, which are obstacles to purity of mind, riddance of defilements, and enlightenment.
11.
Women reading this must substitute "a man's form."
12.
This thera's name means "all desires."

Abbreviations:

M ...... Majjhima-nikaya
A ...... Anguttara-nikaya
S ...... Samyutta-nikaya
M.R. ... Minor Readings (and Illustrator) — Khuddaka-patha

Chú Thích  

1.
Hay là "thói quen đi theo thân, phụ thuộc vào thân."
2.
Người nói về Chân Lý (nói về chân lý vô thường) là Đức Phật.
3.
Nhiều câu trong chương VIII của tác phẩm đó thật sự "bệnh hoạn."
4.
(Hai) mắt, (hai) tai, (hai) lỗ mũi, miệng, ống dẫn tiểu và hậu môn.
5.
Pali: nibbindatha. Từ này cũng có thể mang ý nghĩa "mệt mỏi" hay "không thích" hay "ghê tởm." Nhưng các ý nghĩa này không truyền đạt được hương vị của Pháp-hành vốn rất tinh tế; chúng quá thô thiển và thể hiện những trạng thái tiêu cực hay ô nhiễm của tâm. Chúng ta nên lưu ý rằng Đức Phật đang nói chuyện với chư tăng — nghĩa là, với những người thực hành Pháp cả ngày, và nếu chúng ta biết hoàn cảnh khi những lời này được nói ra, chúng ta có lẽ thấy rằng chư tăng cần sự cổ xúy nghiêm trọng để vượt qua tham lam hay luyến ái.
6.
"Giun" không phải chỉ là loài giun ký sinh, mà là tất cả các loài ký sinh trùng, nhìn thấy bằng mắt hay kính hiển vi, chọn thân này làm nhà của chúng.
7.
Đệ tử, nghĩa đen là "người nghe."
8.
Như là "tôi" hay "của tôi."
9.
Từ bỏ luyến ái nó.
10.
Tại sao thân được gọi là "đồng đảng của Mara" (nghĩa đen: cùng phe với Mara)? Bởi vì thân chịu đựng đủ loại đau đớn, phân chia, chết, cũng như là những ham muốn không lành mạnh liên quan đến thân — chẳng hạn như ăn quá độ hay tình dục, là trở ngại cho việc thanh tịnh tâm, loại bỏ ô nhiễm, và giác ngộ.
11.
Phụ nữ đọc đoạn này nên hiểu là "thân hình của đàn ông."
12.
Tên của trưởng lão này có nghĩa là "mọi ham muốn."

Các Chữ Viết Tắt:

M ...... Majjhima-nikaya (Trung Bộ Kinh)
A ...... Anguttara-nikaya (Tăng Chi Bộ Kinh)
S ...... Samyutta-nikaya (Tương Ưng Bộ Kinh)
M.R. ... Tiểu Bộ Kinh (và Minh họa) — Khuddaka-patha

 Chủ biên và điều hành: TT Thích Giác Đẳng.

  Những đóng góp dịch thuật xin gửi về TT Thích Giác Đẳng tại phamdang0308@gmail.com
Cập nhập ngày: Thứ Hai 06-25-2018

Kỹ thuật trình bày: Minh Hạnh & Thiện Pháp

 | Trang Kế| trở về đầu trang | Home page |