Than Ôi, Các Hành Là Vô Thường - Anicca Vata Sankhara
 
by Bhikkhu Bodhi © 2005  
 
Việt dịch: Minh Hạnh

Anicca vata sankhara — "Impermanent, alas, are all formations!" — is the phrase used in Theravada Buddhist lands to announce the death of a loved one, but I have not quoted this line here in order to begin an obituary. I do so simply to introduce the subject of this essay, which is the word sankhara itself. Sometimes a single Pali word has such rich implications that merely to sit down and draw them out can shed as much light on the Buddha's teaching as a long expository article. This is indeed the case with the word sankhara. The word stands squarely at the heart of the Dhamma, and to trace its various strands of meaning is to get a glimpse into the Buddha's own vision of reality.

Anicca vata sankhara - "Than ôi, các Hành là Vô thường!" - là cụm từ được những người Phật tử Phật giáo Nguyên Thủy Theravada than vãn về cái chết của một người thân yêu, nhưng tôi không trích dẫn dòng này ở đây để bắt đầu một bản cáo phó.Tôi chỉ muốn giới thiệu chủ đề của bài viết này, đó là chính từ Hành (sankhara).Đôi khi một từ Pali đơn lẻ lại có ý nghĩa phong phú như vậy chỉ cần ngồi xuống và viết chúng ra để có thể làm sáng tỏ giáo lý của Đức Phật như là một bài viết dài. Đó thực sự là trường hợp với chữ Hành (sankhara). Chữ này có vị trí trực tiếp vào tâm của Giáo Pháp, và để tìm ra những ý nghĩa khác nhau của nó để có cái nhìn thoáng qua về tầm nhìn của chính Đức Phật về thực tại.

However, though it is impossible to discover an exact English equivalent for sankhara, by exploring its actual usage we can still gain insight into how the word functions in the "thought world" of the Dhamma. In the suttas the word occurs in three major doctrinal contexts. One is in the twelvefold formula of dependent origination (paticca-samuppada), where the sankharas are the second link in the series. They are said to be conditioned by ignorance and to function as a condition for consciousness. Putting together statements from various suttas, we can see that the sankharas are the kammically active volitions responsible for generating rebirth and thus for sustaining the onward movement of samsara, the round of birth and death. In this context sankhara is virtually synonymous with kamma, a word to which it is etymologically akin.

Mặc dù khó có thể kiếm được từ tiếng Anh chính xác tương đương với chữ Hành (sankhara), tuy nhiên, bằng cách khảo sát tỉ mỉ cách sử dụng thực tế của nó, chúng ta có thể vẫn đạt tới sự hiểu biết sâu sắc về cách thức của từ trong "tư tưởng thế gian" của Giáo Pháp. Trong Tam Tạng kinh điển, chữ này được thấy trong ba lý thuyết mạch văn chính.Một là theo lý thuyết Thập Nhị Nhân Duyên (paticca-samuppada), nơi mà Hành (sankharas) là mấu chốt thứ hai trong chuỗi. Chúng được cho là tạo điều kiện bởi sự Vô Minh và như là hành động duyên sinh Thức. Tổng hợp các lời giải thích từ các bài kinh điển khác nhau, chúng ta có thể thấy rằng Hành (Sankharas) là những hành động tạo ra nghiệp có sức lực quyết đoán trách nhiệm tạo ra sự tái sinh và do đó duy trì sự chuyển động trở lại của luân hồi, vòng sinh và tử. Trong bối cảnh này, Hành (sankhara) gần như đồng nghĩa với nghiệp, một chữ mà nó tương đương với từ nguyên của một từ (etymologically).

The suttas distinguish the sankharas active in dependent origination into three types: bodily, verbal, and mental. Again, the sankharas are divided into the meritorious, demeritorious, and "imperturbable," i.e., the volitions present in the four formless meditations. When ignorance and craving underlie our stream of consciousness, our volitional actions of body, speech, and mind become forces with the capacity to produce results, and of the results they produce the most significant is the renewal of the stream of consciousness following death. It is the sankharas, propped up by ignorance and fueled by craving, that drive the stream of consciousness onward to a new mode of rebirth, and exactly where consciousness becomes established is determined by the kammic character of the sankharas. If one engages in meritorious deeds, the sankharas or volitional formations will propel consciousness toward a happy sphere of rebirth. If one engages in demeritorious deeds, the sankharas will propel consciousness toward a miserable rebirth. And if one masters the formless meditations, these "imperturbable" sankharas will propel consciousness toward rebirth in the formless realms.

Trong Tam Tạng kinh điển phân biệt hành động của Hành (Sankharas) trong sự phụ thuộc vào ba cơ sở: thân, khẩu và ý. Một lần nữa, Hành(Sankharas) được chia thành những gì làm "Có công đức", "Không có công đức", và "Vô Động" v.v..., nghĩa là những ý muốn hiện hữu trong bốn cảnh thiền định vô sắc. Khi vô minh và tham dục nằm dưới dòng tâm thức, hành động đưa ra quyết định của chúng ta về thân, khẩu và ý trở thành lực lượng với khả năng tạo ra quả,và quả mà chúng tạo ra là đáng kể là sự đổi mới của dòng tâm thức sau khi chết. Chính những Hành (Sankharas), làm chỗ dựa cho sự sự vô minh với sự thúc đẩy bởi tham dục, điều này thúc đẩy dòng tâm thức trở về một qui trình mới của sự tái sanh, và chính xác nơi ý thức được thành lập được xác định bởi đặc tính nghiệp của những Hành (sankharas). Nếu một người tạo các công việc phước đức, các Hành (Sankharas) dẫn ý thức đến với một thế giới hạnh phúc của sự tái sinh. Nếu một người tham gia vào các việc bất thiện, các Hành (Sankharas) sẽ dẫn ý thức đến một cuộc tái sinh khốn khổ. Và nếu một người tu tập thiền định vô sắc, những thiền định vô định này, các Hành (sankhàras) sẽ dẫn ý thức tái sanh vào cõi vô sắc

A second major domain where the word sankharas applies is among the five aggregates. The fourth aggregate is the sankhara-khandha, the aggregate of volitional formations. The texts define the sankhara-khandha as the six classes of volition (cha cetanakaya): volition regarding forms, sounds, smells, tastes, tactile objects, and ideas. Though these sankharas correspond closely to those in the formula of dependent origination, the two are not in all respects the same, for the sankhara-khandha has a wider range. The aggregate of volitional formations comprises all kinds of volition. It includes not merely those that are kammically potent, but also those that are kammic results and those that are kammically inoperative. In the later Pali literature the sankhara-khandha becomes an umbrella category for all the factors of mind except feeling and perception, which are assigned to aggregates of their own. Thus the sankhara-khandha comes to include such ethically variable factors as contact, attention, thought, and energy; such wholesome factors as generosity, kindness, and wisdom; and such unwholesome factors as greed, hatred, and delusion. Since all these factors arise in conjunction with volition and participate in volitional activity, the early Buddhist teachers decided that the most fitting place to assign them is the aggregate of volitional formations.

Lãnh vực thứ hai nơi mà từ Hành (sankharas) được nhắc đến nằm trong một của ngũ uẩn. Uẩn thứ tư là Hành Uẩn (sankhara-khandha), tổ hợp sự hình thành của ý chí. Các bản chú giải định nghĩa Hành Uẩn (sankhara-khandha) như sáu giai cấp của hành động tạo tác của ý thức (cha cetanakaya): Ý thức về các sắc, thinh, khí, vị, xúc, và ý. Mặc dù các Hành này tương ứng chặt chẽ với điều đó trong công thức của lý duyên khởi, cả hai không phải là trong tất cả các khía cạnh như nhau, bởi vì Hành-uẩn (sankhara-khandha) có một phạm vi rộng hơn. Hành-Uẩn của ý chí hình thành bao gồm tất cả các loại do ý muốn. Nó bao gồm không phải chỉ những việc cố ý tạo ra do nghiệp, mà còn gồm cả những việc tạo ra do kết quả của nghiệp và cả những việc không liên quan gì tới nghiệp. Trong văn học Pali sau này, Hành-uẩn (sankhara-khandha) trở thành một thể loại bảo vệ cho tất cả các yếu tố của tâm ngoại trừ thọ và tưởng là uẩn của riêng mình. Như vậy Hành-uẩn (sankhara-khandha) bao gồm các yếu tố biến đổi về mặt đạo đức như xúc, sự chủ tâm, tư tưởng, và tinh tấn; Các nhân tố lành mạnh như lòng quảng đại, nhân ái và trí tuệ; Và các yếu tố bất thiện như tham , sân, và si. Vì lẽ rằng tất cả các nhân tố này nảy sinh trong sự kết hợp với ý chí và góp phần vào hành động do ý muốn, các vị Giảng Sư Phật giáo thời xưa quyết định rằng nơi phù hợp nhất để ấn định chúng là uẩn của ý chí hình thành.

The third major domain in which the word sankhara occurs is as a designation for all conditioned things. In this context the word has a passive derivation, denoting whatever is formed by a combination of conditions; whatever is conditioned, constructed, or compounded. In this sense it might be rendered simply "formations," without the qualifying adjective. As bare formations, sankharas include all five aggregates, not just the fourth. The term also includes external objects and situations such as mountains, fields, and forests; towns and cities; food and drink; jewelry, cars, and computers.

Lãnh vực thứ ba trong đó chữ Hành (sankhara) được tìm thấy như là một chỉ định cho tất cả những điều có điều kiện. Trong phạm vi này chữ có sự khác biệt tiêu cực, chứng tỏ bất cứ điều gì được hình thành bởi một sự kết hợp của các điều kiện;Bất cứ điều gì có điều kiện, được thiết lập, hoặc kết hợp. Theo ý nghĩa này nó có thể được đơn giản nêu ra là "sự hình thành", không phụ thuộc vào đủ điều kiện. Như hình thành vừa đủ, Hành (sankharas) bao gồm cả năm uẩn, không chỉ là cái thứ tư. Từ vựng cũng bao gồm các vật thể bên ngoài và các vị trí địa thế như núi, cánh đồng, và rừng; thị xã, thành phố; đồ ăn thức uống; đồ trang sức, xe cộ và máy tính.

The fact that sankharas can include both active forces and the things produced by them is highly significant and secures for the term its role as the cornerstone of the Buddha's philosophical vision. For what the Buddha emphasizes is that the sankharas in the two active senses — the volitional formations operative in dependent origination, and the kammic volitions in the fourth aggregate — construct the sankharas in the passive sense: "They construct the conditioned; therefore they are called volitional formations. And what are the conditioned things they construct? They construct the body, feeling, perception, volitional formations, and consciousness; therefore they are called volitional formations" (SN XXII.79).

Sự việc mà Hành (sankharas) có thể bao gồm cả ảnh hưởng tích cực và những thứ được tạo ra bởi chúng là hết sức quan trọng và đảm bảo cho từ vựng đóng vai trò của nó như là nền tảng của tầm nhìn triết học của Đức Phật. Đối với những gì mà Đức Phật nhấn mạnh là các Hành (sankharas) trong hai giác quan hoạt động - các sự hình thành tự ý có tác dụng trong nguồn gốc phụ thuộc, và nghiệp lực trong tổng hợp thứ tư cấu trúc Hành (sankharas) theo nghĩa tiêu cực: "Chúng cấu trúc trong các điều kiện, do đó chúng được gọi là Hành. Và những điều mà chúng tạo ra là gì? Chúng tạo ra Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, và Thức; Do đó chúng được gọi là Hành "(SN XXII.79 ).

Though external inanimate things may arise from purely physical causes, the sankharas that make up our personal being — the five aggregates — are all products of the kammically active sankharas that we engaged in our previous lives. In the present life as well the five aggregates are constantly being maintained, refurbished, and extended by the volitional activity we engage in now, which again becomes a condition for future existence. Thus, the Buddha teaches, it was our own kammically formative sankharas that built up our present edifice of personal being, and it is our present formative sankharas that are now building up the edifices of personal being we will inhabit in our future lives. These edifices consist of nothing other than sankharas as conditioned things, the conditioned formations comprised in the five aggregates.

Mặc dù các vật vô tình bên ngoài có thể phát sinh từ các nguyên nhân hoàn toàn vật lý , những Hành (sankharas) tạo nên cá tính của chúng ta - năm uẩn - tất cả đều được sanh ra từ nghiệp lực những hành vi của chúng ta tạo ra từ những kiếp trước. Trong cuộc sống hiện tại cũng như năm uẩn vẫn liên tục được duy trì, phục hồi và mở rộng bởi hoạt động từ ý chí mà chúng ta tạo nên ngay trong hiện tại, điều này trở thành điều kiện cho sự hiện hữu trong tương lai. Thật vậy, Đức Phật dạy rằng, chính những nghiệp của chúng ta sự hình thành Hành (Sankharas) đó tạo nên sự kết cấu cái hiện tại của chúng ta về cá thể, và đó là hiện thân của chúng ta Hành (sankharas) điều mà ngay bây giờ đang tạo nên những hành vi của cá nhân chúng ta sẽ cho ra trong cuộc sống tương lai của chúng ta. Những kết cấu này không có điều gì khác hơn những Hành (sankharas) như những điều có điều kiện, các hình thành có điều kiện bao gồm trong ngũ uẩn.

The most important fact to understand about sankharas, as conditioned formations, is that they are all impermanent: "Impermanent, alas, are formations." They are impermanent not only in the sense that in their gross manifestations they will eventually come to an end, but even more pointedly because at the subtle, subliminal level they are constantly undergoing rise and fall, forever coming into being and then, in a split second, breaking up and perishing: "Their very nature is to arise and vanish." For this reason the Buddha declares that all sankharas are suffering (sabbe sankhara dukkha) — suffering, however, not because they are all actually painful and stressful, but because they are stamped with the mark of transience. "Having arisen they then cease," and because they all cease they cannot provide stable happiness and security.

Sự kiện quan trọng nhất để hiểu về các hành (sankharas), dưới dạng các hình thể có điều kiện, là chúng đều vô thường: "Than ôi, các hành là vô thường." Chúng là vô thường không chỉ theo nghĩa là trong cảm nhận rằng trong toàn bộ biểu thị của chúng cuối cùng sẽ chấm dứt, nhưng thậm chí còn rõ ràng hơn bởi vì ở mức tinh vi, cao siêu, chúng liên tục trải qua sự sanh khởi và hoại diệt, mãi mãi sẽ sanh và rồi , trong một thoáng thì tan vỡ và rữa mục: "Bản chất của chúng là sinh và diệt." Vì lý do này, Đức Phật tuyên bố rằng tất cả các Hành là đau khổ (sabhāra sankhara dukkha) - Tuy nhiên, đau khổ, không phải vì tất cả đều thực sự đau đớn và phiền não, nhưng vì chúng được chỉ rõ với biểu hiện tính chất biến đổi. "Đã sinh thì có diệt", và bởi vì tất cả chúng diệt thì không thể cho chúng ta hạnh phúc và an lạc ổn định.

To win complete release from suffering — not only from experiencing suffering, but from the unsatisfactoriness intrinsic to all conditioned existence — we must gain release from sankharas. And what lies beyond the sankharas is that which is not constructed, not put together, not compounded. This is Nibbana, accordingly called the Unconditioned — asankhata — the opposite of what is sankhata, a word which is the passive participle corresponding to sankhara. Nibbana is called the Unconditioned precisely because it's a state that is neither itself a sankhara nor constructed by sankharas; a state described as visankhara, "devoid of formations," and as sabbasankhara-samatha, "the stilling of all formations."

Để đạt đến sự giải thoát khổ đau hoàn toàn-- không phải chỉ từ sự trải nghiệm đau khổ, mà từ sự không thỏa mãn với bản chất của tất cả điều kiện hiện hữu -- chúng ta phải đạt tới việc giải phóng khỏi các Hành (sankharas). Và những gì nằm ngoài các Hành (sankharas) là những gì không được tạo ra, không kết hợp, không phức tạp. Đây là Niết-bàn, theo đó được gọi là vô hành (asankhata) - đối nghịch với hành (sankhata), một chữ thời quá khứ của chữ Hành (sankhara). Niết bàn được gọi chính xác là vô điều kiện bởi vì nó là một trạng thái không phải là một Hành (sankhara) cũng không được tạo nên bởi các Hành (sankharas); Một trạng thái được miêu tả như visankhara, "trạng thái rỗng không của hình thành", và như là sabbasankhara-samatha, "sự tĩnh lặng của mọi sự hình thành."

Thus, when we put the word sankhara under our microscope, we see compressed within it the entire worldview of the Dhamma. The active sankharas consisting in kammically active volitions perpetually create the sankhara of the five aggregates that constitute our being. As long as we continue to identify with the five aggregates (the work of ignorance) and to seek enjoyment in them (the work of craving), we go on spewing out the volitional formations that build up future combinations of aggregates. Just that is the nature of samsara: an unbroken procession of empty but efficient sankharas producing still other sankharas, riding up in fresh waves with each new birth, swelling to a crest, and then crashing down into old age, illness, and death. Yet on it goes, shrouded in the delusion that we're really in control, sustained by an ever-tantalizing, ever receding hope of final satisfaction.

Tỷ dụ, khi chúng ta để từ Hành (sankhara) dưới kính hội tụ, chúng ta thấy nén trong nó toàn bộ thế giới quan của Giáo Pháp. Những hành hoạt được thể hiện bằng nghiệp lực tạo nên Hành (sankhara) trong năm uẩn tạo nên chúng sinh. Với điều kiện là chúng ta tiếp tục đồng hoá với năm uẩn (công việc của vô minh) và để tìm kiếm sự vui thích trong chúng (công việc của ái dục), chúng ta tiếp tục tạo ra những hành uẩn và các kết hợp các uẩn trong tương lai. Chỉ là bản chất của luân hồi (samsara): một chuỗi Hành (sankharas) trống rỗng nhưng hiệu quả vẫn tiếp tục sinh sản ra những Hành (sankharas) khác, chồng chất lên với những hành động mới mỗi lần tái sanh, phát triển đến tột đỉnh, rồi rơi vào tuổi già, bệnh và chết. Tuy nhiên, khi nó đi, che giấu ảo giác rằng chúng ta đang thực sự kiểm soát bởi điều gì đó không bao giờ đạt được, luôn luôn thu hẹp sự hài lòng cuối cùng.

When, however, we take up the practice of the Dhamma, we apply a brake to this relentless generation of sankharas. We learn to see the true nature of the sankharas, of our own five aggregates: as unstable, conditioned processes rolling on with no one in charge. Thereby we switch off the engine driven by ignorance and craving, and the process of kammic construction, the production of active sankharas, is effectively deconstructed.By putting an end to the constructing of conditioned reality, we open the door to what is ever-present but not constructed, not conditioned: the asankhata-dhatu, the unconditioned element. This is Nibbana, the Deathless, the stilling of volitional activities, the final liberation from all conditioned formations and thus from impermanence and death. Therefore our verse concludes: "The subsiding of formations is blissful!"

Tuy nhiên, khi chúng ta bắt đầu thực hành Giáo Pháp, chúng ta sẽ không ngần ngại ngưng lại nếu có sự phát sinh của các Hành (sankhãas). Chúng ta học cách nhìn thấy bản chất thật của các Hành (sankharas), của ngũ uẩn của chúng ta: như không ổn định,một tiến trình có điều kiện tiến tới và không có ai điều khiển.Bằng cách đó chúng ta ngăn chặn lực điều khiển bởi vô minh và tham dục, và quá trình tạo nghiệp, sự khởi sinh của các Hành (sankharas), bị ngưng phát triển có hiệu lực. Bằng cách chấm dứt việc xây dựng thực tại có điều kiện, chúng ta mở cánh cửa để chấp nhận những gì từng hiện hữu nhưng không được xây dựng, không cần đặt điều kiện: asankhata-dhatu -- yếu tố Vô lậu. Đây là Niết Bàn, Sự Bất Tử, sự Tịch tịnh của các Hành động do tác ý, sự giải phóng cuối cùng từ mọi hình thức có điều kiện và từ sự vô thường và chết.Vì thế, đoạn văn này có thể kết luận: "để chìm xuống những sự hình thành là điều hạnh phúc!"

 | | Cập nhập ngày: Thứ Năm ngày 2 tháng 3, 2023

webmasters: Nguyễn Văn Hòa & Minh Hạnh

trở về đầu trang
| Home page |