Anapana sati, the meditation on in-and-out breathing, is the first subject of meditation expounded by the Buddha in the Maha-satipatthana Sutta, the Great Discourse on the Foundations of Mindfulness. The Buddha laid special stress on this meditation, for it is the gateway to enlightenment and Nibbana adopted by all the Buddhas of the past as the very basis for their attainment of Buddhahood. When the Blessed One sat at the foot of the Bodhi Tree and resolved not to rise until he had reached enlightenment, he took up anapana sati as his subject of meditation. On the basis of this, he attained the four jhanas, recollected his previous lives, fathomed the nature of samsara, aroused the succession of great insight knowledges, and at dawn, while 100,000 world systems trembled, he attained the limitless wisdom of a Fully Enlightened Buddha.

Anapana sati, thiền về hơi thở vào và ra, là chủ đề đầu tiên về thiền định được thuyết giảng bởi Đức Phật trong Kinh Đại Niệm Xứ (Maha-satipatthana Sutta). Đức Phật đã nhấn mạnh đặt biệt về thiền định này, cho nó là cửa ngỏ đưa đến Giác Ngộ và Niết Bàn mà tất cả chư Phật trong quá khứ đã chọn làm cơ sở chính cho sự chứng đắc Phật quả của các ngài. Khi Đức Thế Tôn ngồi dưới gốc cây Bồ Đề và quyết định không đứng lên cho đến khi Ngài đạt được Giác Ngộ, Ngài đã chọn Quán Niệm Hơi Thở (Anapana Sati) làm đề mục thiền định. Trên cơ sở này, Ngài đã chứng đắc bốn tầng thiền, nhớ lại các kiếp sống trước của Ngài, hiểu rỏ bản chất của sanh tử luân hồi, làm dấy lên liên tục các kiến thức hiểu biết sâu xa nhất, và vào lúc bình minh, khi 100,000 cỏi thế giới rung chuyển, Ngài đã đạt được trí tuệ vô biên của một vị Phật Tòan Giác.

Let us then offer our veneration to the Blessed One, who became a peerless world-transcending Buddha through this meditation of anapana sati. May we comprehend this subject of meditation fully, with wisdom resplendent like the sun and moon. Through its power may we attain the blissful peace of Nibbana.

Vì thế chúng ta hảy tỏ lòng tôn kính với Đức Thế Tôn, người đã trở thành một vị Phật vô song, siêu việt thế giới thông qua thiền quán niệm hơi thở này. Mong rằng chúng ta có thể thấu hiểu trọn vẹn chủ đề thiền này, với trí tuệ rực rỡ như mặt trời và mặt trăng. Qua sức mạnh của nó, mong rằng chúng ta sẽ đạt được hạnh phúc an lạc của Niết Bàn.

The Basic Text

Phần Văn Bản Chính

Let us first examine the meaning of the text expounded by the Buddha on anapana sati. The text begins:

Trước tiên chúng ta hảy nghiên cứu bản văn được thuyết giảng bởi Đức Phật về thiền quán niệm hơi thở (anapana sati). Bài giảng bắt đầu như sau:

"Herein, monks, a monk who has gone to the forest, or to the foot of a tree, or to an empty place, sits down cross legged, holding his back erect, arousing mindfulness in front of him."

"Này các Tỳ Kheo, một vị Tỳ Kheo đến một khu rừng, hoặc đến một gốc cây, hoặc một nơi trống vắng, ngồi xuống bắt chéo chân, giữ thẳng lưng, dấy khởi chánh niệm trước mặt ông."

This means that any person belonging to the four types of individuals mentioned in this teaching — namely, bhikkhu (monk), bhikkhuni (nun), upasaka (layman) or upasika (laywoman) — desirous of practicing this meditation, should go either to a forest, to the foot of a secluded tree, or to a solitary dwelling. There he should sit down cross-legged, and keeping his body in an erect position, fix his mindfulness at the tip of his nose, the locus for his object of meditation.

Đây có nghĩa là bất cứ người nào thuộc vào bốn loại người được nhắc đến trong bài giảng này — đó là tỳ khưu (sư), tỳ khưu ni (sư nữ), thiện nam (nam cư sĩ), tín nữ (nữ cư sĩ) — muốn thực tậ̣p thiền này, cần phải đi đến một khu rừng, hoặc đến một gốc cây hẻo lánh, hay chỗ xa xôi vắng vẻ. Ở đó hành giả phải ngồi xuống bắt chéo chân, và giữ cho cơ thể ở vị trí thẳng đứng, đặt chánh niệm ở chóp mũi của mình, điểm làm đối tượng về thiền định của hành giả.

If he breathes in a long breath, he should comprehend this with full awareness. If he breathes out a long breath, he should comprehend this with full awareness. If he breathes in a short breath, he should comprehend this with full awareness. if he breathes out a short breath, he should comprehend this with full awareness.

Nếu hành giả thở vào một hơi thở dải, hành giả nên hiểu điều này với nhận thức đầy đủ. Nếu thở ra một hơi dài, người ấy nên hiểu điều này với nhận thức đầy đủ. Nếu thở vào một hơi thở ngắn, người ấy nên hiiểu điều này với nhận thức đầy đủ. Nếu thở ra một hơi thở ngắn, người ấy nên hiểu điều này với nhận thức đầy đủ.

"He breathes in experiencing the whole body, he breathes out experiencing the whole body": that is, with well-placed mindfulness, he sees the beginning, the middle and the end of the two phases, the in-breath and the out-breath. As he practices watching the in-breath and the out breath with mindfulness, he calms down and tranquilizes the two functions of in breathing and out-breathing.

"Hành giả thở vào trải qua toàn thân, thở ra trải qua toàn thân": đó là, với chánh niệm đúng chỗ, người ấy thấy điểm khởi đầu, giữa và cuối của hai giai đoạn, thở vào và thở ra. Khi người ấy tập xem thở vào và thở ra với chánh niệm, người ấy bình tĩnh lại và làm cho hai chức năng thở vào và thở ra trở nên tĩnh lặng.

The Buddha illustrates this with a simile. When a clever turner or his apprentice works an object on his lathe, he attends to his task with fixed attention: in making a long turn or a short turn, he knows that he is making a long turn or a short turn. In the same manner if the practitioner of meditation breathes in a long breath he comprehends it as such; and if he breathes out a long breath, he comprehends it as such; if he breathes in a short breath, he comprehends it as such; and if he breathes out a short breath, he comprehends it as such. He exercises his awareness so as to see the beginning, the middle and the end of these two functions of breathing in and breathing out. He comprehends with wisdom the calming down of these two aspects of in-breathing and out-breathing.

Đức Phật minh họa điều này bằng một ví von. Khi một người thợ máy tinh xảo hay thợ học nghề của ông làm việc trên cái máy tiện, ông làm nhiệm vụ của mình một cách chăm chú: để làm một đường xoay dài hay xoay ngắn, ông biết rằng mình đang làm một đường xoay dài hay ngắn. Trong cùng một phương cách, nếu hành giả thiền thở vào một hơi thở dài người ấy biết rỏ nó như vậ̣y; và nếu hành giả thở ra một hơi thở dài, người ấy biết rỏ nó như vậy; nếu hành giả thở vào một hơi ngắn, người ấy biết rỏ nó như vậy; và nếu hành giả thở ra một hơi ngắn, người ấy biết rỏ nó như vậy. Hành giả tập nhận thức của mình để thấy điểm khởi đầu, giữa và cuối của hai chức năng thở vào và thở ra này. Hành giả hiểu biết thấu triệṭ sự yên tĩnh lại của hai khía cạnh thở vào và thở ra.

In this way he comprehends the two functions of in-breathing and out-breathing in himself, and the two functions of in breathing and out-breathing in other persons. He also comprehends the two functions of in-breathing and out-breathing in himself and in others in rapid alternation. He comprehends as well the cause for the arising of in-breathing and out-breathing, and the cause for the cessation of in breathing and out-breathing, and the moment-by-moment arising and cessation of in-breathing and out-breathing.

Bằng cách này Hành giả thấu hiểu hai chức năng thở vào và thở ra của bản thân mình và hai chức năng thở vào và thở ra của người khác. Hành giả cũng thấu hiểu hai chức năng thở vào và thở ra bên trong của mình và bên trong những người khác trong luân phiên nhanh chóng. Hành giả cũng thấu hiểu nguyên nhân cho sự phát sinh hơi thở vào và thở ra, và nguyên nhân cho sự chấm dứt hơi thở vào và thở ra, và từng khoảnh khắc phát sinh và chấm dứt của thở vào và thở ra.

He then realizes that this body which exercises the two functions of in-breathing and out-breathing is only a body, not an ego or "I." This mindfulness and wisdom become helpful in developing greater and more profound mindfulness and wisdom, enabling him to discard the erroneous conceptions of things in terms of "I" and "mine." He then becomes skilled in living with wisdom in respect of this body and he does not grasp anything in the world with craving, conceit or false views. Living unattached, the meditator treads the path to Nibbana by contemplating the nature of the body.

Rồi hành giả nhận ra rằng cơ thể thực hiện hai chức năng thở vào và thở ra này chỉ là một cái thân, không phải là bản ngã hay cái "tôi". Chánh niệm và trí tuệ này trở nên hữu ích trong việc phát triễn ch́anh niệm và trí tuệ nhiều hơn và uyên thâm hơn, cho phép ông loại bỏ quan niệm sai lầm về mọi việc liên hệ đến "tôi" và "của tôi". Sau đó hành giả trở nên lão luyện trong việc dùng trí tuệ để sống với thân này và ông không nắm bắt bất cứ điều gì trên thế giới với tham muốn, tự phụ hay quan điểm sai lầm. Sống thảnh thơi, thiền giả bước đi trên con đường dẫn đến Niết Bàn bằng cách suy niệm về bản chất của thân thể.

This is an amplified paraphrase of the passage from the Maha-satipatthana Sutta on anapana sati. This meditation has been explained in sixteen different ways in various suttas. Of these sixteen, the first tetrad has been explained here. But these four are the foundation for all the sixteen ways in which anapana sati can be practiced.

Đây là một diễn giải khuyếch đại của đoạn văn trong Kinh Đại Niệm Xứ về thiền quán niệm hơi thở. Thiền định này đã được giảng nghĩa trong mười sáu cách khác nhau trong các bài kinh khác nhau. Trong số mười sáu cách này, bộ bốn đầu tiên đã được giải thích ở đây. Nhưng bốn cách này là nền tảng cho tất cả mười sáu cách mà thiền quán niệm hơi thở có thể được thực hành.

The Preliminaries of Practice

Phần Thực Hành Sơ Bộ

Now we should investigate the preliminary stages to practicing this meditation. In the first place the Buddha indicated a suitable dwelling for practicing anapana sati. In the sutta he has mentioned three places: the forest, the foot of a tree, or an isolated empty place. This last can be a quiet restful hut, or a dwelling place free from the presence of people. We may even consider a meditation hall an empty place. Although there may be a large collection of people in such a hall, if every one remains calm and silent it can be considered an empty place.

Bây giờ, chúng ta nên nghiên cứu các giai đoạn sơ bộ để thực hành thiền định này. Phần đầu Đức Phật có nhắc đến một nơi thích hợp cho việc tu tập thiền quán niệm hơi thở . Trong kinh Ngài đã đề cập tới ba chỗ: trong rừng, dưới gốc cây, hay một nơi xa xôi trống vắng. Đây có thể là một túp lều yên tĩnh nghĩ ngơi được, hay một chỗ xa vắng người ơ.̉ Chúng ta cũng có thể chọn một thiền đường là một chỗ trống vắng. Mặc dù có thể có một nhóm người ở trong hội trường đó, nếu mọi người giữ bình tĩnh và yên lặng, nó có thể được xem là một chỗ trống.

The Buddha recommended such places because in order to practice anapana sati, silence is an essential factor. A beginning meditator will find it easier to develop mental concentration with anapana sati only if there is silence. Even if one cannot find complete silence, one should choose a quiet place where one will enjoy privacy.

Đức Phật đề nghị những chỗ như vậy bởi vì để có thể thực hành thiền quán niệm hơi thở, yên lặng là một yếu tố cần thiết. Một hành giả bắt đầu tập thiền sẽ thấy dễ hơn trong việc phát triễn sự tập trung tư tưởng với thiền quán niệm hơi thở nếu được yên lặng. Thậm chí nếu ta không thể tìm được nơi hoàn toàn tĩnh lặng, ta nên chọn một chỗ vắng vẻ để có thể an vui ẩn dật.

Next the Buddha explained the sitting posture. There are four postures which can be adopted for meditation: standing, sitting, reclining and walking. Of these the most suitable posture to practice anapana sati at the beginning is the seated posture.

Kế đến Đức Phật giải thích tư thế ngồi. Bốn tư thế có thể áp dụng cho thiền định: đứng, ngồi, dựa vào và đi. Trong những cách này tư thế phù hợp nhất cho thiền quán niệm hơi thở ở giai đoạn khởi đầu là tư thế ngồi.

The person wishing to practice anapana sati should sit down cross-legged. For bhikkhus and laymen, the Buddha has recommended the cross-legged Position. This is not an easy posture for everyone, but it can be gradually mastered. The half cross-legged position has been recommended for bhikkhunis and laywomen. This is the posture of sitting with one leg bent. It would be greatly beneficial if the cross legged posture recommended for bhikkhus and laymen could be adopted in the "lotus" pattern, with the feet turned up and resting on the opposite thighs. If that is inconvenient, one should sit with the two feet tucked underneath the body.

Người nào muốn thực hành thiền quán niệm hơi thở nên ngồi xuống bắt chéo chân. Đối với các tỳ khưu và nam cư sĩ, Đức Phật đề nghị thế kiết già bắt chéo hai chân. Đây không phải là một tư thế dễ cho tấ́t cả mọi người, nhưng có thể dần dà làm được thuần thạo. Tư thế bắt chéo bán già được đề nghị cho các sư nữ và nữ cư sĩ. Đây là thế ngồi với một chân bắt chéo. Nó sẽ rất có lợi nếu tư thế bắt chéo chân đề nghị cho tỳ khưu và nam cư sĩ có thể chọn theo mô hình "hoa sen", với bàn chân mở ngử̃a và nằm trên đùi đối diện. Nếu điều đó bất tiện, ta nên ngồi với hai chân dấu bên dưới cơ thể.

In the practice of anapana sati, it is imperative to hold the body upright. The torso should be kept erect, though not strained and rigid. One can cultivate this meditation properly only if all the bones of the spine are linked together in an erect position. Therefore, this advice of the Buddha to keep the upper part of the body erect should be clearly comprehended and followed.

Trong việc thực hành thiền quán niệm hơi thở, việc giữ cho thân thể thẳng đứng là điều bắt buộc. Lưng nên được giữ thẳng nhưng không cần phải căng thẳng và cứng nhắc. Người ta chỉ có thể tu luyện thiền định này đúng khi tất cả các xương sống lưng liên kết với nhau ở một vị trí thẳng đứng. Vì vậ̣y, lời khuyên của Đức Phật về việc giữ cho phần trên của thân thể thẳng đứng nên được hiểu rõ và tuân thủ.

The hands should be placed gently on the lap, the back of the right hand over the palm of the left. The eyes can be closed softly, or left half-closed, whichever is more comfortable. The head should be held straight, tilted a slight angle downwards, the nose perpendicular to the navel

Tay nên được đặt nhẹ trên đùi, mặt sau của bàn tay phải nằm bên trên lòng bàn tay trái. Mắt có thể khép hờ lại, hay nhắm nữa mắt, chọn kiểu nào thấy thoải mái hơn. Đầu nên giữ cho thẳng, hơi cúi xuống một chút, mũi song song với rốn.

The next factor is the place for fixing the attention. To cultivate anapana sati one should be clearly mindful of the place where the incoming and outgoing breaths enter and leave the nostrils. This will be felt as a spot beneath the nostrils or on the upper lip, wherever the impact of the air coming in and out the nostrils can be felt most distinctly. On that spot the attention should be fixed, like a sentry watching a gate.

Yếu tố kế tiếp là nơi cần phải chú ý đến. Để tu luyện thiền quán niệm hơi thở ta nên nhận thức rỏ nơi mà hơi thở đi vào và đi ra lỗ mũi. Ta sẽ cảm thấy được đây là một điểm bên dưới lỗ mũi hay ở môi trên, nơi mà sự va chạm của không khí đi vào và ra lỗ mũi có thể cảm nhận được rỏ ràng nhất. Sự chú ý cần phải được đóng chặt vào chỗ đó, giống như người lính gác đứng canh chừng cửa.

Then the Buddha has explained the manner in which anapana sati has to be cultivated. One breathes in mindfully, breathes out mindfully. From birth to death this function of in-breathing and out-breathing continues without a break, without a stop, but since we do not consciously reflect on it, we do not even realize the presence of this breath. If we do so, we can derive much benefit by way of calm and insight. Thus the Buddha has advised us to be aware of the function of breathing.

Sau đó Đức Phật đã giảng nghĩa phương pháp tập luyện thiền quán niệm hơi thở. Ta thở vào trong chánh niệm, thở ra trong chánh niệm. Chức năng thở vào và thở ra này liên tục làm từ lúc sinh ra cho đến khi chết không ngừng nghĩ, nhưng vì chúng ta không quán chiếu về nó, thậm chí chúng ta còn không nhận ra sự hiện diện của hơi thở. Nếu chúng ta làm như vậy, chúng ta có thể lấy được nhiều lợi ích bằng cách bình tĩnh và có nhận thức sâu săc. Vì vậy Đức Phật đã khuyên chúng ta nên nhận thức được chức năng hô hấp.

The practitioner of meditation who consciously watches the breath in this manner should never try to control his breathing or hold back his breath with effort. For if he controls his breath or holds back his breath with conscious effort, he will become fatigued and his mental concentration will be disturbed and broken. The key to the practice is to set up mindfulness naturally at the spot where the in-breaths and the out-breaths are felt entering and leaving the nostrils. Then the meditator has to maintain his awareness of the touch sensation of the breath, keeping the awareness as steady and consistent as possible.

Hành giả thiền ý thức dõi xem hơi thở theo cách này không bao giờ thử kiểm soát hơi thở hay cố gắng giữ lại hơi thở của mình. Bởi vì nếu hành giả kiểm soát hơi thở hay cố gắng giữ lại hơi thở của mình, hành giả sẽ trở nên mệt mỏi và sự tập trung tinh thần sẽ bị quấy rầy và đình trệ. Chìa khóa cho sự thực hành là thiết lập chánh niệm một cách tự nhiên ở chỗ mà hơi thở vào và hơi thở ra được cảm thấy là ra vào lỗ mũi. Sau đó hành giả phải duy trì sự nhận thức của mình về cảm giác xúc chạm của hơi thở, giữ cho nhận thức được ổn định và liên tục nhất có thể.

The Eight Steps

Tám Giai Đoạn

To help practitioners in developing this meditation, the commentators and meditation masters have indicated eight graduated steps in the practice. These eight steps will first be enumerated, and then they will be explained in relation to the actual meditative process.

Để giúp các thiền sinh trong việc phát triễn thiền quán niệm hơi thở, các nhà bình luận và thiền sư đã chỉ ra tám bước tiến trong việc thực hành. Tám giai đoạn này sẽ được liệt kê trước, và sau đó chúng sẽ được giải thích vô chi tiết liên quan đến quá trình thiền định thật sự.

The eight steps are named: counting (ganana); following (anubandhana); contact (phusana); fixing (thapana); observing (sallakkhana); turning away (vivattana), purification (parisuddhi); and retrospection (patipassana). These eight cover the whole course of meditative development up to the attainment of arahantship.

Tám bước này là: đếm (ganana); theo dõi (anubandhana); tiếp xúc (phusana); định (thapana); quan sát (sallakkhana); viễn ly (vivattana), thanh tịnh (parisuddhi); và hồi tưởng (patipassana). Tám điều này bao gồm toàn bộ quá trình phát triễn thiền định đến sự thành tựu A La Hán

(i) Counting

(i) Đếm

Counting is intended for those who have never before practiced anapana sati. It is not necessary for those who have practiced meditation for a considerable period of time. However, as it is expedient to have a knowledge of this, counting should be understood in the following manner.

Đếm được dành cho những ai chưa bao giờ luyện tập thiền quán niệm hơi thở. Nó không cần thiết cho những ai đã thực hành thiền định trong một khoảng thời gian khá lâu. Tuy nhiên, vì nó thích hợp để có được kiến thức về điều này, đếm nên được hiểu theo cách sau đây.

When the meditator sits down for meditation, he fixes his attention at the tip of his nose and consciously attends to the sequence of in-and-out breathing. He notes the breath as it enters, and notes the breath as it leaves, touching against the tip of the nose or the upper lip. At this time he begins to count these movements.

Khi hành giả ngồi thiền, họ đặt sự chú ý vào chóp mũi và ý thức đến trình tự của thở vào và ra. Hành giả nhận thấy hơi thở khi nó vào, và nhận thấy hơi thở khi nó ra, biết hơi thở tiếp xúc với chóp mũi hay môi trên. Tại thời điểm này hành giả bắt đầu đếm những động tác đó.

There are a few methods of counting. The easiest is explained thus: The first breath felt is counted as "one, one"; the second as "two, two"; the third as "three, three"; the fourth as "four, four"; the fifth as "five, five" and so on up to the tenth breath which is counted as "ten, ten." Then he returns to "one, one" and continues again up to "ten, ten." This is repeated over and over from one to ten.

Có một vài phương pháp đếm. Cách dễ nhất được giải thích như sau: Hơi thở đầu tiên đếm là "một, một"; thứ nhì là "hai, hai"; thứ ba là "ba, ba"; thứ tư là "bốn, bốn"; thứ năm là "năm, năm" và tiếp tục lên đến hơi thở thứ mười đếm là "mười, mười." Sau đó hành giả trở lại "một, một" và tiếp tục lần nữa đến "mười, mười." Cứ thế mà lậ̣p đi lập lại từ một đến mười.

The mere counting is not itself meditation, but the counting has become an essential aid to meditation. A person who has not practiced meditation before, finding it difficult to understand the nature of his mind, may think he is meditating while his mind runs helter skelter. Counting is an easy method to control the wandering mind.

Việc đếm tự nó không phải là thiền, nhưng đếm đã trở thành một trợ giúp cần thiết cho thiền. Một người chưa từng tập luyện thiền, thấy rằng khó khăn để hiểu được bản chất của tâm trí mình, có thể nghĩ rằng hành giả đang ngồi thiền trong khi tâm của của hành giả chạy lăng xăng. Đếm là phương pháp dễ dàng để kiểm soát tâm đi lang thang.

If a person fixes his mind well on his meditation, he can maintain this counting correctly. If the mind flees in all directions, and he misses the count, he becomes confused and thus can realize that his mind has wandered about. If the mind has lost track of the count, the meditator should begin the counting over again. In this way he should start the counting again from the beginning, even if he has gone wrong a thousand times.

Nếu một người chú tâm vào thiền định giỏi, người ấy có thể duy trì phép đếm này một cách chính xác. Nếu tâm trốn chạy khắp nơi, và hành giả đếm hụt, người ấy sẽ trở nên bối rối và nhờ đó có thể nhận ra rằng tâm của mình đã đi lang thang. Nếu tâm không định vị được số lần đếm, hành giả nên bắt đầu đếm lại một lần nữa. Bằng cách này hành giả sẽ bắt đầu đếm laị từ đầu, ngay cả khi đã sai cả ngàn lần.

As the practice develops, there may come a time when the in-breathing and out breathing take a shorter course and it is not possible to count the same number many times. Then the meditator has to count quickly "one," "two," "three," etc. When he counts in this manner he can comprehend the difference between a long in-breath and out-breath and a short in-breath and out-breath.

Khi việc thực hành phát triễn, sẽ có lúc hơi thở vào và thở ra trở nên ngắn hơn và không thể nào đếm cùng một số nhiều lần. Vì thế hành giả phải đếm nhanh "một," "hai," "ba," v.v. Khi ông đếm theo cách này ông có thể hiểu rỏ sự khác biệt giữa một hơi thở dài vào và ra và một hơi thở ngắn vào và ra.

(ii) Following

(ii) Theo Dõi

"Following" means following the breath with the mind. When the mind has been subdued by counting and is fixed on the in-breathing and out-breathing, the counting is stopped and replaced by mentally keeping track of the course of the breath. This is explained by the Buddha in this manner:

"Theo dõi" có nghĩa là để tâm trí dõi theo hơi thở. Khi tâm bị chinh phục bởi đếm và cố định trong việc thở vào và thở ra, đếm ngừng lại và được thay thế bằng tâm theo dõi tiến trình của hơi thở. Điều này được giải thích bởi Đức Phật như sau:

"When the meditator breathes in a long breath, he comprehends that he is breathing in a long breath; and when he is breathing out a long breath, he comprehends that he is breathing out a long breath."

"Khi hành giả thở vào một hơi thở dài, ông biết rỏ là mình đang thở vào một hơi thở dài; và khi thở ra một hơi thở dài, ông biết rỏ là mình đang thở ra một hơi thở dài."

 

Herein, one does not deliberately take a long in-breath or a long out-breath. One simply comprehends what actually takes place.

Ở đây, người ta không cố tình đưa một hơi thở dài vào hay một hơi thở dài ra. Ta chỉ đơn giản thấu hiểu những gì thật sự diễn ra.

The Buddha has declared in the next passage that a meditator trains himself thinking: "I shall breathe in experiencing the whole body, and I shall breath out experiencing the whole body." Here, what is meant as "the whole body" is the entire cycle of breathing in and breathing out. The meditator should fix his attention so as to see the beginning, the middle and the end of each cycle of in-breathing and out-breathing. It is this practice that is called "experiencing the whole body."

Đức Phật đã tuyên bố trong đoạn tiếp theo rằng hành giả tự rèn luyện suy nghĩ: "Tôi sẽ thở vào trải qua toàn thân, và tôi sẽ thở ra trải qua toàn thân." Ở đây, "toàn thân" có nghĩa là toàn bộ chu kỳ thở vào và thở ra. Hành giả nên đặt sự chú ý của mình để có thể thấy chặng̣ khởi đầu, giữa và cuối của mỗi chu kỳ thở vào và thở ra. Sự rèn luyện này được gọi là "trải qua toàn thân."

The beginning, middle and end of the breath must be correctly understood. It is incorrect to consider the tip of the nose to be the beginning of the breath, the chest to be the middle, and the navel to be the end. If one attempts to trace the breath from the nose through the chest to the belly, or to follow it out from the belly through the chest to the nose, one's concentration will be disrupted and one's mind will become agitated. The beginning of the in-breath, properly understood, is the start of the inhalation, the middle is continued inhalation, and the end is the completion of the inhalation. Likewise, in regard to the out breath, the beginning is the start of the exhalation, the middle is the continued exhalation, and the end is the completion of the exhalation. To "experience the whole body" means to be aware of the entire cycle of each inhalation and exhalation, keeping the mind fixed at the spot around the nostrils or on the upper lip where the breath is felt entering and leaving the nose.

Sự khởi đầu, giữa và cuối của hơi thở phải được hiểu một cách chính xác. Thật sai lầm khi cho rằng chóp mũi là khởi đầu của hơi thở, ngực là đoạn giữa, và rốn là đoạn cuối. Nếu ta cố gắng theo dõi hơi thở từ mũi qua ngực đến bụng, hay dõi theo nó ra từ bụng qua ngực đến mũi, sự tập trung của ta sẽ bị gián đoạn và tâm trí ta sẽ trở nên kích động. Sự khởi đầu của thở vào, hiểu chính xác là sự bắt đầu của việc hít vào, giữa là sự tiếp tục của việc̣ hít vào, và cuối là sự hoàn thành của việc hít vào. Tương tự như vậy, đối với thở ra, sự khởi đầu là bắt đầu của việc thở ra, giữa là sự tiếp tục của việc thở ra, và cuối là sự hoàn thành của việc thở ra. "Trải nghịêm toàn thân" nghĩa là nhận thức rỏ toàn bộ chu kỳ của mỗi hành động thở vào và thở ra, giữ tâm cố định ở một điểm quanh lỗ mũi hay trên môi trên nơi mà hơi thở được cảm nhận đi vào và ra khỏi mũi.

This work of contemplating the breath at the area around the nostrils, without following it inside and outside the body, is illustrated by the commentaries with the similes of the gatekeeper and the saw.

Công việc suy ngẫm về hơi thở tại khu vực xung quanh lỗ mũi, mà không đi theo nó vào bên trong hay bên ngoài cơ thể, được minh họa bằng lời bình luận với những ví von về người gác cổng và cái cưa.

Just as a gatekeeper examines each person entering and leaving the city only as he passes through the gate, without following him inside or outside the city, so the meditator should be aware of each breath only as it passes through the nostrils, without following it inside or outside the body.

Giống như người gác cổng chỉ quan sát mỗi người đi vào và ra khỏi thành phố khi họ đi qua cổng, mà không theo họ vào bên trong hay ra bên ngoài thành phô, cũng vậy hành giả chỉ nên nhận thấy từng hơi thở khi nó đi qua lỗ mũi, mà không theo nó vào bên trong hay ra bên ngoài cơ thể.

Just as a man sawing a log will keep his attention fixed on the spot where the teeth of the saw cut through the wood, without following the movement of the teeth back and forth, so the meditator should contemplate the breath as it swings back and forth around the nostrils, without letting his mindfulness be distracted by the breath's inward and outward passage through the body.

Giống như một người cưa một khúc gỗ sẽ đặt sự chú ý của mình tại nơi răng cưa cắt qua gỗ, mà không dõi theo sự chuyển động qua lại của răng cưa, cũng vậy hành giả nên quán hơi thở khi nó lướt qua lại xunh quanh lỗ mũi, mà không để chánh niệm của mình bị gián đoạn bởi hơi thở đi vào và đi ra ngoài cơ thể.

When a person meditates earnestly in this manner, seeing the entire process, a joyous thrill pervades his mind. And since the mind does not wander about, the whole body becomes calm and composed, cool and comfortable.

Khi một người thiền định nghiêm chỉnh theo cách này, nhìn thấy toàn bộ quá trình, một cảm giác vui mừng tràn ngập tâm của người ấy. Và vì tâm không đi lang thang, toàn bộ cơ thể trở nên bình an, mát mẻ và thoãi mái.

(iii) Contact and (iv) Fixing

(iii) Tiếp xúc và (iv) Định

These two aspects of the practice indicate the development of stronger concentration. When the mindfulness of breathing is maintained, the breathing becomes more and more subtle and tranquil. As a result the body becomes calm and ceases to feel fatigued. Bodily pain and numbness disappear, and the body begins to feel an exhilarating comfort, as if it were being fanned with a cool gentle breeze.

Hai khía cạnh này của thực hành cho thấy sự phát triễn của sự tập trung mạnh mẽ hơn. Khi chánh niệm hơi thở được duy trì, hơi thở càng trở nên tinh tế và yên lặng hơn. Kết quả là thân trở nên bình an và không còn cảm thấy mệt mỏi. Cảm giác đau và tê của thân biến mất, và thân bắt đầu cảm thấy một luồng hơi thổi ra thoải mái, giống như nó được thổi qua bằng một ngọn gió nhẹ nhàng mát mẻ.

At that time, because of the tranquillity of the mind, the breathing becomes finer and finer until it seems that it has ceased. At times this condition lasts for many minutes. This is when breathing ceases to be felt. At this time some be come alarmed thinking the breathing has ceased, but it is not so. The breathing exists but in a very delicate and subtle form. No matter how subtle the breathing becomes, one must still keep mindful of the contact (phusana) of the breath in the area of the nostrils, without losing track of it. The mind then becomes free from the five hindrances — sensual desire, anger, drowsiness, restlessness and doubt. As a result one becomes calm and joyful.

Vào lúc đó, vì sự tĩnh lặng của tâm, hơi thở trở nên nhẹ hơn và vi tế hơn cho đến lúc nó dường như ngừng lại. Có khi tình trạng này giữ được khá lâu. Đây là khi hơi thở ngưng không còn cảm thấy. Lúc đó vaì người cảm thấy sợ hãi nghĩ rằng hơi thở đã ngừng, nhưng không phải vậy. Hơi thở tồn tại nhưng ở một dạng rất nhẹ nhàng và tinh tế. Bất kể là hơi thở trở nên tinh tế như thế nào, ta nên vẫn giữ chánh niệm của sự tiếp xúc (phusana) của hơi thở ở khu vực xung quanh lỗ mũi, không đánh mất dấu vết của nó. Tâm sau đó trở nên tự do, thoát khỏi năm chướng ngại — tham dục, sân hận, hôn trầm, bồn chồn và hoài nghi. Kết quả là người ta trở nên bình an và vui sướng.

It is at this stage that the "signs" or mental images appear heralding the success of concentration. First comes the learning sign (uggaha-nimitta), then the counterpart sign (patibhaga-nimitta). To some the sign appears like a wad of cotton, like an electric light, a sliver chain, a mist or a wheel. It appeared to the Buddha like the clear and bright midday sun.

"Dấu hiệu" hay những linh ảnh xuất hiện ở giai đoạn này báo hiệu sự thành công của sự tập trung. Đầu tiên là dấu hiệu học tập (uggaha-nimitta), rồi đến dấu hiệu đối tác (patibhaga-nimitta) - một hình thức xuất hiện do tri giác tạo nên. Đối với vài người dấu hiệu giống như là một nắm bông gòn, như ánh sáng đèn điện, một chuỗi sợi, một màng sương hay một bánh xe. Nó xuất hiện với Đức Phật như giữa trưa nắng rỏ ràng và tươi sáng.

The learning sign is unsteady, it moves here and there, up and down. But the counterpart sign appearing at the end of the nostrils is steady, fixed and motionless. At this time there are no hindrances, the mind is most active and extremely tranquil. This stage is expounded by the Buddha when he states that one breathes in tranquilizing the activity of the body, one breathes out tranquilizing the activity of the body.

Dấu hiệu học tập thì không ổn định, nó di chuyển đây đó, lên và xuống. Nhưng dấu hiệu đối tác xuất hiện ở phần cuối của lỗ mũi thì vững vàng, ổn định và bất động. Tại thời điểm này không có chướng ngại, tâm có năng lực rất nhiều và cực kỳ tĩnh lặng. Giai đoạn này được giảng nghĩa bởi Đức Phật khi ngài nói rằng người ta thở vào làm tĩnh lặng hoạt động của thân, người ta thở ra làm tĩnh lặng hoạt động của thân.

The arising of the counterpart sign and the suppression of the five hindrances marks the attainment of access concentration (upacara-samadhi). As concentration is further developed, the meditator attains full absorption (appana-samadhi) beginning with the first jhana. Four stages of absorption can be attained by the practice of anapana sati, namely, the first, second, third and fourth jhanas. These stages of deep concentration are called "fixing" (thapana).

Sự phát sinh của dấu hiệu đối tác và việc dẹp bỏ năm chướng ngại đánh dấu sự đạt được tâm cận định (upacara-samadhi). Khi sự tập trung phát triễn nhiều hơn nữa, hành giả đạt được tâm nhập định trọn vẹn (appana-samadhi) bắt đầu với sơ thiền. Bốn giai đoạn của sự tịnh tâm có thể đạt được bằng cách thực hành thiền quán niệm hơi thở, các giai đoạn đó là, sơ thiền, nhị thiền, tam thiền và tứ thiền. Các giai đoạn thiền định thâm sâu này được gọi là "định" (thapana).

(v) Observing – (viii) Retrospection

(v) Quan sát – (viii) Hồi tưởng

A person who has reached jhana should not stop there but should go on to develop insight meditation (vipassana). The stages of insight are called "observing" (sallakkhana). When insight reaches its climax, the meditator attains the supramundane paths, starting with the stage of stream-entry. Because these paths turn away the fetters that bind one to the cycle of birth and death, they are called "turning away" (vivattana).

Một người đạt đến thiền định không nên ngừng ở đó mà cần phải tiếp tục tu tập để phát triễn thiền minh sát (vipassana). Các giai đoạn của sự quán chiếu hay minh kiến được gọi là "quan sát" (sallakkhana). Khi quán chiếu đến đỉnh cao của nó, hành giả đạt đến những con đường siêu thế, bắt đầu với giai đoạn nhập lưu. Bởi vì các con đường này xa rời những xiềng xích trói buộc người ta với luân hồi sanh tử, chúng được gọi là "viễn ly" (vivattana).

The paths are followed by their respective fruitions; this stage is called "purification" (parisuddhi) because one has been cleansed of defilements. Thereafter one realizes the final stage, reviewing knowledge, called retrospection (patipassana) because one looks back upon one's entire path of progress and one's attainments. This is a brief overview of the main stages along the path to Nibbana, based on the meditation of anapana sati. Now let us examine the course of practice in terms of the seven stages of purification.

Các con đường dẫn theo bởi đạo quả tương ứng của chúng; giai đoạn này được gọi là "thanh tịnh" (parisuddhi) bởi vì người ta đã tẩy sạch được mọi ô nhiễm. Và sau đó họ đi đến giai đoạn cuối, duyệt lại kiến thức, gọi là hồi tưởng (patipassana) vì người ta nhìn trở lại toàn bộ con đường tiến triễn và thành tựu của họ. Đây là một tóm tắt ngắn gọn về các giai đoạn chính dọc theo con đường dẫn đến Niết Bàn, dựa vào thiền quán niệm hơi thở. Bây giờ chúng ta hảy xem xét tiến trình thực hành liên hệ với bảy giai đoạn thanh tịnh.

The Seven Stages of Purification

Bảy Giai Đoạn Thanh Tịnh

The person who has taken up the practice begins by establishing himself in a fitting moral code. If he is a layman, he first establishes himself in the five precepts or the ten precepts. If he is a bhikkhu, he begins his meditation while scrupulously maintaining the moral code prescribed for him. The unbroken observance of his respective moral code constitutes purification of morality (sila-visuddhi).

Người tham gia tập luyện bắt đầu bằng cách thiết lập cho mình một tấm gương đạo đức phù hợp. Nếu họ là một cư sĩ, đầu tiên họ tự đặt bản thân vào năm giới hay mười giới luật. Nếu họ là tỳ khưu, họ bắt đầu thiền định trong khi cẩn trọng duy trì giới luật được quy định cho họ. Việc chấp hành không gián đoạn giới luật của mình tạo thành sự thanh tịnh của đạo đức (sila-visuddhi).

Next, he applies himself to his topic of meditation, and as a result, the hindrances become subjugated and the mind becomes fixed in concentration. This is purification of mind (citta-visuddhi) — the mind in which the hindrances have been fully suppressed — and this includes both access concentration and the four jhanas.

Kế tiếp, họ áp dụng chính mình vào chủ đề của thiền, và kết quả là các chướng ngại trở thànḥ khuất phục và tâm trở nên kiên định trong sự tập trung. Đây là sự thanh tịnh tâm (citta-visuddhi) — tâm trong đó các chướng ngại đã bị đàn áp hoàn toàn — và điều này bao gồm cả cận định lẫn bốn tầng thiền.

When the meditator becomes well established in concentration, he next turns his attention to insight meditation. To develop insight on the basis of anapana sati, the meditator first considers that this process of in-and-out breathing is only form, a series of bodily events — not a self or ego. The mental factors that contemplate the breathing are in turn only mind, a series of mental events — not a self or ego. This discrimination of mind and matter (nama-rupa) is called purification of view (ditthi-visuddhi).

Khi hành giả trở nên ổn định trong sự tập trung, họ chuyển sự chú ý của mình đến thiền minh sát. Để phát triễn thiền minh sát trên cơ sở thiền quán niệm hơi thở, hành giả đầu tiên cho rằng quá trình thở vào và ra chỉ là hình thể, một loạt các sự kiện của thân — không phải là cái tôi hay bảṇ ngã. Các yếu tố tinh thần quán tưởng về thở thật ra chỉ là tâm, một loạt các sự kiện tinh thần — không phải là cái tôi hay bản ngã. Sự phân biệt về tâm và vật chất hay danh và sắc (nama-rupa) này được gọi là thanh tịnh của nhận thức (ditthi-visuddhi).

One who has reached this stage comprehends the process of in-and-out breathing by way of the conditions for the arising and cessation of the bodily and mental phenomena involved in the process of breathing. This knowledge, which becomes extended to all bodily and mental phenomena in terms of their dependent arising, is called the comprehension of conditions. As his understanding matures, all doubts conceived by him in respect of past, future and present times are dispelled. Thus this stage is called "purification by the transcending of doubt."

Một người đạt tới giai đoạn này hiểu rỏ quá trình thở vào và ra bằng các điều kiện đưa đến sự phát sinh hay tan rã của những hiện tượng vật lý và tinh thần liên quan với quá trình thở. Kiến thức này, có thể mở rộng đến tất cả các hiện tượng vật lý và tinh thần về sự phát sinh một cách phụ thuộc của chúng, được gọi là sự hiểu biết có điều kiện. Khi sự hiểu biết của họ trưởng thành, những hoài nghi trong tâm trí họ liên quan đến quá khứ, tương lai và hiện tại sẽ bị xua tan. Vì thế giai đoạn này được gọi là "thanh tịnh bởi khắc phục được tâm trạng hoài nghi hay bất định."

After having, understood the causal relations of mind and matter, the meditator proceeds further with insight meditation, and in time there arises the wisdom "seeing the rise and fall of things." When he breathes in and out, he sees the bodily and mental states pass in and out of existence moment after moment. As this wisdom becomes clearer, the mind becomes illumined and happiness and tranquillity arise, along with faith, vigor, mindfulness, wisdom and equanimity.

Sau khi hiểu rỏ mối quan hệ nhân quả của tâm và vật chất hay danh và sắc, hành giả tiến xa hơn với thiền minh sát, và theo thời gian khởi sinh trí tuệ "nhìn thấy những thăng trầm của sự vật." Khi họ thở vào và ra, họ thấy các trạng thái vật lý và tinh thần đi vào và ra trong từng khoảnh khắc tồn tại. Khi trí tuệ này trở nên rỏ ràng hơn, tâm trở nên sáng tỏ và hạnh phúc và tĩnh lặng phát sinh, cùng lúc với niềm tin, năng lực, chánh niệm, trí tuệ và tâm quân bình hay tâm xả.

When these factors appear, he reflects on them, observing their three characteristics of impermanence, suffering and egolessness. The wisdom that distinguishes between the exhilarating results of the practice and the task of detached contemplation is called "purification by knowledge and vision of the true path and the false path." His mind, so purified, sees very clearly the rise and cessation of mind and matter.

Khi những yếu tố này xuất hiện, họ quán chiếu chúng, quan sát ba đặc tính vô thường, khổ và vô ngã của chúng. Trí tuệ để phân biệt giữa các kết quả phấn khởi của việc thực hành và nhiệm vụ của việc chiêm nghiệm tách biệt được gọi là "thanh tịnh bởi sự hiểu biết và sự trông thấy con đường chân chính và con đường sai lầm." Tâm của họ tinh khiết đến độ nhìn thấy rõ̉ sự sinh và diệt của danh và sắc.

He sees next, with each in-breath and out-breath, the breaking up of the concomitant mental and bodily phenomena, which appears just like the bursting of the bubbles seen in a pot of boiling rice, or like the breaking up of bubbles when rain falls on a pool of water, or like the cracking of sesamum or mustard seeds as they are put into a red-hot pan. This wisdom which sees the constant and instantaneous breaking up of mental and bodily phenomena is called "the knowledge of dissolution." Through this wisdom he acquires the ability to see how all factors of mind and body throughout the world arise and disappear.

Kế tiếp, họ thấy rằng với mỗi hơi thở vào và thở ra, sự tan rã của cả hai hiện tượng vật lý và tinh thần, xảy ra giống như sự tan vở của bong bóng trong nồi cơm đang sôi, hoặc như sự tan vở của bong bóng khi mưa rơi trên một vũng nước, hoặc như tiếng nổ lách tách của những hạt mè hay hạt cải khi chúng bị cho vào một cái chảo nóng đỏ. Trí tuệ nhìn thấy sự tan rã liên tục và tức thì của các hiện tượng vật lý và tinh thần này được gọi là "tuệ phân tán." Thông qua trí tuệ này họ có được khả năng để xem làm thế nào mà tất cả các yếu tố của tâm và thân hay danh và sắc trên khắp thế giới phát sinh và biến mất.

Then there arises in him the wisdom that sees all of these phenomena as a fearsome spectacle. He sees that in none of the spheres of existence, not even in the heavenly planes, is there any genuine pleasure or happiness, and he comprehends misfortune and danger.

Sau đó trong họ nảy sinh trí tuệ nhìn thấy tất cả các hiện tượng này như là một cảnh tượng đáng kinh sợ. Họ thấy rằng không một cõi thế giới nào, ngay cả trong các cõi trời, có bất kỳ niềm vui hay hạnh phúc chính đáng, và họ thấu hiểu sự bất hạnh và nguy hiểm.

Then he conceives a revulsion towards all conditioned existence. He arouses an urge to free himself from the world, an all consuming desire for deliverance. Then, by considering the means of releasing himself, there arises in him a state of wisdom which quickly reflects on impermanence, suffering and egolessness, and leads to subtle and deep levels of insight.

Rồi họ cảm thấy ghê tởm đối với tất cả những sự hiện hữu có điều kiện. Họ dấy lên nỗi thôi thúc muốn tự gỉai thoát mình khỏi thế giới, một ước muốn mảnh liệt cho sự giải thoát. Sau đó, bằng cách xem xét các phương tiện giải thoát chính mình, làm nảy sinh trong họ một trạng thái trí tuệ nhanh chóng quán chiếu về vô thường, khổ và vô ngã, và dẫn đến mức độ tinh tế và thâm sâu của tụê giác.

Now there appears in him the comprehension that the aggregates of mind and body appearing in all the world systems are afflicted by suffering, and he realizes that the state of Nibbana, which transcends the world, is exceedingly peaceful and comforting. When he comprehends this situation, his mind attains the knowledge of equanimity about formations. This is the climax of insight meditation, called "purification by knowledge and vision of progress."

Bây giờ xuất hiện trong họ sự thấu hiểu rằng các uẩn của tâm và thân hay danh và sắc xuất hiện trong tất cả mọi sự việc trên thế giới bị ảnh hưởng bởi đau khổ, và họ nhận thấy rằng trạng thái của Niết Bàn, siêu việt thế giới, thì cực kỳ bình an và thoải mái. Khi họ hiểu rỏ tình trạng này, tâm của họ đạt được tuệ xả hành, hoàn toàn thản nhiên đối với các pháp hữu vi. Đây là đỉnh cao của thiền minh sát, gọi là "thanh tịnh bởi kiến thức và tầm nhìn của sự tiến bộ."

As he becomes steadfast, his dexterity in meditation increases, and when his faculties are fully mature he enters upon the cognitive process of the path of stream-entry (sotapatti). With the path of stream-entry he realizes Nibbana and comprehends directly the Four Noble Truths. The path is followed by two or three moments of the fruit of stream-entry, by which he enjoys the fruits of his attainment. Thereafter there arises reviewing knowledge by which he reflects on his progress and attainment.

Khi họ trở nên kiên định, sự nhạ̣y bén trong thiền định của họ gia tăng, và khi năng lực của họ hoàn toàn chín mùôi, họ bước vào quá trình nhận thức về con đường của sự nhập lưu (sotapatti - quả vị Tu Đà Hoàn). Với quả vị nhập lưu họ nhận ra Niết Bàn và thấu hiểu trực tiếp về Tứ Diệu Đế. Con đường được theo sau bởi hai trong ba quả vị Thánh của sự nhập lưu và họ vui hưởng thành quả đạt được của mình. Sau đó khởi sinh việc xem lại kiến thức để họ quán chiếu lại sự tiến triễn và chứng đắc của mình.

If one continues with the meditation with earnest aspiration, one will develop anew the stages of insight knowledge and realize the three higher paths and fruits: those of the once-returner, non-returner, and arahant. These attainments, together with stream-entry, form the seventh stage of purity, purification by knowledge and vision. With each of these attainments one realizes in full the Four Noble Truths, which had eluded one throughout one's long sojourn in the cycle of rebirths. As a result, all the defilements contained within the mind are uprooted and destroyed, and one's mind becomes fully pure and cleansed. One then realizes the state of Nibbana, wherein one is liberated from all the suffering of birth, aging and death, sorrow, lamentation, pain, grief and despair.

Nếu một người tiếp tục thiền định với nguyện vọng tha thiết, họ sẽ tiến xa hơn trong việc phát triễn tuệ giác và nhận ra ba quả vị Thánh cao hơn: Nhất Lai - Tư Đà Hàm, Bất Lai - A Na Hàm, và A La Hán. Những sự chứng đắc này, cùng với quả vị nhập lưu, hình thành giai đoạn thứ bảy của sự tinh khiết, thanh tịnh bởi kiến thức và sự trông thấy. Với mỗi sự chứng ngộ này họ nhận ra đầy đủ về Tứ Diệu Đế, mà đã bị lãng tránh suốt cuộc hành trình dài của một người trong vòng luân hồi sinh tử. Kết quả là tất cả những ô nhiễm chứa trong tâm bị bật gốc và phá hủy, và tâm của họ trở nên hoàn toàn tinh khiết và trong sạch. Sau đó họ nhận ra trạng thái Niết Bàn, trong đó họ được giải thoát khỏi mọi khổ đau của sinh, lão và tử, phiền muộn, hối tiếc, đau, sầu bi và thất vọng.

Conclusion

Kết luận

Births like ours are rare in samsara. We have been fortunate to encounter the Buddha's message, to enjoy the association of good friends, to have the opportunity to listen to the Dhamma. As we have been endowed with all these blessings, if our aspirations are ripe, we can in this very life reach the final goal of Nibbana through its graduated stages of stream-entry, once-returner, non-returner and arahantship. Therefore, let us make our life fruitful by developing regularly the meditation of anapana sati. Having received proper instructions on how to practice this method of meditation, one should purify one's moral virtue by observing the precepts and should surrender one's life to the Triple Gem.

Sinh làm người như chúng ta thật là hiếm trong luân hồi. Chúng ta được may mắn đón nhận thông điệp của Đức Phật, vui hưởng gặp gỡ những người bạn tốt, có cơ hội lắng nghe Pháp. Khi mà chúng ta được hộ trì với tất cả các phước lành này, nếu nguyện vọng của chúng ta chín muồi, chúng ta có thể ngay trong đời này đạt được mục tiêu cuối cùng của Niết Bàn qua các giai đoạn thăng tiến của quả vị̣ Nhập lưu, Nhất lai, Bất lai, và A la hán. Vì thế, chúng ta hảy làm cho đời sống của chúng ta hiệu quả bằng cách thường xuyên phát triễn thiền quán niệm hơi thở. Nhận được những hướng dẫn đúng đấn về cách thực hành phương pháp thiền này, ta nên thanh lọc đức hạnh của mình bằng cách tuân thủ các giới luật và nên qui y Tam Bảo.

One should choose a convenient time for meditation and practice with utmost regularity, reserving the same period each day for one's practice. One may begin by briefly reflecting on the abundant virtues of the Buddha, extending loving-kindness towards all beings, pondering the repulsiveness of the body, and considering the inevitability of death. Then, arousing the confidence that one is walking the very road to Nibbana walked by all the enlightened ones of the past, one should proceed forth on the path of meditation and strive with diligent effort.

Ta nên chọn một thời điểm thuận tiện cho việc thiền định và thực hành đều đặn tối đa, để ra một thời điểm giống nhau mỗi ngày cho việc thực hành. Ta có thể bắt đầu bằng cách quán tưởng ngắn về những đức hạnh dồi dào của Đức Phật, mở rộng lòng từ bi với tất cả chúng sinh, cân nhắc về sự không thoải mái, thô tục của thân thể, và xem xét sự tất yếu của cái chết. Sau đó khơi dậy sự tự tin rằng mình đang bước đi trên cùng con đường tới Niết Bàn đi qua bởi các đấng Giác Ngộ trong quá khứ, ta nên tiến tới trên con đường thiền định và phấn đấu với nỗ lực tinh tấn.

Lưu ý của nhà xuất bản:

Buddhist Publication Society (Hội Xuất Bản Ấn Phẩm Phật Giáo) là một cơ sở từ thiện có phê duyệt nguyện phổ biến Giáo Lý của Đức Phật, trong đó có một thông điệp quan trọng cho mọi người của tất cả các tôn giáo.

Được thành lập vào năm 1958, hội PBS đã xuất bản một loạt các cuốn sách và tài liệu gồm có đủ loại chủ đề. Các ấn phẩm của họ bao gồm các bản dịch chính xác của các bài thuyết giảng của Đức Phật, các công trình tham khảo tiêu chuẩn, cùng với nguyên văn các bài bình phẩm ̣đương đại về tư tưởng và thực hành Phật Giáo. Những tác phẩm này trình bày về Phật Giáo như thật sự là — một sức mạnh năng động đã ảnh hưởng đến những tâm trí dễ tiếp thu trong suốt 2500 năm qua và vẫn như thế cho đến ngày nay kể từ khi nó lần đầu tiên xuất hiện.

Buddhist Publication Society (Hội Xuất Bản Ấn Phẩm Phật Giáo)
P.O. Box ̉61
54, Sangharaja Mawatha
Kandy, Sri Lanka

©1988 Gunawardana Yogashrama Charitable Trust.
You may copy, reformat, reprint, republish, and redistribute this work in any medium whatsoever, provided that: (1) you only make such copies, etc. available free of charge and, in the case of reprinting, only in quantities of no more than 50 copies; (2) you clearly indicate that any derivatives of this work (including translations) are derived from this source document; and (3) you include the full text of this license in any copies or derivatives of this work. Otherwise, all rights reserved. Documents linked from this page may be subject to other restrictions. Bodhi Leaves No. 115 (Kandy: Buddhist Publication Society, 1988). Originally delivered as a sermon under the Bodhi Tree at Kalutara. Published as a Bodhi Leaf with the kind permission of the author. Translated from the Sinhalese by Professor U.D. Jayasekera. Transcribed from the print edition in 1994 by Steven McPeak & John Bullitt under the auspices of the DharmaNet Dharma Book Transcription Project, with the kind permission of the Buddhist Publication Society. Last revised for Access to Insight on 2 November 2013.


©1988 Gunawardana Yogashrama Charitable Trust.
Quý vị có thể làm bản sao, thay đổi hình dạng, in lại, xuất bản lại, và phân phối lại công trình này dưới bất cứ phương tiện nào, với điều kiện: (1) qúy vị chỉ làm các bản sao như vậ̣y, etc, sẵn miễn phí và, trong trường hợp in lại, chỉ với số lượng không quá 50 bản sao; (2) quý vị chỉ ra rõ ràng là bất kỳ dẫn xuất nào của công trình nghiên cứu này (bao gồm cả bản dịch) có nguồn gốc từ nguồn tài liệu này, và (3) quý vị bao gồm đầy đủ văn bản của giấy phép này trong bất kỳ bản sao hay các dẫn xuất của công việc này. Nếu không, phải tôn trọng bản quyền. Các tài liệu liên kết từ trang này có thể bị hạn chế. Bodhi Leaves No. 115 (Kandy: Buddhist Publication Society, 1988). Bài nghiên cứu này vốn được trình bày như một bài giảng dưới cây Bồ Đề tại Kalutara. Được đăng tải như một Lá Bồ Đề với lòng hảo tâm cho phép của tác giả. Dịch từ ngôn ngữ Sinhalese bởi Giáo sư U.D. Jayasekera. Chép lại từ bản in vào năm 1994 bởi Steven McPeak & John Bullitt dưới sự bảo trợ của DharmaNet Dharma Book Transcription Project, với sự cho phép hảo tâm của Buddhist Publication Society. Chỉnh sửa cuối cho Access to Insight vào ngày 2 tháng 11, năm 2013.

How to cite this document (a suggested style): "Anapana Sati: Meditation on Breathing", by Ven. Mahathera Nauyane Ariyadhamma. Access to Insight (Legacy Edition), 2 November 2013, http://www.accesstoinsight.org/lib/authors/ariyadhamma/bl115.html .

Làm thế nào để trích dẫn tài liệu này (một đề nghị bút pháp): "Anapana Sati: Meditation on Breathing" - Thiền Định Chánh Niệm Hơi Thở, by Ven. Mahathera Nauyane Ariyadhamma. Access to Insight (Legacy Edition), ngày 2 tháng 11 năm 2013, http://www.accesstoinsight.org/lib/authors/ariyadhamma/bl115.html .

 Chủ biên và điều hành: TT Thích Giác Đẳng.

  Những đóng góp dịch thuật xin gửi về TT Thích Giác Đẳng tại phamdang0308@gmail.com
Cập nhập ngày: Thứ Tư 29-7-2015

Kỹ thuật trình bày: Minh Hạnh & Thiện Pháp

c | | trở về đầu trang | Home page |