At Sāvatthī.
Now at that time the householder Anāthapiṇḍika was sick, suffering, gravely ill. Then he addressed a man, “Please, mister, go to Venerable Ānanda, and in my name bow with your head to his feet. Say to him: ‘Sir, the householder Anāthapiṇḍika is sick, suffering, gravely ill. He bows with his head to your feet.’ And then say: ‘Sir, please visit him at his home out of compassion.’”

1) Nhân duyên ở Sàvatthi. 2) Lúc bấy giờ, gia chủ Anàthapindika bị bệnh, đau đớn, bị trọng bệnh. Rồi gia chủ Anàthapindika bảo một người: -- Hãy đến, này Bạn. Hãy đi đến Tôn giả Ananda; sau khi đến nhân danh ta, cúi đầu đảnh lễ chân Tôn giả Ananda và thưa: "Gia chủ Anàthapindika, thưa Tôn giả, bị bệnh, đau đớn, bị trọng bệnh, cúi đầu đảnh lễ chân Tôn giả Ananda"; và thưa: "Lành thay, thưa Tôn giả, nếu Tôn giả Ananda đi đến trú xứ của gia chủ Anàthapindika vì lòng từ mẫn!"

“Yes, sir,” that man replied. He did as Anāthapiṇḍika asked. Ānanda consented in silence.

- Thưa vâng, Gia chủ. Người ấy, vâng đáp gia chủ Anàthapindika, đi đến Tôn giả Ananda; sau khi đến, đảnh lễ Tôn giả Ananda rồi ngồi xuống một bên.

Then Venerable Ānanda robed up in the morning and, taking his bowl and robe, went to the home of the householder Anāthapiṇḍika. He sat down on the seat spread out and said to Anāthapiṇḍika, “Householder, I hope you’re coping; I hope you’re getting better. And I hope the pain is fading, not growing; that its fading, not its growing, is apparent.”

Rồi Tôn giả Ananda, vào buổi sáng, đắp y, cầm y bát đi đến trú xứ của gia chủ Anàthapindika; sau khi đến, ngồi xuống chỗ đã soạn sẵn. Ngồi xuống, Tôn giả Ananda nói với gia chủ Anàthapindika: -- Này Gia chủ, Gia chủ có kham nhẫn nổi không? Gia chủ có chịu đựng nổi không? Có phải khổ thọ giảm thiểu, không có tăng trưởng? Có phải có dấu hiệu giảm thiểu, không có tăng trưởng?

“Sir, I’m not keeping well, I’m not alright. The pain is terrible and growing, not fading; its growing is evident, not its fading.”

-- Thưa Tôn giả, con không thể kham nhẫn. Con không thể chịu đựng. Kịch liệt là khổ thọ nơi con. Chúng tăng trưởng, không có giảm thiểu. Có dấu hiệu chúng tăng trưởng, không giảm thiểu.

“Householder, when an uneducated ordinary person has four things, they’re frightened and terrified, and fear what awaits them after death. What four? Firstly, an uneducated ordinary person distrusts the Buddha. Seeing in themselves that distrust of the Buddha, they’re frightened and terrified, and fear what awaits them after death.

-- Vì rằng kẻ vô văn phàm phu, này Gia chủ, thành tựu lòng bất tín đối với Phật, nên sau khi thân hoại mạng chung, bị sanh vào ác sanh, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Nhưng Gia chủ không có lòng bất tín đối với Phật. Trái lại, Gia chủ thành tựu lòng tịnh tín bất động đối với Phật: "Ðây là bậc Ứng Cúng... Phật, Thế Tôn". Nếu Gia chủ tự thấy lòng tịnh tín bất động của Gia chủ đối với đức Phật, thời lập tức các cảm thọ của Gia chủ được an tịnh.Ở đây, này Gia chủ, kẻ vô văn phàm phu thành tựu lòng bất tín đối với Phật. Khi vị ấy tự thấy lòng bất tín của mình đối với Phật, vị ấy run sợ, hoảng hốt, sợ hãi về cái chết, về đời sau.

Furthermore, an uneducated ordinary person distrusts the teaching …

Lại nữa, này Gia chủ, kẻ vô văn phàm phu thành tựu lòng bất tín đối với Pháp. Khi vị ấy tự thấy lòng bất tín của mình đối với Pháp; vị ấy run sợ, hoảng hốt, sợ hãi về cái chết, về đời sau. Lại nữa, này Gia chủ, kẻ vô văn phàm phu thành tựu lòng bất tín đối với chúng Tăng. Khi vị ấy tự thấy lòng bất tín của mình đối với chúng Tăng; vị ấy run sợ, hoảng hốt, sợ hãi về cái chết, về đời sau. Lại nữa, này Gia chủ, kẻ vô văn phàm phu thành tựu ác giới. Khi vị ấy tự thấy sự thành tựu ác giới của mình; vị ấy run sợ, hoảng hốt, sợ hãi về cái chết, về đời sau. Do thành tựu bốn pháp này, này Gia chủ, kẻ vô văn phàm phu run sợ, hoảng hốt, sợ hãi về cái chết, về đời sau.

Furthermore, an uneducated ordinary person distrusts the Saṅgha …

Khi vị ấy tự thấy lòng bất tín của mình đối với chúng Tăng; vị ấy run sợ, hoảng hốt, sợ hãi về cái chết, về đời sau. Lại nữa, này Gia chủ, kẻ vô văn phàm phu thành tựu ác giới. Khi vị ấy tự thấy sự thành tựu ác giới của mình; vị ấy run sợ, hoảng hốt, sợ hãi về cái chết, về đời sau. Do thành tựu bốn pháp này, này Gia chủ, kẻ vô văn phàm phu run sợ, hoảng hốt, sợ hãi về cái chết, về đời sau.

Furthermore, an uneducated ordinary person has unethical conduct. Seeing in themselves that unethical conduct, they’re frightened and terrified, and fear what awaits them after death. When an uneducated ordinary person has these four things, they’re frightened and terrified, and fear what awaits them after death.

Lại nữa, này Gia chủ, vị Ða văn Thánh đệ tử thành tựu lòng tịnh tín bất động đối với Pháp: "Pháp được Thế Tôn khéo thuyết... chỉ người có trí tự mình giác hiểu". Khi tự thấy lòng tịnh tín bất động của mình đối với Pháp, vị ấy không run sợ, không hoảng hốt, không sợ hãi về cái chết, về đời sau. Lại nữa, này Gia chủ... lòng tịnh tín bất động đối với chúng Tăng: "Diệu hạnh là đệ tử của Thế Tôn... là phước điền vô thượng ở đời"... về đời sau. Lại nữa, này Gia chủ, vị Ða văn Thánh đệ tử thành tựu các giới được các bậc Thánh ái kính... đưa đến Thiền định. Khi tự thấy sự thành tựu các giới được các bậc Thánh ái kính của mình, vị ấy không run sợ, không hoảng hốt, không sợ hãi về cái chết, về đời sau. Thành tựu bốn pháp này, này Gia chủ, bậc Ða văn Thánh đệ tử không có run sợ, không có hoảng hốt, không sợ hãi về cái chết, về đời sau.

When an educated noble disciple has four things, they’re not frightened or terrified, and don’t fear what awaits them after death. What four? Firstly, a noble disciple has experiential confidence in the Buddha … Seeing in themselves that experiential confidence in the Buddha, they’re not frightened or terrified, and don’t fear what awaits them after death.

Do thành tựu bốn pháp, này Gia chủ, vị Ða văn Thánh đệ tử không có run sợ, không có hoảng hốt, không có sợ hãi về cái chết, về đời sau. Thế nào là bốn? Ở đây, này Gia chủ, vị Ða văn Thánh đệ tử thành tựu tịnh tín bất động đối với Phật: "Ðây là là bậc Ứng Cúng, ... Phật, Thế Tôn". Khi tự thấy lòng tịnh tín bất động của mình đối với Phật, vị ấy không run sợ, không hoảng hốt, không sợ hãi về cái chết, về đời sau.

Furthermore, a noble disciple has experiential confidence in the teaching …

Lại nữa, này Gia chủ, vị Ða văn Thánh đệ tử thành tựu lòng tịnh tín bất động đối với Pháp: "Pháp được Thế Tôn khéo thuyết... chỉ người có trí tự mình giác hiểu". Khi tự thấy lòng tịnh tín bất động của mình đối với Pháp, vị ấy không run sợ, không hoảng hốt, không sợ hãi về cái chết, về đời sau.

Furthermore, a noble disciple has experiential confidence in the Saṅgha …

Lại nữa, này Gia chủ... lòng tịnh tín bất động đối với chúng Tăng: "Diệu hạnh là đệ tử của Thế Tôn... là phước điền vô thượng ở đời"... về đời sau.

Furthermore, a noble disciple’s ethical conduct is loved by the noble ones, unbroken, impeccable, spotless, and unmarred, liberating, praised by sensible people, not mistaken, and leading to immersion. Seeing in themselves that ethical conduct loved by the noble ones, they’re not frightened or terrified, and don’t fear what awaits them after death.

Lại nữa, này Gia chủ, vị Ða văn Thánh đệ tử thành tựu các giới được các bậc Thánh ái kính... đưa đến Thiền định. Khi tự thấy sự thành tựu các giới được các bậc Thánh ái kính của mình, vị ấy không run sợ, không hoảng hốt, không sợ hãi về cái chết, về đời sau.

When an educated noble disciple has these four things, they’re not frightened or terrified, and don’t fear what awaits them after death.”

Thành tựu bốn pháp này, này Gia chủ, bậc Ða văn Thánh đệ tử không có run sợ, không có hoảng hốt, không sợ hãi về cái chết, về đời sau.

“Sir, Ānanda, I am not afraid. What have I to fear? For I have experiential confidence in the Buddha … the teaching … the Saṅgha … And of the training rules appropriate for laypeople taught by the Buddha, I don’t see any that I have broken.”

-- Thưa Tôn giả Ananda, con không sợ hãi. Sao con có thể sợ hãi? Con đã thành tựu lòng tịnh tín đối với Phật: "Ðây là bậc Ứng Cúng... Phật, Thế Tôn"... đối với Pháp... đối với chúng Tăng... thưa Tôn giả, phàm có những học giới hòa kính (sàmici) tại gia do Thế Tôn thuyết giảng, con thấy không có tự mình vi phạm một giới nào.

“You’re fortunate, householder, so very fortunate, You have declared the fruit of stream-entry.”

-- Lợi đắc thay cho Gia chủ, này Gia chủ! Khéo lợi đắc thay cho Gia chủ, này Gia chủ ! Gia chủ đã tuyên bố về Dự lưu quả rồi.

 Chủ biên và điều hành: TT Thích Giác Đẳng.

  Những đóng góp dịch thuật xin gửi về TT Thích Giác Đẳng tại phamdang0308@gmail.com
Cập nhập ngày: Thứ Sáu 06-11-2020

Trách nhiệm kỹ thuật trình bày, web masters: Minh Hạnh & Thiện Pháp, Thủy Tú & Phạm Cương

 | | trở về đầu trang | Home page |