thus have i heard. On one occasion the Blessed One was dwelling at Rajagaha in the Bamboo Grove, the Squirrel Sanctuary. Now on that occasion the Venerable Vakkali was dwelling in a potter’s shed, sick, afflicted, gravely ill. Then the Venerable Vakkali addressed his attendants:

1) Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn trú ở Ràjagaha (Vương Xá), Veluvana (Trúc Lâm), tại chỗ nuôi dưỡng các con sóc. 2) Lúc bấy giờ, Tôn giả Vakkali trú tại nhà một thợ gốm, đang bị bệnh, đau đớn, trầm trọng. 3) Rồi Tôn giả Vakkali gọi những người thị giả:

“Come, friends, approach the Blessed One, pay homage to him in my name with your head at his feet, and say: ‘Venerable sir, the bhikkhu Vakkali is sick, afflicted, gravely ill; he pays homage to the Blessed One with his head at his feet.’ Then say: ‘It would be good, venerable sir, if the Blessed One would approach the bhikkhu Vakkali out of compassion.’”

-- Ðến đây, các Hiền giả! Hãy đi đến Thế Tôn; sau khi đến, nhân danh ta cúi đầu đảnh lễ chân Thế Tôn và thưa: "Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo Vakkali bị bệnh, đau đớn, trầm trọng; (Vakkali) cúi đầu đảnh lễ chân Thế Tôn và thưa: 'Lành thay, bạch Thế Tôn, Thế Tôn vì lòng từ mẫn hãy đi đến Tỷ-kheo Vakkali.’" 4) -- Thưa vâng, Hiền giả. Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Tôn giả Vakkali, đi đến Thế Tôn; sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, các Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:

“Yes, friend,” those bhikkhus replied, and they approached the Blessed One, paid homage to him, sat down to one side, and delivered their message. The Blessed One consented by silence.

-- Tỷ-kheo Vakkali, bạch Thế Tôn, bị bệnh, đau đớn trầm trọng. Vị ấy cúi đầu đảnh lễ chân Thế Tôn và có thưa như sau: "Lành thay, bạch Thế Tôn! Thế Tôn vì lòng từ mẫn hãy đi đến Tỷ-kheo Vakkali". 5) Thế Tôn im lặng nhận lời.

Then the Blessed One dressed and, taking bowl and robe, approached the Venerable Vakkali. The Venerable Vakkali saw the Blessed One coming in the distance and stirred on his bed. The Blessed One said to him: “Enough, Vakkali, do not stir on your bed. There are these seats ready, I will sit down there.”

6) Rồi Thế Tôn đắp y, cầm y bát, đi đến Tỷ-kheo Vakkali. 7) Tôn giả Vakkali thấy Thế Tôn từ xa đi đến, thấy vậy liền cố gắng từ giường ngồi dậy. 8) Thế Tôn nói với Tôn giả Vakkali: -- Thôi Vakkali, Ông chớ có cố gắng từ giường ngồi dậy. Có chỗ ngồi đã soạn sẵn, Ta sẽ ngồi trên chỗ ngồi ấy.

The Blessed One then sat down on the appointed seat and said to the Venerable Vakkali: “I hope you are bearing up, Vakkali, I hope you are getting better. I hope that your painful feelings are subsiding and not increasing, and that their subsiding, not their increase, is to be discerned.”

Rồi Thế Tôn ngồi xuống trên chỗ ngồi đã soạn sẵn. 9) Sau khi ngồi, Thế Tôn nói với Tôn giả Vakkali: -- Ông có kham nhẫn được không? Ông có chịu đựng được không? Có phải khổ thọ tổn giảm, không tăng trưởng? Có phải có những dấu hiệu tổn giảm, không phải tăng trưởng?

“Venerable sir, I am not bearing up, I am not getting better. Strong painful feelings are increasing in me, not subsiding, and their increase, not their subsiding, is to be discerned.”

-- Bạch Thế Tôn, con không có thể kham nhẫn! Con không có thể chịu đựng! Khổ thọ kịch liệt tăng trưởng nơi con, không có tổn giảm. Có những dấu hiệu tăng trưởng, không có tổn giảm.

“I hope then, Vakkali, that you are not troubled by remorse and regret.”

-- Này Vakkali, Ông có gì phân vân, hối hận không?

“Indeed, venerable sir, I have quite a lot of remorse and regret.”

-- Bạch Thế Tôn, thật sự con có nhiều phân vân, có nhiều hối hận!

“I hope, Vakkali, that you have nothing for which to reproach yourself in regard to virtue.”

-- Này Vakkali, Ông có gì tự trách mình về giới luật không?

“I have nothing, venerable sir, for which to reproach myself in regard to virtue.”

-- Bạch Thế Tôn, con không có gì tự trách mình về giới luật.

“Then, Vakkali, if you have nothing for which to reproach yourself in regard to virtue, why are you troubled by remorse and regret?”

-- Này Vakkali, nếu Ông không có gì tự trách mình về giới luật, vậy Ông có gì phân vân, có gì hối hận?

“For a long time, venerable sir, I have wanted to come to see the Blessed One, but I haven’t been fit enough to do so.”

-- Ðã từ lâu, bạch Thế Tôn, con muốn đến để được thấy Thế Tôn. Nhưng thân con không đủ sức mạnh để được đến thấy Thế Tôn.

“Enough, Vakkali! Why do you want to see this foul body? One who sees the Dhamma sees me; one who sees me sees the Dhamma. For in seeing the Dhamma, Vakkali, one sees me; and in seeing me, one sees the Dhamma.

-- Thôi vừa rồi, này Vakkali, có gì đáng thấy đối với cái thân hôi hám này. Này Vakkali, ai thấy Pháp, người ấy thấy Ta. Ai thấy Ta, người ấy thấy Pháp. Này Vakkali, đang thấy Pháp, là thấy Ta. Ðang thấy Ta, là thấy Pháp.

“What do you think, Vakkali, is form permanent or impermanent?”— “Impermanent, venerable sir.”…—“Therefore … Seeing thus … He understands: ‘… there is no more for this state of being.’”

-- Này Vakkali, Ông nghĩ thế nào, sắc là thường hay vô thường? -- Là vô thường, bạch Thế Tôn. -- Cái gì vô thường, là khổ hay là lạc? -- Là khổ, bạch Thế Tôn. -- Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, có hợp lý chăng khi quán cái ấy là: "Cái này là của tôi. Cái này là tôi. Cái này là tự ngã của tôi"? -- Thưa không, bạch Thế Tôn. -- Thọ... Tưởng... Các hành... Thức là thường hay vô thường? -- Là vô thường, bạch Thế Tôn. -- Cái gì vô thường là khổ hay lạc? -- Là khổ, bạch Thế Tôn. -- Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, có hợp lý chăng khi quán cái ấy là: "Cái này là của tôi. Cái này là tôi. Cái này là tự ngã của tôi"? -- Thưa không, bạch Thế Tôn. 15-16) -- Do vậy, ở đây... thấy vậy... "... không còn trở lui trạng thái này nữa". Vị ấy biết rõ như vậy.

Then the Blessed One, having given this exhortation to the Venerable Vakkali, rose from his seat and departed for Mount Vulture Peak.

Rồi Thế Tôn, sau khi giáo giới cho Tôn giả Vakkali với bài giáo giới này, từ chỗ ngồi đứng dậy và đi đến núi Gijjhakuuta (Linh Thứu).

Then, not long after the Blessed One had left, the Venerable Vakkali addressed his attendants thus: “Come, friends, lift me up on this bed and carry me to the Black Rock on the Isigili Slope. How can one like me think of dying among the houses?”

Rồi Tôn giả Vakkali, sau khi Thế Tôn đi không bao lâu, liền gọi các thị giả: -- Hãy đến ta, này chư Hiền, hãy nhắc cái giường ta và đi đến tảng đá đen (kàlasilà), tại sườn núi Isigili (hang của Tiên nhân). Làm sao người như ta, lại nghĩ đến mệnh chung trong một căn nhà?

“Yes, friend,” those bhikkhus replied and, having lifted up the Venerable Vakkali on the bed, they carried him to the Black Rock on the Isigili Slope.

-- Thưa vâng, Hiền giả. Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Tôn giả Vakkali, nhắc chiếc giường với Tôn giả Vakkali đi đến tảng đá đen, tại sườn núi Isigili.

The Blessed One spent the rest of that day and night on Mount Vulture Peak. Then, when the night was well advanced, two devatās of stunning beauty approached the Blessed One, illuminating the whole of Mount Vulture Peak…. Standing to one side, one devatā said to the Blessed One: “Venerable sir, the bhikkhu Vakkali is intent on deliverance.” The other devatā said: “Surely, venerable sir, he will be liberated as one well liberated.” This is what those devatās said. Having said this, they paid homage to the Blessed One and, keeping him on their right, they disappeared right there.

Thế Tôn, đêm ấy và ngày còn lại, trú tại núi Gijjhakuuta. 21) Rồi hai vị Thiên, trong khi đêm đã gần tàn, với nhan sắc thù thắng, chói sáng toàn vùng núi Gijjakuuta, đi đến Thế Tôn... liền đứng một bên. 22) Ðứng một bên, một vị Thiên bạch Thế Tôn: -- Tỷ-kheo Vakkali, bạch Thế Tôn, đang có ý nghĩ muốn giải thoát. 23) Vị Thiên khác bạch Thế Tôn: -- Vị ấy muốn giải thoát, chắc chắn được khéo giải thoát. 24) Chư Thiên ấy nói như vậy xong; sau khi nói vậy, liền đảnh lễ Thế Tôn, thân bên hữu hướng về Ngài, rồi biến mất tại chỗ.

Then, when the night had passed, the Blessed One addressed the bhikkhus thus: “Come, bhikkhus, approach the bhikkhu Vakkali and say to him: ‘Friend Vakkali, listen to the word of the Blessed One and two devatās. Last night, friend, when the night was well advanced, two devatās of stunning beauty approached the Blessed One. One devatā said to the Blessed One: “Venerable sir, the bhikkhu Vakkali is intent on deliverance.” The other devatā said: “Surely, venerable sir, he will be liberated as one well liberated.” And the Blessed One says to you, friend Vakkali: “Do not be afraid, Vakkali, do not be afraid! Your death will not be a bad one. Your demise will not be a bad one.”’”

Rồi Thế Tôn, sau khi đêm ấy đã qua, liền gọi các Tỷ-kheo: -- Hãy đến, này các Tỷ-kheo. Hãy đi đến Tỷ-kheo Vakkali; sau khi đến, nói với Tỷ-kheo Vakkali như sau: "Này Hiền giả Vakkali, hãy nghe lời nói của hai vị Thiên nói với Thế Tôn. Này Hiền giả, đêm nay, hai vị Thiên, sau khi đêm đã gần tàn, với nhan sắc thù thắng, chói sáng toàn vùng Gijjhakuuta, đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng một bên. Ðứng một bên, này Hiền giả, một vị Thiên bạch Thế Tôn: 'Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo Vakkali đang có ý nghĩ muốn giải thoát’. Vị Thiên khác bạch Thế Tôn: 'Vị ấy muốn giải thoát, chắc chắn được khéo giải thoát’. Và Hiền giả Vakkali, Thế Tôn nói với Hiền giả như sau: "Này Vakkali, chớ có sợ! Này Vakkali, chớ có sợ! Cái chết của Ông sẽ không phải là ác hạnh, sự mệnh chung không phải ác hạnh!’"

“Yes, venerable sir,” those bhikkhus replied, and they approached the Venerable Vakkali and said to him: “Friend Vakkali, listen to the word of the Blessed One and two devatās.”

-- Thưa vâng, bạch Thế Tôn. Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn, đi đến Tôn giả Vakkali; sau khi đến, thưa với Tôn giả Vakkali: -- Này Hiền giả Vakkali, hãy nghe lời nói của Thế Tôn và hai vị Thiên.

Then the Venerable Vakkali addressed his attendants: “Come, friends, lower me from the bed. How can one like me think of listening to the Blessed One’s teaching while seated on a high seat.”

Rồi Tôn giả Vakkali gọi các vị thị giả: -- Hãy đến, này chư Hiền! Hãy nhắc tôi ra khỏi giường. Làm sao một người như tôi, có thể nghĩ ngồi trên chỗ ngồi cao để nghe Thế Tôn giảng dạy.

“Yes, friend,” those bhikkhus replied, and they lowered the Venerable Vakkali from the bed.

-- Thưa vâng, này Hiền giả. Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Tôn giả Vakkali, nhắc Tôn giả Vakkali ra khỏi giường.

“Last night, friend, two devatās of stunning beauty approached the Blessed One. One devatā said to the Blessed One: ‘Venerable sir, the bhikkhu Vakkali is intent on deliverance.’ The other devatā said: ‘Surely, venerable sir, he will be liberated as one well liberated.’ And the Blessed One says to you, friend Vakkali: ‘Do not be afraid, Vakkali, do not be afraid! Your death will not be a bad one. Your demise will not be a bad one.’”

-- Này Hiền giả, đêm nay, hai vị Thiên, sau khi đêm đã gần tàn... đứng một bên. Ðứng một bên, này Hiền giả, một vị Thiên bạch Thế Tôn: "Tỷ-kheo Vakkali, bạch Thế Tôn, đang nghĩ đến tự giải thoát". Vị Thiên kia bạch Thế Tôn: "Vị ấy, bạch Thế Tôn, muốn giải thoát sẽ được khéo giải thoát". Và Thế Tôn, này Hiền giả Vakkali, nói với Hiền giả như sau: "Chớ có sợ, này Vakkali! Chớ có sợ, này Vakkali! Cái chết của Ông không phải là ác hạnh, sự mệnh chung không phải là ác hạnh!"

“Well then, friends, pay homage to the Blessed One in my name with your head at his feet and say: ‘Venerable sir, the bhikkhu Vakkali is sick, afflicted, gravely ill; he pays homage to the Blessed One with his head at his feet.’ Then say: ‘Form is impermanent: I have no perplexity about this, venerable sir, I do not doubt that whatever is impermanent is suffering. I do not doubt that in regard to what is impermanent, suffering, and subject to change, I have no more desire, lust, or affection. Feeling is impermanent … Perception is impermanent … Volitional formations are impermanent … Consciousness is impermanent: I have no perplexity about this, venerable sir, I do not doubt that whatever is impermanent is suffering. I do not doubt that in regard to what is impermanent, suffering, and subject to change, I have no more desire, lust, or affection.’”

-- Vậy này chư Hiền, hãy nhân danh ta cúi đầu đảnh lễ chân Thế Tôn và thưa: "Tỷ-kheo Vakkali, bạch Thế Tôn, bị bệnh, đau đớn, bệnh trầm trọng! Vị ấy cúi đầu đảnh lễ chân Thế Tôn, và nói như sau: 'Sắc là vô thường, bạch Thế Tôn. Con không có ngờ gì vấn đề này, bạch Thế Tôn! Cái gì vô thường là khổ, con không có nghi ngờ gì vấn đề này. Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, ở đây con không có lòng dục, lòng tham, lòng ái. Con không có nghi ngờ gì vấn đề này. Thọ là vô thường, bạch Thế Tôn, con không có nghi ngờ gì vấn đề này. Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, ở đây con không có lòng dục, lòng tham, lòng ái. Con không có nghi ngờ gì vấn đề này. Tưởng là vô thường... Các hành là vô thường... Thức là vô thường, bạch Thế Tôn, con không có nghi ngờ gì về vấn đề này. Cái gì vô thường là khổ, con không có nghi ngờ gì vấn đề này. Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, ở đây con không có lòng dục, lòng tham, lòng ái. Con không có nghi ngờ gì về vấn đề này.’"

“Yes, friend,” those bhikkhus replied, and then they departed. Then, not long after those bhikkhus had left, the Venerable Vakkali used the knife.

-- Thưa vâng, này Hiền giả. Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Tôn giả Vakkali rồi ra đi. 32) Tôn giả Vakkali, khi các Tỷ-kheo ấy đi không bao lâu liền đem lại con dao.

Then those bhikkhus approached the Blessed One … and delivered their message. The Blessed One then addressed the bhikkhus thus: “Come, bhikkhus, let us go to the Black Rock on the Isigili Slope, where the clansman Vakkali has used the knife.”

Rồi các Tỷ-kheo ấy đi đến Thế Tôn; sau khi đến, liền ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, các Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn: -- Tỷ-kheo Vakkali, bạch Thế Tôn, bị bệnh, đau đớn, bị trọng bệnh. Vị ấy cúi đầu đảnh lễ chân Thế Tôn, và nói như sau: "Sắc là vô thường, bạch Thế Tôn, con không có nghi ngờ gì về vấn đề này. Cái gì vô thường là khổ, con không có nghi ngờ gì về vấn đề này. Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, ở đây con không có lòng dục, lòng tham, lòng ái. Con không có nghi ngờ gì về vấn đề này. Thọ... Tưởng... Các hành... Thức là vô thường, bạch Thế Tôn, con không có nghi ngờ gì về vấn đề này. Cái gì vô thường là khổ, con không có nghi ngờ gì về vấn đề này. Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, ở đây con không có lòng dục, lòng tham, lòng ái. Con không có nghi ngờ gì về vấn đề này". 34) Rồi Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: -- Này các Tỷ-kheo, chúng ta hãy đi đến Isigili, chỗ tảng đá đen. Ở đấy, Thiện gia nam tử đem lại con dao.

“Yes, venerable sir,” those bhikkhus replied. Then the Blessed One, together with a number of bhikkhus, went to the Black Rock on the Isigili Slope. The Blessed One saw in the distance the Venerable Vakkali lying on the bed with his shoulder turned.

-- Thưa vâng, bạch Thế Tôn. Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn cùng với số đông Tỷ-kheo đi đến Isigili, chỗ tảng đá đen. 36) Và ở đàng xa, Thế Tôn thấy Tôn giả Vakkali nằm trên giường, với vai co quắp lại.

Now on that occasion a cloud of smoke, a swirl of darkness, was moving to the east, then to the west, to the north, to the south, upwards, downwards, and to the intermediate quarters. The Blessed One then addressed the bhikkhus thus: “Do you see, bhikkhus, that cloud of smoke, that swirl of darkness, moving to the east, then to the west, to the north, to the south, upwards, downwards, and to the intermediate quarters?”

Lúc bấy giờ, một đám khói đen, một luồng ám khí đi về phía Ðông, đi về phía Tây, đi về phía Bắc, đi về phía Nam, đi về phía trên, đi về phía dưới, đi về phía bốn góc. Rồi Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: -- Này các Tỷ-kheo, các Ông có thấy đám khói đen ấy, luồng ám khí ấy đi về phía Ðông... đi về phía bốn góc không?

“Yes, venerable sir.”

- Thưa có, bạch Thế Tôn.

“That, bhikkhus, is Mara the Evil One searching for the consciousness of the clansman Vakkali, wondering: ‘Where now has the consciousness of the clansman Vakkali been established?’ However, bhikkhus, with consciousness unestablished, the clansman Vakkali has attained final Nibbāna.”

-- Ðó là Ác ma, này các Tỷ-kheo, đang đi tìm thức của Thiện nam tử Vakkali và nói: "thức của Thiện nam tử Vakkali an trú tại chỗ nào?" Nhưng này các Tỷ-kheo, với thức không an trú tại một chỗ nào, Thiện nam tử Vakkali đã nhập Niết-bàn một cách hoàn toàn!

 Chủ biên và điều hành: TT Thích Giác Đẳng.

  Những đóng góp dịch thuật xin gửi về TT Thích Giác Đẳng tại phamdang0308@gmail.com
Cập nhập ngày: Thứ Năm 3-12-2020

webmasters: Minh Hạnh & Thiện Pháp, Thủy Tú & Phạm Cương

 | | trở về đầu trang | Home page |