SN 2.1. With Kassapa (1st) - Paṭhamakassapasutta

So I have heard.

At one time the Buddha was staying near Sāvatthī in Jeta’s Grove, Anāthapiṇḍika’s monastery. Then, late at night, the glorious god Kassapa, lighting up the entire Jeta’s Grove, went up to the Buddha, bowed, stood to one side, and said to him:

“The Buddha has revealed the mendicant, but not his instructions to a mendicant.”

I. Kassapa - Ca-diếp (Tạp 49.24 - Ca-diếp, Ðại 2,361c) Biệt Tạp 15.19, Ðại 2,480c)

1) Như vầy tôi nghe.

Một thời Thế Tôn ở Sàvatthi (Xá-vệ), Jetavana (Thắng Lâm), tại vườn ông Anàthapindika (Cấp Cô Ðộc). Rồi Thiên tử Kassapa (Ca-diếp), sau khi đêm đã gần mãn, với dung sắc thù thắng chói sáng toàn vùng Jetavana, đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng một bên. Ðứng một bên, Thiên tử Kassapa bạch Thế Tôn:

-- Thế Tôn đề cao Tỷ-kheo và sự giáo giới vị Tỷ kheo cho chúng con.

“Well then, Kassapa, clarify this matter yourself.”

2) -- Vậy này Kassapa, hãy nói lên ở đây về vấn đề ấy.

(Kassapa):

“They should train in following good advice,
in attending closely to ascetics,
in sitting alone in hidden places,
and in calming the mind.”

3) (Kassapa):

Hãy học điều khéo nói,
Trong hạnh nghiệp Sa-môn,
Vắng lặng, ngồi một mình,
Với tâm tư an tịnh.

That’s what the god Kassapa said, and the teacher approved. Then Kassapa, knowing that the teacher approved, bowed and respectfully circled the Buddha, keeping him on his right, before vanishing right there.

4) Thiên tử Kassapa nói như vậy. Bậc Ðạo Sư chấp nhận. Rồi Thiên tử Kassapa, sau khi được biết: "Bậc Ðạo Sư đã chấp nhận ta", đảnh lễ Thế Tôn, thân bên hữu hướng về Ngài, rồi biến mất từ chỗ ấy.

SN 2.2 With Kassapa (2nd) - Dutiyakassapasutta

At Sāvatthī.

Standing to one side, the god Kassapa recited this verse in the Buddha’s presence:

“Suppose a mendicant is one who practices absorption, freed in mind.
If they want to reach the heart’s peace,
having known the arising and passing of the world,
healthy-minded, independent, that is their reward.”

II. Kassapa (S.i,46) (Tạp 49.25 Ca-diếp, Ðại 2,361c) (Biệt Tạp 15.20, Ðại 2,480a)

1) Tại Sàvatthi.

2) Ðứng một bên, Thiên tử Kassapa nói lên bài kệ này trước Thế Tôn:

Với tâm tư giải thoát,
Vị Tỷ-kheo tu thiền,
Và với lòng ước vọng,
Ðạt được tâm sở nguyện.
Sau khi biết cuộc đời,
Hưng thịnh và phế tàn,
Tâm thuần, không nương tựa,
Hưởng lợi quả như chơn.

SN 2.3. With Māgha - Māghasutta

At Sāvatthī.

Then, late at night, the glorious god Māgha, lighting up the entire Jeta’s Grove, went up to the Buddha, bowed, stood to one side, and addressed the Buddha in verse:

III. Màgha (S.i,47) (Tạp 49.16 Ma-khứu, Ðại 2,360c) (Biệt Tạp 15.11, Ðại 2,478c)

1) Tại Sàvatthi.

2) Rồi Thiên tử Màgha, sau khi đêm đã gần mãn, với dung sắc thù thắng chói sáng toàn vùng Jetavana, đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng một bên. Ðứng một bên, Thiên tử Màgha nói với Thế Tôn bài kệ:

“When what is incinerated do you sleep at ease?
When what is incinerated is there no sorrow?
What is the one thing
whose killing you approve?”

3)

Sát vật gì được lạc?
Sát vật gì không sầu?
Có một pháp loại gì,
Ngài tán đồng sát hại,
Tôn giả Gotama?

Buddha:

“When anger’s incinerated you sleep at ease.
When anger’s incinerated there is no sorrow.
Vatrabhū, anger has a poisoned root,
and a honey tip.
The noble ones praise the slaying of anger,
for when it’s incinerated there is no sorrow.”

4) (Thế Tôn)

Sát phẫn nộ được lạc,
Sát phẫn nộ không sầu,
Phẫn nộ với độc căn,
Với vị ngọt tối thượng.
Pháp ấy bậc Thánh Hiền,
Tán đồng sự sát hại.
Sát pháp ấy không sầu,
Này Hiền giả Thiên nhân.

SN 2.4 With Māghadha - Māgadhasutt

At Sāvatthī. Standing to one side, the god Māgadha addressed the Buddha in verse:

“How many lamps are there,
to shine their light on the world?
We’ve come to ask the Buddha;
how are we to understand this?”
“There are four lamps in the world,
a fifth is not found.
The sun shines by day,
the moon glows at night,
while a fire burns both
by day and by night.
But a Buddha is the best of lights:
this is the supreme radiance.”

IV. Màgadha

1) Ðứng một bên, Thiên tử Màgadha nói lên với Thế Tôn bài kệ:

Vật gì chiếu sáng đời,
Do chúng, đời chói sáng?
Con đến hỏi Thế Tôn,
Muốn nghe lời giải đáp.
Bốn vật chiếu sáng đời,
Thứ năm đây không có,
Ngày, mặt trời sáng chói,
Ðêm, mặt trăng tỏ rạng,
Lửa cháy đỏ đêm ngày,
Chói sáng khắp mọi nơi,
Chánh giác sáng tối thắng,
Sáng này sáng vô thượng.

SN 2.5. With Dāmali - Dāmalisutta

At Sāvatthī. Then,

late at night, the glorious god Dāmali, lighting up the entire Jeta’s Grove, went up to the Buddha, bowed, stood to one side, and recited this verse in the Buddha’s presence:

V. Dàmali (Tạp 49.18, Ðàm-ma, Ðại 2,360c) (Biệt Tạp 15.13, Ðại 2,478c)

1) Tại Sàvatthi.

2) Thiên tử Dàmali, sau khi đêm đã gần mãn, với dung sắc thù thắng chói sáng toàn vùng Jetavana, đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng một bên. Ðứng một bên, Thiên tử Dàmali nói lên bài kệ này trước Thế Tôn:

“This is what should be done by a brahmin:
unrelenting striving.
Then, with the giving up of sensual pleasures,
they won’t hope to be reborn.”

3) Ở đây, Bà-la-môn,
Tinh cần, không biếng nhác,
Ðoạn trừ các dục vọng,
Nhờ vậy không tái sanh.

Buddha:

“The brahmin has nothing left to do,” said the Buddha to Dāmali,
“for they’ve completed the task.
So long as a person fails to gain a footing in the river,
they strive with every limb.
But someone who has gained a footing and stands on dry land
need not strive, for they have reached the far shore.
Dāmali, this is a simile for the brahmin,
with defilements ended, self-disciplined, and practicing absorption.
Since they’ve reached the end of rebirth and death,
they need not strive, for they have reached the far shore.”

4) Thế Tôn bèn trả lời:

Ôi này Dàmali,
Với vị Bà-la-môn,
Không còn gì phải làm,
Việc phải làm đã làm,
Chính là Bà-la-môn.
Chúng sanh đủ tay chân,
Không tìm được chân đứng,
Trôi giạt và chìm nổi,
Trong biển rộng, sông dài.
Tìm được chỗ chân đứng,
Khô ráo vị ấy đứng,
Ðã đến bờ bên kia,
Vị ấy không trôi giạt.
Vậy này Dàmali,
Ví dụ ấy là vậy.
Cũng vậy Bà-la-môn,
Ðoạn trừ các lậu hoặc,
Sáng suốt và kín đáo,
Tinh tấn tu Thiền định.
Vị ấy đã đạt được,
Tận cùng đường sanh tử,
Ðã đến bờ bên kia,
Nên không còn trôi giạt.

SN 2.6. With Kāmada - Kāmadasutta

At Sāvatthī. Standing to one side, the god Kāmada said to the Buddha:

“It’s too hard, Blessed One! It’s just too hard!”

“They do it even though it’s hard,” said the Buddha to Kāmada,
“the stable trainees with ethics, and immersion.
For one who has entered the homeless life,
contentment brings happiness.”

VI. Kàmada (S.i,48) (Tạp 49.20 Thực trí, Ðại 2, 361a) (Biệt Tạp 15.15, Ðại 2, 479a)

1) Ðứng một bên, Thiên tử Kàmada bạch Thế Tôn:

2) Khó làm, bạch Thế Tôn,

Thế Tôn, thật khó làm.
Tuy vậy, Kàmada,
Họ làm việc khó làm,
Chính các vị hữu học,
Kiên trì tu giới định,
Ðã chọn đời xuất gia,
Biết đủ, đem an lạc.

“Such contentment, Blessed One, is hard to find.”
“They find it even though it’s hard,” said the Buddha to Kāmada,
“those who love peace of mind;
whose minds love to meditate
day and night.”

3) Biết đủ, bạch Thế Tôn,
Biết đủ, thật khó được.
Tuy vậy, Kàmada,
Họ được điều khó được.
Những vị lòng ưa thích,
Tâm tư được điều tịnh,
Cả ngày và cả đêm,
Ý an lạc tu tập.

“But it’s hard, Blessed One, to immerse this mind in samādhi.”
“They become immersed in samādhi even though it’s hard,” said the Buddha to Kāmada,
“those who love calming the faculties.
Having cut through the net of Death,
the noble ones, Kāmada, go on their way.”

4) Khó tịnh, bạch Thế Tôn,
Tâm ấy, thật khó tịnh.
Tuy vậy, Kàmada,
Họ tịnh tâm khó tịnh.
Những vị lòng ưa thích,
Các căn được tịch tịnh,
Cắt đứt lưỡi tử thần,
Bậc Hiền Thánh đi tới.

“But this path, Blessed One, is rough and hard to travel.”
“Though it’s rough, hard to travel,
the noble ones, Kāmada, go on their way.
The ignoble fall headfirst
on a rough path.
But the path of the noble ones is smooth,
for the noble ones are smooth amid the rough.”

5) Khó đi, bạch Thế Tôn,
Con đường thật lồi lõm.
Tuy vậy, Kàmada,
Bậc Hiền Thánh vẫn đi.
Trên con đường khó đi,
Và có nhiều lồi lõm,
Kẻ phàm phu vấp ngã,
Trên đường mất thăng bằng.
Con đường đối bậc Thánh,
Là con đường thăng bằng,
Bậc Thánh bước thăng bằng,
Trên đường mất thăng bằng.

SN 2.7. With Pañcālacaṇḍa

At Sāvatthī. Standing to one side, the god Pañcālacaṇḍa recited this verse in the Buddha’s presence:

“The opening amid confinement
was discovered by the Buddha of vast intelligence,
who woke up to absorption,
the sage, the solitary bull.”

VII. Pancàlacanda (S.i, 48)( Tạp 49.12 Ban-xà-la, Ðại 2,358b) (Biệt Tạp 15.7, Ðại 2, 477a)

1) Ðứng một bên, Thiên tử Pancàlacanda nói lên bài kệ này trước Thế Tôn:

Dầu giữa những chướng ngại,
Bậc Ðại trí Chánh giác,
Vẫn tìm được lối thoát,
Vượt qua mọi chướng ngại.
Bậc trí hiểu Thiền định,
Biết từ bỏ, tối thắng,
Bậc Mâu-ni, ẩn sĩ

Buddha:

“Even amid confinement they discover,” said the Buddha to Pañcālacaṇḍa,
“the principle for attaining extinguishment.
Those who have acquired mindfulness
are perfectly serene in samādhi.”

2) Thế Tôn lên tiếng:

Pancàlacanda,
Dầu giữa những chướng ngại,
Họ tìm được lối thoát,
Họ tìm được Chánh pháp
Ðưa đến quả Niết-bàn.
Những vị đạt chánh niệm,
Kiên trì không dao động,
Họ là bậc chơn chánh,
Tâm điều phục, định tĩnh.

SN 2.8. With Tāyana - Tāyanasutt

At Sāvatthī. Then, late at night, the glorious god Tāyana, formerly a religious founder, lighting up the entire Jeta’s Grove, went up to the Buddha, bowed, stood to one side, and recited these verses in the Buddha’s presence:

VIII. Tàyana (S.i,49) (Dhammapada 313, 314, 311, 312 Thera G 277)

1) Rồi Thiên tử Tàyana, trước kia thuộc ngoại đạo sư, sau khi đêm gần mãn, với dung sắc thù thắng, chói sáng toàn vùng Jetavana, đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng một bên. Ðứng một bên, Thiên tử Tàyana nói lên bài kệ này trước Thế Tôn:

“Strive and cut the stream!
Dispel sensual pleasures, brahmin.
A sage who doesn’t give up sensual pleasures
is not reborn in a unified state.
If one is to do what should be done,
one should strongly strive.
For the life gone forth when laxly led
just stirs up dust all the more.
It’s better to leave a bad deed undone—
later you burn for that misdeed.
It’s better to have done a good deed,
after doing which you’re free of regrets.
When kusa grass is wrongly grasped
it only cuts the hand.
So too, the ascetic life, when wrongly taken,
drags you to hell.
Any lax act,
any corrupt observance,
or suspicious spiritual life,
is not very fruitful.”

2) Ôi này Bà-la-môn,
Tinh tấn, cắt dòng nước,
Ðoạn trừ và tiêu diệt,
Mọi tham đắm dục vọng.
Ẩn sĩ không đoạn dục,
Không chứng được nhứt tâm.
Nếu làm việc phải làm,
Cần kiên trì, tinh tấn.
Xuất gia, nếu biếng nhác,
Càng tung vãi bụi trần.
Không làm, hơn làm dở,
Làm dở sau khổ đau.
Ðã làm nên làm tốt,
Làm tốt không khổ đau.
Như nắm vụng lá cỏ,
Có thể bị đứt tay.
Sa-môn hạnh vụng tu,
Kéo đến cõi địa ngục.
Mọi sở hành biếng nhác,
Mọi hạnh tu ô nhiễm,
Ác hạnh trong Phạm hạnh,
Không đưa đến quả lớn.

That’s what the god Tāyana said. Then he bowed and respectfully circled the Buddha, keeping him on his right side, before vanishing right there.

3) Thiên tử Tàyana nói như vậy. Sau khi nói xong, đảnh lễ Thế Tôn, thân phía hữu hướng về Ngài rồi biến mất tại chỗ ấy.

Then, when the night had passed, the Buddha told the mendicants all that had happened.

4) Rồi Thế Tôn, sau khi đêm ấy đã mãn, liền gọi các Tỷ-kheo.

“Mendicants, tonight, the glorious god Tāyana, formerly a religious founder, lighting up the entire Jeta’s Grove, came to me, bowed, stood to one side, and recited these verses in my presence.” The Buddha repeated the verses in full, adding:

5) -- Này các Tỷ-kheo, đêm nay Thiên tử Tàyana, trước kia thuộc ngoại đạo sư, sau khi đêm đã gần mãn, với dung sắc thù thắng chói sáng toàn vùng Jetavana, đi đến Ta, sau khi đến, đảnh lễ Ta rồi đứng một bên. Ðứng một bên, Thiên tử Tàyana nói lên bài kệ này trước mặt Ta:

^^^^

6)

"Ôi này Bà-la-môn
Tinh tấn cắt dòng nước,
Ðoạn trừ và tiêu diệt,
Mọi tham đắm dục vọng.
Ẩn sĩ không đoạn dục,
Không chứng được nhứt tâm.
Nếu làm việc khó làm,
Cần kiên trì tinh tấn,
Xuất gia nếu biếng nhác,
Càng tung vãi bụi trần.
Không làm, hơn làm dở,
Làm dở sau khổ đau.
Ðã làm nên làm tốt,
Làm tốt không khổ đau.
Như nắm vụng lá cỏ,
Có thể bị đứt tay,
Sa-môn hạnh vụng tu,
Kéo đến cõi địa ngục.
Mọi sở hành biếng nhác,
Mọi hạnh tu ô nhiễm,
Ác hạnh trong Phạm hạnh,
Không đưa đến quả lớn."

“That’s what the god Tāyana said. Then he bowed and respectfully circled me, keeping me on his right side, before vanishing right there. Mendicants, learn the verses of Tāyana! Memorize the verses of Tāyana! Remember the verses of Tāyana! These verses are beneficial and relate to the fundamentals of the spiritual life.”

7) Này các Tỷ-kheo, Thiên tử Tàyana nói như vậy. Nói vậy xong, đảnh lễ Ta, thân phía hữu hướng về Ta và biến mất tại chỗ. Này các Tỷ-kheo, hãy đọc bài kệ của Tàyana. Này các Tỷ-kheo, hãy học thuộc lòng bài kệ của Tàyana. Này các Tỷ-kheo, bài kệ của Tàyana có đầy đủ nghĩa lợi và chính là căn bản của Phạm hạnh.

SN 2.9 9. The Moon - Candimasutta

At Sāvatthī.

Now at that time the Moon God had been seized by Rāhu, lord of demons. Then the Moon God, recollecting the Buddha, at that time recited this verse:

IX. Candima (S.i,50) (Nguyệt Thiên tử, Tạp 22.8 Nguyệt Thiên tử, Ðại 2, 155a) (Biệt Tạp 9.7, Ðại 2, 436a)

1) Thế Tôn trú ở Sàvatthi (Xá-vệ).

Lúc bấy giờ, Thiên tử Candima bị Ràhu, vua A-tu-la bắt. Rồi Thiên tử Candima, tưởng niệm đến Thế Tôn, trong lúc ấy nói lên bài kệ này:

“Homage to you, Buddha, hero!
You’re freed in every way.
I’ve wandered into confinement:
be my refuge!”

2) Ðảnh lễ đấng Giác Ngộ,
Bậc Anh Hùng muôn thuở,
Ngài là bậc Giải Thoát,
Thoát ly thật viên mãn,
Còn con bị trói buộc,
Hãy cho con quy ngưỡng.

Then the Buddha addressed Rāhu in verse concerning the Moon God:

“The Moon God has gone for refuge
to the Realized One, the perfected one.
Rāhu, release the Moon!
Buddhas have compassion for the world!”

3) Rồi Thế Tôn, vì Thiên tử Candima, nói lên bài lệ này cho Ràhu, vua A-tu-la:

Canda đã quy y,
Như Lai, bậc La-hán,
Ràhu, hãy thả nó,
Vì chư Phật thương đời.

Then Rāhu, having released the Moon, rushed to see Vepacitti, lord of demons and stood to one side, shocked and awestruck. Vepacitti addressed him in verse:

4) Rồi Ràhu, vua A-tu-la, giải thoát cho Thiên tử Candima. Như bị hốt hoảng, Ràhu đi đến Vepacitti, vua A-tu-la, run sợ, lông tóc dựng ngược và đứng một bên. Và Vepacitti, vua A-tu-la, nói lên bài kệ cho Ràhu, vua A-tu-la, đang đứng một bên:

“Why the rush?
Rāhu, you released the Moon
and came here looking like you’re in shock:
why do you stand there so scared?”

5) Vì sao, như hốt hoảng,
Ràhu thả Canda,
Ông đến, lòng run sợ,
Ông đứng, tâm kinh hoàng?

“My head would have exploded in seven pieces,
I would have found no happiness in life,
if, when enchanted by the Buddha’s spell,
I had not released the Moon.”

6) -- Ðầu con bể thành bảy,
Ðời con không hạnh phúc,
Với lời kệ đức Phật,
Nếu không thả Canda.

SN 2.10 - The Sun - Sūriyasutta

At Sāvatthī. Now at that time the Sun God had been seized by Rāhu, lord of demons. Then the Sun God, recollecting the Buddha, at that time recited this verse:

X. Suriya: (S.i,51) Nhật Thiên tử

1) Lúc bấy giờ, Thiên tử Suriya bị Ràhu, vua A-tu-la bắt. Rồi Thiên tử Suriya tưởng niệm đến Thế Tôn, trong lúc ấy nói lên bài kệ này:

“Homage to you, Buddha, hero!
You’re freed in every way.
I’ve wandered into confinement:
be my refuge!”

2) Ðảnh lễ đấng Giác Ngộ,
Bậc Anh Hùng muôn thuở,
Ngài là bậc Giải Thoát,
Thoát ly thật viên mãn,
Còn con bị trói buộc,
Hãy cho con quy ngưỡng.

Then the Buddha addressed Rāhu in verse concerning the Sun God:

“The Sun God has gone for refuge
to the Realized One, the perfected one.
Rāhu, release the Sun!
Buddhas have compassion for the world!
He fills the darkness with light,
the shining sun, circle of magnificent flame.
Rāhu, do not swallow him as he traverses the sky.
Rāhu, release my progeny, the Sun!”

3) Rồi Thế Tôn, vì Thiên tử Suriya, nói lên bài kệ này cho Ràhu, vua A-tu-la:

Suriya đã quy y,
Như Lai bậc La-hán,
Ràhu, hãy thả nó,
Vì chư Phật thương đời.
Ông đi giữa hư không,
Chớ nuốt Suriya,
Trong thế giới tối tăm,
Ðã đem lại ánh sáng,
Là mặt trời sáng chói,
Là dĩa tròn hực đỏ,
Là lò lửa cháy nóng,
Là bà con của Ta.
Này Ràhu, Ta nói:
Hãy thả Suriya.

Then Rāhu, having released the Sun, rushed to see Vepacitti, lord of demons and stood to one side, shocked and awestruck. Vepacitti addressed him in verse:

4) Rồi Ràhu, vua A-tu-la, giải thoát cho Thiên tử Suriya. Như bị hốt hoảng, Ràhu đi đến Vepacitti, vua A-tu-la run sợ, lông tóc dựng ngược và đứng một bên. Và Vepacitti, vua A-tu-la, nói lên bài kệ cho Ràhu, vua A-tu-la, đang đứng một bên:

“Why the rush?
Rāhu, you released the Sun
and came here looking like you’re in shock:
why do you stand there so scared?”

5) Vì sao, như hốt hoảng,
Ràhu, thả Suriya,
Ông đến, lòng run sợ,
Ông đứng, tâm kinh hoàng?

“My head would have exploded in seven pieces,
I would have found no happiness in life,
if, when enchanted by the Buddha’s spell,
I had not released the Sun.”^

6) -- Ðầu con bể thành bảy,
Ðời con không hạnh phúc,
Với lời kệ đức Phật,
Nếu không thả Suriya.

Cập nhập ngày: Thứ Sáu 13-8-2021

webmasters: Minh Hạnh & Thiện Pháp, Thủy Tú & Phạm Cương


 | | trở về đầu trang | Home page |