Himavanta Sutta: The Himalayas [SUJĀTO]

^^^.

1.I. Tuyết Sơn (S.v,63)

1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi ...

Thế Tôn nói như sau :

Monks, it is in dependence on the Himalayas, the king of mountains, that serpents (nagas) grow in body and gain in strength. Having grown in body and gained strength there, they descend to the small lakes. Having descended to the small lakes, they descend to the large lakes... the small rivers... the large rivers... to the great ocean. There they attain greatness & prosperity in terms of the body.

3) -- Y cứ vào vua núi Tuyết sơn, này các Tỷ-kheo, các loài rắn lớn tăng trưởng tự thân, thâu hoạch sức mạnh. Ở đấy, khi chúng tăng trưởng tự thân, thâu hoạch sức mạnh, chúng đi xuống các hồ nhỏ. Sau khi xuống các hồ nhỏ, chúng đi xuống các hồ lớn. Sau khi đi xuống các hồ lớn, chúng đi xuống các sông nhỏ. Sau khi đi xuống các sông nhỏ, chúng đi xuống các sông lớn. Sau khi đi xuống các sông lớn, chúng đi ra biển, ra đại dương. Tại đấy, thân của chúng được to lớn và quảng đại hơn.

"In the same way, it is in dependence on virtue, established on virtue, having developed & pursued the seven factors of Awakening, that a monk attains to greatness & prosperity in terms of mental qualities. And how is it that a monk — in dependence on virtue, established on virtue, having developed & pursued the seven factors for Awakening — attains to greatness & prosperity in terms of mental qualities?

4) Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo y cứ vào giới, an trú vào giới, tu tập bảy giác chi, làm cho sung mãn bảy giác chi, đạt được sự to lớn, sự quảng đại trong các pháp. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo y cứ vào giới, an trú vào giới, tu tập bảy giác chi, làm cho sung mãn bảy giác chi, đạt được sự to lớn, sự quảng đại trong các pháp?

"There is the case where a monk develops mindfulness as a factor for Awakening dependent on seclusion, dependent on dispassion, dependent on cessation, resulting in relinquishment. He develops analysis of qualities as a factor for Awakening...persistence as a factor for Awakening...rapture as a factor for Awakening...serenity as a factor for Awakening...concentration as a factor for Awakening...equanimity as a factor for Awakening dependent on seclusion, dependent on dispassion, dependent on cessation, resulting in relinquishment.

5) Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo tu tập niệm giác chi liên hệ đến viễn ly, liên hệ đến ly tham, liên hệ đến đoạn diệt, hướng đến từ bỏ. Tỷ-kheo tu tập trạch pháp giác chi... tu tập tinh tấn giác chi... tu tập hỷ giác chi... tu tập khinh an giác chi... tu tập định giác chi... tu tập xả giác chi liên hệ đến viễn ly, liên hệ đến ly tham, liên hệ đến đoạn diệt, hướng đến từ bỏ.

This is how a monk — in dependence on virtue, established on virtue, having developed & pursued the seven factors for Awakening — attains to greatness & prosperity in terms of mental qualities."

6) Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo y cứ vào giới, an trú vào giới, tu tập bảy giác chi, làm cho sung mãn bảy giác chi, đạt được sự to lớn, sự quảng đại trong các pháp.

SN 46.2 - Kāyasutta - 2. The Body [SUJĀTO]

2.II. Thân (S.v,64) I

1-2) Tại Sàvatthi...

At Sāvatthī. “Mendicants, this body is sustained by food. It depends on food to continue, and without food it doesn’t continue. In the same way, the five hindrances are sustained by fuel. They depend on fuel to continue, and without fuel they don’t continue.

3) -- Ví như, này các Tỷ-kheo, cái thân này y cứ món ăn, duyên món ăn được an trú; không có món ăn thì không an trú. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, năm triền cái y cứ món ăn, duyên món ăn được an trú; không có món ăn thì không an trú.

And what fuels the arising of sensual desire, or, when it has arisen, makes it increase and grow? There is the aspect of beauty. Frequent improper attention to that fuels the arising of sensual desire, or, when it has arisen, makes it increase and grow.

4) Và này các Tỷ-kheo, món ăn nào đối với dục tham (kàmacchanda) chưa sanh được sanh khởi; hay đối với dục tham đã sanh được tăng trưởng, quảng đại? Này các Tỷ-kheo, có tịnh tướng (subhanimittam), ở đây, nếu phi như lý tác ý được làm cho sung mãn, thời tịnh tướng này là món ăn khiến cho dục tham chưa sanh được sanh khởi; hay đối với dục tham đã sanh khiến cho tăng trưởng, quảng đại.

And what fuels the arising of ill will, or, when it has arisen, makes it increase and grow? There is the aspect of repulsion. Frequent improper attention to that fuels the arising of ill will, or, when it has arisen, makes it increase and grow.

5) Và này các Tỷ-kheo, món ăn nào đối với sân chưa sanh làm cho sanh khởi; hay đối với sân đã sanh khiến được tăng trưởng, quảng đại? Này các Tỷ-kheo, có đối ngại tướng (patighanimittam). Ở đây, nếu phi như lý tác ý được làm cho sung mãn, thời đối ngại tướng này là món ăn khiến cho sân chưa sanh được sanh khởi; hay đối với sân đã sanh khiến cho tăng trưởng, quảng đại.

And what fuels the arising of dullness and drowsiness, or, when it has arisen, makes it increase and grow? There is discontent, sloth, yawning, sleepiness after eating, and mental sluggishness. Frequent improper attention to them fuels the arising of dullness and drowsiness, or, when it has arisen, makes it increase and grow.

6) Này các Tỷ-kheo, món ăn nào đối với hôn trầm thụy miên chưa sanh làm cho sanh khởi; hay đối với hôn trầm thụy miên đã sanh khiến cho tăng trưởng, quảng đại? Này các Tỷ-kheo, có sự không hân hoan, biếng nhác (tandi), uể oải (vijambhità), ăn quá no, tâm rụt rè (linàttam). Ở đây, nếu phi như lý tác ý được làm cho sung mãn, thời chính là món ăn khiến cho hôn trầm thụy miên chưa sanh được sanh khởi; hay đối với hôn trầm thụy miên đã sanh khiến cho tăng trưởng, quảng đại.

And what fuels the arising of restlessness and remorse, or, when it has arisen, makes it increase and grow? There is the unsettled mind. Frequent improper attention to that fuels the arising of restlessness and remorse, or, when it has arisen, makes it increase and grow.

7) Và này các Tỷ-kheo, món ăn nào đối với trạo hối chưa sanh làm cho sanh khởi; hay đối với trạo hối đã sanh khiến cho tăng trưởng, quảng đại? Này các Tỷ-kheo, có tâm không được tịnh chỉ. Ở đây, nếu phi như lý tác ý được làm cho sung mãn, thời chính là món ăn khiến cho trạo hối chưa sanh được sanh khởi; hay đối với trạo hối đã sanh khiến cho tăng trưởng, quảng đại.

And what fuels the arising of doubt, or, when it has arisen, makes it increase and grow? There are things that are grounds for doubt. Frequent improper attention to them fuels the arising of doubt, or, when it has arisen, makes it increase and grow.

8) Và này các Tỷ-kheo, món ăn nào đối với nghi chưa sanh làm cho sanh khởi; hay đối với nghi đã sanh khiến cho tăng trưởng, quảng đại? Này các Tỷ-kheo, có những pháp làm trú xứ cho nghi hoặc. Ở đây, nếu phi như lý tác ý được làm cho sung mãn, thời chính các pháp này là món ăn khiến cho nghi hoặc chưa sanh được sanh khởi; hay đối với nghi hoặc đã sanh khiến cho tăng trưởng, quảng đại.

This body is sustained by food. It depends on food to continue, and without food it doesn’t continue. In the same way, the five hindrances are sustained by fuel. They depend on fuel to continue, and without fuel they don’t continue.

9) Ví như, này các Tỷ-kheo, cái thân này y cứ món ăn, duyên món ăn mà được an trú; không có món ăn thì không an trú. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, năm triền cái y cứ món ăn, duyên món ăn mà được an trú; không có món ăn thì không an trú.

II

This body is sustained by food. It depends on food to continue, and without food it doesn’t continue. In the same way, the seven awakening factors are sustained by fuel. They depend on fuel to continue, and without fuel they don’t continue.

II

10) Ví như, này các Tỷ-kheo, cái thân này y cứ món ăn, duyên món ăn mà được an trú; không có món ăn thì không an trú. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, bảy giác chi này y cứ món ăn, duyên món ăn mà được an trú; không có món ăn thì không an trú.

And what fuels the arising of the awakening factor of mindfulness, or, when it has arisen, develops it to perfection? There are things that are grounds for the awakening factor of mindfulness. Frequent proper attention to them fuels the arising of the awakening factor of mindfulness, or, when it has arisen, develops it to perfection.

11) Và này các Tỷ-kheo, món ăn nào đối với niệm giác chi chưa sanh làm cho sanh khởi; hay đối với niệm giác chi đã sanh khởi được tu tập, làm cho viên mãn? Có các pháp, này các Tỷ-kheo, làm trú xứ cho niệm giác chi. Ở đây, nếu như lý tác ý được làm cho sung mãn, thời đây là món ăn khiến cho niệm giác chi chưa sanh được sanh khởi; hay đối với niệm giác chi đã sanh khởi khiến cho được tu tập, làm cho viên mãn.

And what fuels the arising of the awakening factor of investigation of principles, or, when it has arisen, develops it to perfection? There are qualities that are skillful and unskillful, blameworthy and blameless, inferior and superior, and those on the side of dark and bright. Frequent proper attention to them fuels the arising of the awakening factor of investigation of principles, or, when it has arisen, develops it to perfection.

12) Và này các Tỷ-kheo, món ăn nào đối với trạch pháp giác chi chưa sanh làm cho sanh khởi; hay đối với trạch pháp giác chi đã sanh được tu tập và làm cho viên mãn? Này các Tỷ-kheo, có các thiện pháp và bất thiện pháp, có các pháp đáng chỉ trích và không đáng chỉ trích, có các pháp liệt và thắng, có các pháp đen và trắng (kanhàsukkasa-ppatibhàgà). Ở đây, nếu như lý tác ý được làm cho sung mãn, thời đây là món ăn khiến cho trạch pháp giác chi chưa sanh khởi được sanh khởi; hay đối với trạch pháp giác chi đã sanh khởi khiến cho được tu tập, làm cho viên mãn.

And what fuels the arising of the awakening factor of energy, or, when it has arisen, develops it to perfection? There are the elements of initiative, persistence, and exertion. Frequent proper attention to them fuels the arising of the awakening factor of energy, or, when it has arisen, develops it to perfection.

13) Và này các Tỷ-kheo, món ăn nào đối với tinh tấn giác chi chưa sanh làm cho sanh khởi; hay đối với tinh tấn giác chi đã sanh khởi được tu tập và làm cho viên mãn? Này các Tỷ-kheo, có phát cần giới (àrambhadhàtu), tinh cần giới (mikkamadhàtu), cần dõng giới (parakkamadhàtu). Ở đây, nếu như lý tác ý được làm cho sung mãn, thời đây là món ăn khiến cho tinh tấn giác chi chưa sanh được sanh khởi; hay đối với tinh tấn giác chi đã sanh khởi khiến cho được tu tập, làm cho viên mãn.

And what fuels the arising of the awakening factor of rapture, or, when it has arisen, develops it to perfection? There are things that are grounds for the awakening factor of rapture. Frequent proper attention to them fuels the arising of the awakening factor of rapture, or, when it has arisen, develops it to perfection.

14) Và này các Tỷ-kheo, món ăn nào đối với hỷ giác chi chưa sanh khiến cho sanh khởi; hay đối với hỷ giác chi đã sanh khởi được tu tập, làm cho viên mãn? Này các Tỷ-kheo, có những pháp làm trú xứ cho hỷ giác chi. Ở đây, nếu như lý tác ý được làm cho viên mãn, thời đây là món ăn khiến cho hỷ giác chi chưa sanh được sanh khởi; hay đối với hỷ giác chi đã sanh khởi khiến cho được tu tập, làm cho viên mãn.

And what fuels the arising of the awakening factor of tranquility, or, when it has arisen, develops it to perfection? There is tranquility of the body and of the mind. Frequent proper attention to that fuels the arising of the awakening factor of tranquility, or, when it has arisen, develops it to perfection.

15) Và này các Tỷ-kheo, món ăn nào đối với khinh an giác chi chưa sanh khiến cho sanh khởi; hay đối với khinh an giác chi đã sanh khởi được tu tập, làm cho viên mãn? Này các Tỷ-kheo, có thân khinh an, tâm khinh an. Ở đây, nếu như lý tác ý được làm cho sung mãn, thời đây là món ăn khiến cho khinh an giác chi chưa sanh được sanh khởi; hay đối với khinh an giác chi đã sanh khiến cho được tu tập, làm cho viên mãn.

And what fuels the arising of the awakening factor of immersion, or, when it has arisen, develops it to perfection? There are aspects of things that are serene and free from distraction. Frequent proper attention to them fuels the arising of the awakening factor of immersion, or, when it has arisen, develops it to perfection.

16) Và này các Tỷ-kheo, món ăn nào đối với định giác chi chưa sanh khiến cho sanh khởi; hay đối với định giác chi đã sanh được tu tập, làm cho viên mãn? Này các Tỷ-kheo, có tịnh chỉ tướng, bất loạn tướng. Ở đây, nếu như lý tác ý được làm cho viên mãn, thời đây là món ăn khiến cho định giác chi chưa sanh được sanh khởi; hay đối với định giác chi đã sanh khiến cho được tu tập, làm cho viên mãn.

And what fuels the arising of the awakening factor of equanimity, or, when it has arisen, develops it to perfection? There are things that are grounds for the awakening factor of equanimity. Frequent proper attention to them fuels the arising of the awakening factor of equanimity, or, when it has arisen, develops it to perfection.

17) Và này các Tỷ-kheo, món ăn nào đối với xả giác chi chưa sanh khiến cho sanh khởi; hay đối với xả giác chi đã sanh được tu tập, làm cho viên mãn? Này các Tỷ-kheo, có các pháp làm trú xứ cho xả giác chi. Ở đây, nếu như lý tác ý được làm cho viên mãn, thời đây là món ăn khiến cho xả giác chi chưa sanh được sanh khởi; hay đối với xả giác chi đã sanh khiến cho được tu tập, làm cho viên mãn.

This body is sustained by food. It depends on food to continue, and without food it doesn’t continue. In the same way, the seven awakening factors are sustained by fuel. They depend on fuel to continue, and without fuel they don’t continue.”

Ví như, này các Tỷ-kheo, cái thân này y cứ món ăn, duyên món ăn được an trú; không có món ăn thì không an trú. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, bảy giác chi này y cứ món ăn, duyên món ăn mà được an trú; không có món ăn thì không an trú.

SN 46.3 / SN v 67 Sīlasutta Ethics [SUJĀTO]

1)

“Mendicants, when a mendicant is accomplished in ethics, immersion, wisdom, freedom, or the knowledge and vision of freedom, even the sight of them is very helpful, I say.

3.III. Giới (S.v,67)

1) ...

2) -- Này các Tỷ-kheo, những Tỷ-kheo nào cụ túc giới, cụ túc định, cụ túc tuệ, cụ túc giải thoát, cụ túc giải thoát tri kiến, Ta nói rằng ai thấy các Tỷ-kheo ấy thì có rất nhiều lợi ích.

Even to hear them, approach them, pay homage to them, recollect them, or go forth after them is very helpful, I say. Why is that? Because after hearing the teaching of such mendicants, a mendicant will live withdrawn in both body and mind, as they recollect and think about that teaching.

3) Ai nghe các Tỷ-kheo ấy, này các Tỷ-kheo, Ta nói rằng có rất nhiều lợi ích. Ai yết kiến các Tỷ-kheo ấy, này các Tỷ-kheo, Ta nói rằng có rất nhiều lợi ích. Ai thân cận các Tỷ-kheo ấy, này các Tỷ-kheo, Ta nói rằng có rất nhiều lợi ích. Ai nhớ nghĩ đến các Tỷ-kheo ấy, này các Tỷ-kheo, Ta nói rằng có rất nhiều lợi ích. Ai tùy thuận các Tỷ-kheo ấy xuất gia, này các Tỷ-kheo, Ta nói rằng có rất nhiều lợi ích.

At such a time, a mendicant has activated the awakening factor of mindfulness; they develop it and perfect it. As they live mindfully in this way they investigate, explore, and inquire into that teaching with wisdom.

4) Vì sao? Này các Tỷ-kheo, khi nghe pháp từ các Tỷ-kheo như vậy, vị nào sống viễn ly (vupakattho), được hai sự viễn ly : viễn ly về thân và viễn ly về tâm. Vị sống viễn ly như vậy thì sẽ tùy niệm (anussarati) pháp ấy, tùy tầm pháp ấy.

At such a time, a mendicant has activated the awakening factor of investigation of principles; they develop it and perfect it. As they investigate principles with wisdom in this way their energy is roused up and vigorous.

5) Này các Tỷ-kheo, trong khi Tỷ-kheo sống viễn ly như vậy, tùy niệm, tùy tầm pháp ấy; trong lúc ấy, niệm giác chi bắt đầu phát khởi trong Tỷ-kheo ấy. Trong khi Tỷ-kheo tu tập niệm giác chi; trong khi ấy, nhờ tu tập, niệm giác chi đi đến viên mãn. Vị ấy trú với chánh niệm như vậy, với trí tuệ quyết trạch, tư sát, thành tựu quán sát pháp ấy.

At such a time, a mendicant has activated the awakening factor of energy; they develop it and perfect it. When they’re energetic, spiritual rapture arises.

6) Trong khi, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo sống chánh niệm như vậy, với trí tuệ quyết trạch, tư sát và đi đến quán sát pháp ấy; trong khi ấy, này các Tỷ-kheo, trạch pháp giác chi bắt đầu phát khởi trong Tỷ-kheo ấy. Trong khi Tỷ-kheo tu tập trạch pháp giác chi; trong khi ấy, nhờ tu tập, trạch pháp giác chi đi đến viên mãn. Trong khi vị ấy với trí tuệ quyết trạch, tư sát và thành tựu quán sát pháp ấy, thời tinh tấn, không thụ động (asallinam) bắt đầu phát khởi nơi vị ấy

At such a time, a mendicant has activated the awakening factor of rapture; they develop it and perfect it. When the mind is full of rapture, the body and mind become tranquil.

7) Trong khi, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo với trí tuệ quyết trạch, tư sát và thành tựu quán sát pháp ấy, thời tinh tấn, không thụ động bắt đầu phát khởi trong Tỷ-kheo ấy. Trong khi Tỷ-kheo tu tập tinh tấn giác chi; trong khi ấy, nhờ tu tập, tinh tấn giác chi đi đến viên mãn. Với vị tinh cần, tinh tấn, hỷ không liên hệ đến vật chất (piti niràmisà) khởi lên.

At such a time, a mendicant has activated the awakening factor of tranquility; they develop it and perfect it. When the body is tranquil and one feels bliss, the mind becomes immersed in samādhi.

8) Trong khi, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo tinh cần, tinh tấn, hỷ không liên hệ đến vật chất khởi lên; trong khi ấy, hỷ giác chi bắt đầu phát khởi trong Tỷ-kheo ấy. Trong khi Tỷ-kheo tu tập hỷ giác chi; trong khi ấy, nhờ tu tập, hỷ giác chi đi đến viên mãn. Với vị có ý hoan hỷ, thân được khinh an, tâm được khinh an.

At such a time, a mendicant has activated the awakening factor of immersion; they develop it and perfect it. They closely watch over that mind immersed in samādhi.

9) Trong khi, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo với ý hoan hỷ, thân được khinh an, tâm được khinh an; trong khi ấy, khinh an giác chi bắt đầu phát khởi trong Tỷ-kheo ấy. Trong khi Tỷ-kheo tu tập khinh an giác chi; trong khi ấy, nhờ tu tập, khinh an giác chi đi đến viên mãn. Với vị có thân khinh an, lạc hiện hữu. Với vị có lạc, tâm được định tĩnh.

At such a time, a mendicant has activated the awakening factor of equanimity; they develop it and perfect it.

10) Trong khi, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo có thân khinh an, được an lạc, tâm được định tĩnh; trong khi ấy, này các Tỷ-kheo, định giác chi bắt đầu phát khởi trong Tỷ-kheo ấy. Trong khi Tỷ-kheo tu tập định giác chi; trong khi ấy, định giác chi nhờ tu tập, đi đến viên mãn. Vị ấy với tâm định tĩnh như vậy, khéo trú xả nhìn (sự vật) (sàdhukam ajjhupekkhità).

^^^^

11) Trong khi, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo với tâm định tĩnh, khéo trú xả nhìn (sự vật) như vậy; trong khi ấy, này các Tỷ-kheo, xả giác chi bắt đầu phát khởi trong Tỷ-kheo ấy. Trong khi Tỷ-kheo tu tập xả giác chi; trong khi ấy, xả giác chi nhờ tu tập, đi đến viên mãn.

When the seven awakening factors are developed and cultivated in this way they can expect seven fruits and benefits. What seven?

12) Này các Tỷ-kheo, bảy giác chi được tu tập như vậy, được làm cho sung mãn như vậy, thời bảy quả, bảy lợi ích được chờ đợi. Thế nào là bảy quả, bảy lợi ích?

They attain enlightenment early on in this very life.

If not, they attain enlightenment at the time of death.

13) Ngay trong hiện tại, lập tức (patihacca) thành tựu được chánh trí.

Nếu ngay trong hiện tại, lập tức không thành tựu được chánh trí, thời khi lâm chung, thành tựu được chánh trí.

If not, with the ending of the five lower fetters, they’re extinguished in-between one life and the next. If not, with the ending of the five lower fetters they’re extinguished upon landing.

14) Nếu ngay trong hiện tại, lập tức không thành tựu được chánh trí; nếu khi lâm chung, không thành tựu được chánh trí, thời sau khi đoạn tận năm hạ phần kiết sử, chứng được Trung ban Bát-niết-bàn (antaràparinibbàyi).

If not, with the ending of the five lower fetters they’re extinguished without extra effort. If not, with the ending of the five lower fetters they’re extinguished with extra effort. If not, with the ending of the five lower fetters they head upstream, going to the Akaniṭṭha realm. When the seven awakening factors are developed and cultivated in this way these are the seven fruits and benefits they can expect.”

15) Nếu ngay trong hiện tại, lập tức không thành tựu được chánh trí; nếu khi lâm chung, không thành tựu được chánh trí; nếu sau khi đoạn tận năm hạ phần kiết sử, không chứng được Trung ban bát Niết-bàn, thời sau khi đoạn tận năm hạ phần kiết sử, chứng được Sinh ban Bát-niết-bàn (upahaccaparinibbàyi).

^^^^

16) Nếu ngay trong hiện tại, lập tức không chứng được chánh trí; nếu khi lâm chung, không chứng được chánh trí; nếu sau khi đoạn tận năm hạ phần kiết sử, không chứng được Trung ban Bát-niết-bàn; nếu sau khi đoạn tận năm hạ phần kiết sử, không chứng được Sinh ban Bát-niết-bàn, thời sau khi đoạn tận năm hạ phần kiết sử, chứng được Vô hành Bát-niết-bàn (asankhàraparinibbàyi).

^^^^

17) Nếu ngay trong hiện tại, lập tức không thành tựu chánh trí; nếu khi lâm chung, không chứng được chánh trí; nếu sau khi đoạn tận năm hạ phần kiết sử, không chứng được Trung ban Bát-niết-bàn; nếu sau khi đoạn diệt được năm hạ phần kiết sử, không chứng được Sinh ban Bát-niết-bàn; nếu sau khi đoạn tận năm hạ phần kiết sử, không chứng được Vô hành Bát-niết-hàn; thời sau khi đoạn tận năm hạ phần kiết sử, chứng được Hữu hành Bát-niết-bàn (sasankhàraparinibbàyi).

^^^^

18) Nếu ngay trong hiện tại, lập tức không thành tựu chánh trí; nếu khi lâm chung, không chứng được chánh trí; nếu sau khi đoạn tận năm hạ phần kiết sử, không chứng được Trung ban Bát-niết-bàn; nếu sau khi đoạn diệt năm hạ phần kiết sử, không chứng được Sinh ban Bát-niết-bàn; nếu sau khi đoạn tận năm hạ phần kiết sử, không chứng được Vô hành Bát-niết-bàn; nếu sau khi đoạn tận năm hạ phần kiết sử, không chứng được Hữu hành Bát-niết-bàn; thời sau khi đoạn tận năm hạ phần kiết sử, vị ấy là bậc thượng lưu (uddhamsota), đạt được Sắc cứu cánh thiên (akanittha).

^^^^

19) Này các Tỷ-kheo, do tu tập bảy giác chi như vậy, do làm cho sung mãn như vậy nên được chờ đợi bảy quả này, bảy lợi ích này.

Clothes
Vattha Sutta  (SN 46:4)[Thanissaro]

On one occasion Ven. Sāriputta was staying near Sāvatthī in Jeta’s Grove, Anāthapiṇḍika’s monastery.

There he addressed the monks,

“Friend monks!”

“Yes, friend,”

the monks responded to him, Ven. Sāriputta said,.

Clothes
Vattha Sutta  (SN 46:4)

4.IV. Chuyển (Vatta) (S.v,70)

1) Một thời, Tôn giả Sàriputta trú ở Sàvatthi, tại Thắng Lâm, vườn ông Anàthapindika.

2) Tại đây, Tôn giả Sàriputta gọi các Tỷ-kheo:

-- Chư Hiền giả Tỷ-kheo.

-- Thưa Hiền giả.

Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Tôn giả Sàriputta. Tôn giả Sàriputta nói như sau :

Ven. Sāriputta said, “Friends, there are these seven factors for awakening. Which seven? Mindfulness as a factor for awakening, analysis of qualities as a factor for awakening, persistence as a factor for awakening, rapture as a factor for awakening, calm as a factor for awakening, concentration as a factor for awakening, & equanimity as a factor for awakening. These are the seven factors for awakening.

3) -- Này chư Hiền, có bảy giác chi này. Thế nào là bảy? Niệm giác chi, trạch pháp giác chi, tinh tấn giác chi, hỷ giác chi, khinh an giác chi, định giác chi, xả giác chi. Này chư Hiền, đó là bảy giác chi này.

“Whichever factor for awakening among these seven factors for awakening I want to dwell in during the morning, I dwell in that factor for awakening during the morning. Whichever factor for awakening I want to dwell in during the middle of the day, I dwell in that factor for awakening during the middle of the day. Whichever factor for awakening I want to dwell in during the late afternoon, I dwell in that factor for awakening during the late afternoon.

4) Ðối với bảy giác chi này, này chư Hiền, đối với giác chi nào ta muốn an trú vào buổi sáng, trong giác chi ấy, ta an trú vào buổi sáng. Ðối với giác chi nào ta muốn an trú vào buổi trưa, trong giác chi ấy, ta an trú vào buổi trưa. Ðối với giác chi nào ta muốn an trú vào buổi chiều, trong giác chi ấy, ta an trú vào buổi chiều.

“If the thought occurs to me, ‘mindfulness as a factor for awakening,’ the thought occurs to me, ‘It is immeasurable’; the thought occurs to me, ‘It is well-mastered.’ While it remains, I discern, ‘It remains.’ If it falls away from me, I discern, ‘It has fallen away from me because of this condition.’

5) Nếu là niệm giác chi hiện hữu trong ta, này chư Hiền, ta rõ biết được giác chi ấy là vô lượng trong ta, giác chi ấy là khéo phát khởi trong ta, và giác chi ấy an trú trong ta, ta rõ biết là có an trú. Nếu giác chi ấy từ bỏ ta, ta rõ biết giác chi ấy từ bỏ ta vì nhân duyên này. 6-10) ... (như trên, với các giác chi khác) ...

[Similarly with analysis of qualities as a factor for awakening, persistence as a factor for awakening, rapture as a factor for awakening, calm as a factor for awakening, and concentration as a factor for awakening.]

11) Nếu là xả giác chi hiện hữu trong ta, này chư Hiền, ta rõ biết được giác chi ấy là vô lượng trong ta, giác chi ấy là khéo phát khởi trong ta, và giác chi ấy an trú trong ta, ta rõ biết là có an trú. Nếu giác chi ấy từ bỏ ta, ta rõ biết giác chi ấy từ bỏ ta vì nhân duyên này.

“If the thought occurs to me, ‘equanimity as a factor for awakening,’ the thought occurs to me, ‘It is immeasurable’; the thought occurs to me, ‘It is well-mastered.’ While it remains, I discern, ‘It remains.’ If it falls away from me, I discern, ‘It has fallen away from me because of this condition.’

12) Ví như, này chư Hiền, hòm áo của vua hay vị đại thần của vua đầy những loại áo có màu sắc sai biệt. Nếu vị ấy muốn mặc loại áo nào vào buổi sáng, vị ấy mặc loại ấy vào buổi sáng. Nếu muốn mặc loại áo nào vào buổi trưa, vị ấy mặc loại áo ấy vào buổi trưa. Nếu muốn mặc loại áo nào vào buổi chiều, vị ấy mặc loại áo ấy vào buổi chiều.

^^^^

13) Cũng vậy, này chư Hiền, đối với bảy giác chi này, đối với giác chi nào ta muốn an trú vào buổi sáng, trong giác chi ấy ta an trú vào buổi sáng. Ðối với giác chi nào ta muốn an trú vào buổi trưa, trong giác chi ấy ta an trú vào buổi trưa. Ðối với giác chi nào ta muốn an trú vào buổi chiều, ta an trú giác chi ấy vào buổi chiều.

“If the thought occurs to me, ‘mindfulness as a factor for awakening,’ the thought occurs to me, ‘It is immeasurable’; the thought occurs to me, ‘It is well-mastered.’ While it remains, I discern, ‘It remains.’ If it falls away from me, I discern, ‘It has fallen away from me because of this condition.’

14) Nếu là niệm giác chi hiện hữu trong ta, này chư Hiền, ta rõ biết... (như trên đoạn số 5).

[Similarly with analysis of qualities as a factor for awakening, persistence as a factor for awakening, rapture as a factor for awakening, calm as a factor for awakening, and concentration as a factor for awakening.]

15-19) ... (như trên đoạn số 6-10)

20) Nếu là xả giác chi... (như trên đoạn số11)

“If the thought occurs to me, ‘equanimity as a factor for awakening,’ the thought occurs to me, ‘It is immeasurable’; the thought occurs to me, ‘It is well-mastered.’ While it remains, I discern, ‘It remains.’ If it falls away from me, I discern, ‘It has fallen away from me because of this condition.’”

^^^^

SN 46.5 / SN v 72 - Bhikkhusutta - A Monk [SUJĀTO]

1)

At Sāvatthī. Then a mendicant went up to the Buddha … and said to him:

“Sir, they speak of the ‘awakening factors’. How are the awakening factors defined?”

“Mendicant, they’re called awakening factors because they lead to awakening.

5.V. Vị Tỷ-Kheo (S.v,72)

1) ...

2) Rồi một Tỷ-kheo đi đến Thế Tôn, sau khi đến... ngồi xuống một bên, Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn :

--"Giác chi, giác chi", bạch Thế Tôn, được gọi là như vậy. Cho đến như thế nào, bạch Thế Tôn, được gọi là giác chi?

-- Này Tỷ-kheo, chúng đưa đến giác ngộ, do vậy, chúng được gọi là các giác chi.

A mendicant develops the awakening factors of mindfulness, investigation of principles, energy, rapture, tranquility, immersion, and equanimity, which rely on seclusion, fading away, and cessation, and ripen as letting go.

3) Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo tu tập niệm giác chi liên hệ đến viễn ly, liên hệ đến ly tham, liên hệ đến đoạn diệt, hướng đến từ bỏ... tu tập xả giác chi liên hệ đến viễn ly, liên hệ đến ly tham, liên hệ đến đoạn diệt, hướng đến từ bỏ.

As they develop the seven awakening factors, their mind is freed from the defilements of sensuality, desire to be reborn, and ignorance. When freed, they know ‘it is freed’. They understand: ‘Rebirth is ended, the spiritual journey has been completed, what had to be done has been done, there is no return to any state of existence.’

4) Do vị ấy tu tập bảy giác chi này, tâm được giải thoát khỏi dục lậu, tâm được giải thoát khỏi hữu lậu, tâm được giải thoát khỏi vô minh lậu. Trong sự giải thoát, trí khởi lên : "Ta đã được giải thoát". Vị ấy biết rõ : "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa".

They’re called awakening factors because they lead to awakening.”

5) Chúng đưa đến giác ngộ, này Tỷ-kheo, nên chúng được gọi là giác chi.

SN 46.6 / SN v 73 - Kuṇḍaliyasutta - Kuṇḍaliya[SUJĀTO]

At one time the Buddha was staying near Sāketa in the deer part at the Añjana Wood.

6.VI. Kundaliya (Người đeo vòng tai) (S.v,73)

1) Một thời Thế Tôn trú ở Sàketa, tại rừng Ancana, vườn Lộc Uyển.

Then the wanderer Kuṇḍaliya went up to the Buddha, and exchanged greetings with him. When the greetings and polite conversation were over, he sat down to one side and said to the Buddha:

2) Rồi du sĩ Kundaliya đi đến Thế Tôn; sau khi đến, nói lên với Thế Tôn những lời chào đón hỏi thăm, sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu liền ngồi xuống một bên. Ngồi một bên, du sĩ Kundaliya bạch Thế Tôn :

“Master Gotama, I like to hang around the monasteries and visit the assemblies. When I’ve finished breakfast, it’s my habit to wander from monastery to monastery, from park to park. There I see some ascetics and brahmins speaking for the sake of winning debates and finding fault. But what benefit does Master Gotama live for?”

3) -- Thưa Tôn giả Gotama, tôi sống gần khu vườn, giao du với hội chúng. Sau khi ăn buổi sáng xong, thưa Tôn giả Gotama, như sau là sở hành (àcàra) của tôi. Tôi bộ hành, tôi du hành, từ khóm vườn này qua khóm vườn khác, từ khu vườn này qua khu vườn khác. Tại đấy, tôi thấy một số Sa-môn, Bà-la-môn luận bàn về lợi ích thoát ly các tranh luận (itivàdapamokkànisamsam) và lợi ích cật vấn (upàrambhànisamsam). Còn Tôn giả Gotama sống có lợi ích gì?

“The benefit the Realized One lives for, Kuṇḍaliya, is the fruit of knowledge and freedom.”

^- Này Kundaliya, Như Lai có quả lợi ích của minh và giải thoát (vịjjàvimuttiphalà- nisamsam).

“But what things must be developed and cultivated in order to fulfill knowledge and freedom?”

4) -- Nhưng thưa Tôn giả Gotama, những pháp nào được tu tập, được làm cho sung mãn khiến cho minh và giải thoát được viên mãn?

“The seven awakening factors.”

-- Này Kundaliya, bảy giác chi được tu tập, được làm cho sung mãn, khiến cho minh và giải thoát được viên mãn.

“But what things must be developed and cultivated in order to fulfill the seven awakening factors?”

5) -- Nhưng thưa Tôn giả Gotama, những pháp nào được tu tập, được làm cho sung mãn, khiến cho bảy giác chi được viên mãn?

“The four kinds of mindfulness meditation.”

-- Này Kundaliya, bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, khiến cho bảy giác chi được viên mãn.

“But what things must be developed and cultivated in order to fulfill the four kinds of mindfulness meditation?”

6) -- Nhưng thưa Tôn giả Gotama, những pháp nào được tu tập, được làm cho sung mãn, khiến cho bốn niệm xứ được viên mãn?

“The three kinds of good conduct.”

-- Này Kundaliya, ba thiện hành (sucaritàni) được tu tập, được làm cho sung mãn, khiến cho bốn niệm xứ được viên mãn.

“But what things must be developed and cultivated in order to fulfill the three kinds of good conduct?” “Sense restraint.

7) -- Nhưng thưa Tôn giả Gotama, những pháp nào được tu tập, được làm cho sung mãn, khiến cho ba thiện hành được viên mãn?

And Kuṇḍaliya, how is sense restraint developed and cultivated so as to fulfill the three kinds of good conduct?

-- Này Kundaliya, hộ trì căn được tu tập, được làm cho sung mãn, khiến cho ba thiện hành được viên mãn. Nhưng này Kundaliya, hộ trì căn tu tập như thế nào, làm cho sung mãn như thế nào, khiến cho ba thiện hành được viên mãn?

A mendicant sees an agreeable sight with their eye. They don’t desire it or enjoy it, and they don’t give rise to greed. Their mind and body are steady internally, well settled and well freed. But if they see a disagreeable sight they’re not dismayed; their mind isn’t hardened, dejected, or full of ill will. Their mind and body are steady internally, well settled and well freed.

8) Ở đây, này Kundaliya, Tỷ-kheo khi mắt thấy sắc khả ý không có tham trước, không có hoan hỷ, không để tham dục (ràga) khởi lên. Thân của vị ấy được an trú, tâm an trú, nội phần khéo an trú, khéo giải thoát. Và khi mắt thấy sắc không khả ý, không có tuyệt vọng (manku), tâm không có dao động, ý không có chán nản (àdìnamànaso), tâm không có tức tối (avyàpannàcetaso). Thân của vị ấy được an trú, tâm được an trú, nội phần khéo an trú, khéo giải thoát.

Furthermore, a mendicant hears an agreeable sound with the ear … smells an agreeable odor with the nose … tastes an agreeable flavor with the tongue … feels an agreeable touch with the body …

9-12) Lại nữa, này Kundaliya, Tỷ-kheo khi tai nghe tiếng... mũi ngửi hương... lưỡi nếm vị... thân cảm xúc...

knows an agreeable thought with their mind. They don’t desire it or enjoy it, and they don’t give rise to greed. Their mind and body are steady internally, well settled and well freed. But if they know a disagreeable thought they’re not dismayed; their mind isn’t hardened, dejected, or full of ill will. Their mind and body are steady internally, well settled and well freed.

13) Lại nữa, này Kundaliya, Tỷ-kheo khi ý biết pháp khả ý, không tham trước, không có hoan hỷ, không để tham dục khởi lên. Thân của vị ấy được an trú, tâm an trú, nội phần khéo an trú, khéo giải thoát. Và Tỷ-kheo khi ý biết pháp không khả ý, không có tuyệt vọng, tâm không có dao động, ý không có chán nản, tâm không có tức tối. Thân của vị ấy được an trú, tâm được an trú, nội phần khéo an trú, khéo giải thoát.

When a mendicant’s mind and body are steady internally, they’re well settled and well freed when it comes to both agreeable and disagreeable sights, sounds, smells, tastes, touches, and thoughts. That’s how sense restraint is developed and cultivated so as to fulfill the three kinds of good conduct.

14) Này Kundaliya, khi nào Tỷ-kheo, mắt thấy sắc, đối với sắc khả ý hay không khả ý, thân được an trú, tâm được an trú, nội phần được khéo an trú, khéo giải thoát... khi tai nghe tiếng... khi mũi ngửi hương... khi lưỡi nếm vị... khi thân cảm xúc... khi ý biết pháp, đối với các pháp khả ý hay không khả ý, thân được an trú, tâm được an trú, nội phần được khéo an trú, khéo giải thoát. Này Kundaliya, hộ trì căn được tu tập như vậy, được làm cho sung mãn như vậy, khiến cho ba thiện hành được viên mãn.

And how are the three kinds of good conduct developed and cultivated so as to fulfill the four kinds of mindfulness meditation? A mendicant gives up bad conduct by way of body, speech, and mind, and develops good conduct by way of body, speech, and mind. That’s how the three kinds of good conduct are developed and cultivated so as to fulfill the four kinds of mindfulness meditation.

15) Và này Kundaliya, ba thiện hành được tu tập như thế nào, làm cho sung mãn như thế nào, khiến cho bốn niệm xứ được viên mãn? Ở đây, này Kundaliya, Tỷ-kheo đoạn tận thân ác hành, tu tập thân thiện hành; đoạn tận khẩu ác hành, tu tập khẩu thiện hành; đoạn tận ý ác hành, tu tập ý thiện hành. Này Kundaliya, ba thiện hành được tu tập như vậy, được làm cho sung mãn như vậy, khiến cho bốn niệm xứ được viên mãn.

And how are the four kinds of mindfulness meditation developed and cultivated so as to fulfill the seven awakening factors? A mendicant meditates by observing an aspect of the body—keen, aware, and mindful, rid of desire and aversion for the world. They meditate observing an aspect of feelings … mind … principles—keen, aware, and mindful, rid of desire and aversion for the world. That’s how the four kinds of mindfulness meditation are developed and cultivated so as to fulfill the seven awakening factors.

16) Và này Kundaliya, bốn niệm xứ được tu tập như thế nào, làm cho sung mãn như thế nào, khiến cho bảy giác chi được viên mãn? Ở đây, này Kundaliya, Tỷ-kheo sống quán thân trên thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời, quán thọ trên các thọ... quán tâm trên các tâm... quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời. Này Kundaliya, bốn niệm xứ được tu tập như vậy, được làm cho sung mãn như vậy khiến cho bảy giác chi được viên mãn.

And how are the seven awakening factors developed and cultivated so as to fulfill knowledge and freedom? A mendicant develops the awakening factors of mindfulness, investigation of principles, energy, rapture, tranquility, immersion, and equanimity, which rely on seclusion, fading away, and cessation, and ripen as letting go. That’s how the seven awakening factors are developed and cultivated so as to fulfill knowledge and freedom.”

17) Và này Kundaliya, bảy giác chi được tu tập như thế nào, được làm cho sung mãn như thế nào, khiến cho minh và giải thoát được viên mãn? Ở đây, này Kundaliya, Tỷ-kheo tu tập niệm giác chi liên hệ đến viễn ly, liên hệ đến ly tham, liên hệ đến đoạn diệt, hướng đến từ bỏ... tu tập xả giác chi liên hệ đến viễn ly, liên hệ đến ly tham, liên hệ đến đoạn diệt, hướng đến từ bỏ. Này Kundaliya, bảy giác chi được tu tập như vậy, được làm cho sung mãn như vậy, khiến cho minh và giải thoát được viên mãn.

When he said this, the wanderer Kuṇḍaliya said to the Buddha:

“Excellent, Master Gotama! Excellent! As if he was righting the overturned, or revealing the hidden, or pointing out the path to the lost, or lighting a lamp in the dark so people with good eyes can see what’s there, Master Gotama has made the teaching clear in many ways. I go for refuge to Master Gotama, to the teaching, and to the mendicant Saṅgha. From this day forth, may Master Gotama remember me as a lay follower who has gone for refuge for life.”

18) Khi được nói vậy, du sĩ Kundaliya bạch Thế Tôn :

-- Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama... từ nay cho đến trọn đời con xin quy ngưỡng.

SN 46.7 / SN v 75 Kūṭāgārasutta [SUJĀTO]

1-2)..

“Mendicants, the rafters of a bungalow all slant, slope, and incline to the peak. In the same way, a mendicant who develops and cultivates the seven awakening factors slants, slopes, and inclines to extinguishment.

7. VII Nóc Nhà (S. v, 75)

1-2) ...

3) -- Ví như, này các Tỷ-kheo, các cây đà, cây kèo của ngôi nhà có nóc nhọn; tất cả cây đà, cây kèo ấy đều thiên về nóc nhọn, hướng về nóc nhọn, xuôi về nóc nhọn. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo tu tập bảy giác chi, làm cho sung mãn bảy giác chi, thiên về Niết-bàn, hướng về Niết-bàn, xuôi về Niết-bàn.

And how does a mendicant who develops the seven awakening factors slant, slope, and incline to extinguishment? It’s when a mendicant develops the awakening factors of mindfulness, investigation of principles, energy, rapture, tranquility, immersion, and equanimity, which rely on seclusion, fading away, and cessation, and ripen as letting go. That’s how a mendicant who develops and cultivates the seven awakening factors slants, slopes, and inclines to extinguishment.”

4) Và này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo tu tập bảy giác chi như thế nào, làm cho sung mãn bảy giác chi như thế nào, thiên về Niết-bàn, hướng về Niết-bàn, xuôi về Niết-bàn? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo tu tập niệm giác chi liên hệ đến viễn ly, liên hệ đến ly tham, liên hệ đến đoạn diệt, hướng đến từ bỏ; tu tập trạch pháp giác chi... tu tập tinh tấn giác chi... tu tập hỷ giác chi... tu tập khinh an giác chi... tu tập định giác chi... tu tập xả giác chi liên hệ đến viễn ly, liên hệ đến ly tham, liên hệ đến đoạn diệt, hướng đến từ bỏ. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo tu tập bảy giác chi, làm cho sung mãn bảy giác chi, thiên về Niết-bàn, hướng về Niết-bàn, xuôi về về Niết-bàn.

Upavāṇa Sutta  (SN 46:8)[Thanissaro]

On one occasion Ven. Upavāṇa & Ven. Sāriputta were staying near Kosambī at Ghosita’s Monastery.

Upavāṇa
8.VIII. Upavàna (S.v,76)

1) Một thời Tôn giả Upavàna và Tôn giả Sàriputta sống ở Kosambi, tại vườn Ghosita.

Then, having left his seclusion in the late afternoon, Ven. Sāriputta went to Ven. Upavāṇa and, on arrival, exchanged courteous greetings with him. After an exchange of friendly greetings & courtesies, he sat to one side. As he was sitting there he said to Ven. Upavāṇa,

2) Rồi Tôn giả Sàriputta, vào buổi chiều, từ chỗ Thiền tịnh đứng dậy, đi đến Tôn giả Upavàna; sau khi đến, nói lên với Tôn giả Upavàna những lời chào đón hỏi thăm, sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu liền ngồi xuống một bên. Ngồi một bên, Tôn giả Sàriputta nói với Tôn giả Upavàna.

“Friend Upavāṇa, would a monk know for himself that ‘Through appropriate attention, the seven factors for awakening, mastered in me in such a way, lead to a pleasant abiding’?”

3)-- Thưa Hiền giả Upavàna, Tỷ-kheo có thể biết được chăng, do tự mình như lý tác ý, bảy giác chi được khéo an trú trong ta, đưa đến lạc trú?

“Friend Sāriputta, a monk would know for himself that ‘Through appropriate attention, the seven factors for awakening, mastered in me in such a way, lead to a pleasant abiding.’“When arousing mindfulness as a factor for awakening, the monk discerns, ‘My mind is well released; sloth & drowsiness are well uprooted in me; restlessness & anxiety are well subdued in me; my persistence is aroused; I attend (to it) in a focused way, not sluggishly.’“When arousing analysis of qualities as a factor for awakening… persistence as a factor for awakening… rapture as a factor for awakening… calm as a factor for awakening… concentration as a factor for awakening… “When arousing equanimity as a factor for awakening, the monk discerns, ‘My mind is well released; sloth & drowsiness are well uprooted in me; restlessness & anxiety are well subdued in me; my persistence is aroused; I attend (to it) in a focused way, not sluggishly.’“It’s in this way, friend Sāriputta, that a monk would know for himself that ‘Through appropriate attention, the seven factors for awakening, mastered in me in such a way, lead to a pleasant abiding.’”

4) -- Thưa Hiền giả Sàriputta, Tỷ-kheo có thể biết được, do tự mình như lý tác ý, bảy giác chi được khéo bắt đầu trong ta, đưa đến lạc trú. Thưa Hiền giả, Tỷ-kheo chỉ bắt đầu niệm giác chi, biết được : "Tâm ta được khéo giải thoát. Hôn trầm thụy miên trong ta được khéo nhổ sạch. Trạo hối trong ta được khéo điều phục. Tinh tấn giác chi đã bắt đầu trong ta. Lấy giác chi ấy làm đối tượng (atthikatvà), ta dụng tâm tác ý. Giác chi ấy không có thối thất (linàm)"... Thưa Hiền giả, Tỷ-kheo chỉ bắt đầu xả giác chi, biết được : "Tâm ta được khéo giải thoát. Hôn trầm thụy miên trong ta được khéo nhổ sạch. Trạo hối trong ta được khéo điều phục. Tinh tấn giác chi đã bắt đầu trong ta. Lấy giác chi ấy làm đối tượng, ta dụng tâm tác ý. Giác chi ấy không có thối thất". Cũng vậy, thưa Hiền giả Sàriputta, Tỷ-kheo có thể biết được, do tự mình như lý tác ý, bảy giác chi được khéo an trú trong ta, đưa đến lạc trú.

SN 46.9 / SN v 77 Paṭhamauppannasutta Arisen (1st)[SUJĀTO]

1).....

“Mendicants, these seven awakening factors don’t arise to be developed and cultivated except when a Realized One, a perfected one, a fully awakened Buddha has appeared. What seven?

9.IX. Sanh (1) (S.v,77)

1) ...

2) -- Này các Tỷ-kheo, có bảy giác chi này chưa khởi lên, nếu được tu tập, làm cho sung mãn, có thể khởi lên. Nhưng không thể không có sự hiện hữu của Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh đẳng Chánh giác. Thế nào là bảy?

The awakening factors of mindfulness, investigation of principles, energy, rapture, tranquility, immersion, and equanimity. These seven awakening factors don’t arise to be developed and cultivated except when a Realized One, a perfected one, a fully awakened Buddha has appeared.”

3) Niệm giác chi... xả giác chi. Này các Tỷ-kheo, bảy giác chi này chưa khởi lên, nếu được tu tập, làm cho sung mãn, có thể khởi lên. Nhưng không thể không có sự hiện hữu của Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh đẳng Chánh giác.

SN 46.10 / SN v 77 Dutiyauppannasutta Arisen (2nd)[SUJĀTO]

1).....

“Mendicants, these seven awakening factors don’t arise to be developed and cultivated apart from the Holy One’s training. What seven?

10.X. Sanh (2) (S.v,77)

1) ...

2) -- Bảy giác chi này, này các Tỷ-kheo, chưa khởi lên, nếu được tu tập, làm cho sung mãn, có thể khởi lên. Nhưng không thể không có giới luật của bậc Thiện Thệ. Thế nào là bảy?

The awakening factors of mindfulness, investigation of principles, energy, rapture, tranquility, immersion, and equanimity. These seven awakening factors don’t arise to be developed and cultivated apart from the Holy One’s training.”

3) Niệm giác chi... xả giác chi. Bảy giác chi này, này các Tỷ-kheo, chưa khởi lên, nếu được tu tập, được làm cho sung mãn, có thể khởi lên. Nhưng không thể không có giới luật của bậc Thiện Thệ.

Cập nhập ngày: Thứ Ba 05-11-2021

webmasters: Minh Hạnh & Thiện Pháp,


 | | trở về đầu trang | Home page |