Part I
So I have heard. At one time the Buddha was staying in the land of the Magadhans; east of Rājagaha there’s a brahmin village named Ambasaṇḍā, north of which, on Mount Vediyaka, is the Indasāla cave.

Tụng phẩm I
1. Như vầy tôi nghe. Một thời, Thế Tôn trú tại Magadha (Ma-kiệt-đà) phía Ðông thành Vương Xá, tại làng Bà La Môn tên Ambasanda, (Am-bà-la) trên ngọn núi Vediya (Tỳ-đà Sơn) phía Bắc ngôi làng, trong hang Indasàla (Nhơn-đà-sa-la). Lúc bấy giờ, Thiên chủ Sakka (Ðế-thích) náo nức muốn chiêm ngưỡng Thế Tôn.

Now at that time Sakka, the lord of gods, became eager to see the Buddha. He thought, “Where is the Blessed One at present, the perfected one, the fully awakened Buddha?” He saw that the Buddha was at the Indasāla cave, and addressed the gods of the Thirty-Three,

Rồi Thiên chủ Sakka suy nghĩ: "Nay Thế Tôn ở tại chỗ nào, vị A La Hán, Chánh Ðẳng Giác?" Thiên chủ Sakka thấy Thế Tôn trú tại Magadha, phía Ðông thành Vương Xá tại làng Bà La Môn tên Ambasanda, trên ngọn núi Vediya, phía Bắc ngôi làng trong hang Indasala. Thấy vậy, Thiên chủ Sakka nói với chư Thiên ở Tam thập tam thiên:

“Good sirs, the Buddha is staying in the land of the Magadhans at the Indasāla cave. What if we were to go and see that Blessed One, the perfected one, the fully awakened Buddha?”

- Này Quý vị, Thế Tôn trú ngụ tại Magadha, phía Ðông thành Vương Xá, tại làng Bà La Môn tên Ambasanda, trên ngọn núi Veidya, phía Bắc ngôi làng, trong hang núi Indasala. Này quí vị, chúng ta hãy đến chiêm ngưỡng Thế Tôn, bậc A La Hán, Chánh Ðẳng Giác.

“Yes, lord,” replied the gods.

Xin vâng, mong an lành đến cho Ngài. - Chư Thiên ở Tam thập tam thiên trả lời Thiên chủ Sakka.

Then Sakka addressed the fairy Pañcasikha,

2. Rồi Thiên chủ Sakka, nói với Pancasikha (Ngũ Kế), con của Càn Thát Bà:

“Dear Pañcasikha, the Buddha is staying in the land of the Magadhans at the Indasāla cave. What if we were to go and see that Blessed One, the perfected one, the fully awakened Buddha?”

- Này Khanh Pancasikha, Thế Tôn nay trú tại Magadha, phía Ðông thành Vương Xá, tại làng Bà La Môn tên Ambasanda, trên ngọn núi Vediya phía Bắc ngôi làng, trong hang núi Indasàla. Này Khanh Pancasikha, chúng ta hãy đến chiêm ngưỡng Thế Tôn, bậc A La Hán, Chánh Ðẳng Giác.

“Yes, lord,” replied the fairy Pañcasikha.

- Xin vâng, mong an lành đến cho Ngài.

Taking his arched harp made from the pale timber of wood-apple, he went as Sakka’s attendant.

Pancasikha, con của Càn Thát Bà, vâng lời Thiên chủ Sakka, cầm cây đàn cầm bằng gỗ vàng Beluva và đi theo Thiên chủ Sakka.

Then Sakka went at the head of a retinue consisting of the gods of the Thirty-Three and the fairy Pañcasikha. As easily as a strong person would extend or contract their arm, he vanished from the heaven of the gods of the Thirty-Three and landed on Mount Vediyaka north of Ambasaṇḍā.

Rồi Thiên chủ Sakka, với chư Thiên ở Tam thập tam thiên tháp tùng xung quanh, với Pancasikha, con của Càn Thát Bà đi trước, như người lực sĩ duỗi cánh tay co lại, hay co lại cánh tay duỗi ra, biến mất ở cõi Tam thập tam thiên, hiện ra ở Magadha, phía Ðông thành Vương Xá, tại làng Bà La Môn Ambasandà và đứng trên núi Vediya, phía Bắc ngôi làng.

Now at that time a dazzling light appeared over Mount Vediyaka and Ambasaṇḍā, as happens through the glory of the gods. People in the villages round about, terrified, shocked, and awestruck, said,

3. Lúc bấy giờ núi Vediya chói hào quang rực rỡ, ngôi làng Bà La Môn Ambasandà cũng vậy, đều nhờ thần lực chư Thiên. Và dân chúng ở những làng xung quanh nói rằng:

“Mount Vediyaka must be on fire today, blazing and burning! Oh why has such a dazzling light appeared over Mount Vediyaka and Ambasaṇḍā?”

- Núi Vediya hôm nay thật sự bị cháy, núi Veidya hôm nay thật sự có lửa đỏ rực, núi Vediya lại chói hào quang rực rỡ, làng Bà La Môn Ambasandà cũng vậy.

Now at that time a dazzling light appeared over Mount Vediyaka and Ambasaṇḍā, as happens through the glory of the gods. People in the villages round about, terrified, shocked, and awestruck, said, “Mount Vediyaka must be on fire today, blazing and burning! Oh why has such a dazzling light appeared over Mount Vediyaka and Ambasaṇḍā?”

Và dân chúng lo âu, lông tóc dựng ngược.

Then Sakka addressed the fairy Pañcasikha,

4. Rồi Thiên chủ Sakka nói với Pancasikha, con của Càn Thát Bà:

“My dear Pañcasikha, it’s hard for one like me to get near the Realized Ones while they are on retreat practicing absorption, enjoying absorption. But if you were to charm the Buddha first, then I could go to see him.”

- Này Khanh Pancasikha, chư Như Lai thật khó lại gần đối với người như ta. Các Ngài nhập Thiền, hoan hỷ trong Thiền, và với mục đích ấy, an lặng tịnh cư. Vậy Khanh Pancasikha trước tiên làm cho Thế Tôn hoan hỷ, sau sự hoan hỷ do Khanh tác động, chúng ta mới đến yết kiến Thế Tôn, bậc A La Hán, Chánh Ðẳng Giác.

“Yes, lord,”

- Xin vâng, mong an lành đến với Ngài.

replied the fairy Pañcasikha. Taking his arched harp made from the pale timber of wood-apple, he went to the Indasāla cave. When he had drawn near, he stood to one side, thinking, “This is neither too far nor too near; and he’ll hear my voice.”

Pancasikha, con của Càn Thát Bà vâng lời Thiên chủ Sakka, cầm cây đàn cầm bằng gỗ vàng Beluva và đến tại hang núi Indasala. Khi đến xong, Pancasikha đứng lại một bên và suy nghĩ: "Ta đứng đây, không quá xa Thế Tôn, cũng không quá gần. Và tiếng sẽ được Ngài nghe".

1. Pañcasikha’s Song
Standing to one side, Pañcasikha played his arched harp, and sang these verses on the Buddha, the teaching, the Saṅgha, the perfected ones, and sensual love

Ðứng một bên, Pancasikha, con của Càn Thát Bà gảy cây đàn cầm bằng gỗ vàng Beluva và nói lên bài kệ, liên hệ đến Phật, đến Pháp, đến A La Hán và đến ái dục:

“My lady Suriyavaccasā, oh my Sunshine—
I pay homage to your father Timbaru,
through whom was born a lady so fine,
to fill me with a joy I never knew.
As sweet as a breeze to one who’s sweating,
or when thirsty, a sweet and cooling drink,
so dear is your shining beauty to me,
just like the teaching is to all the saints!
Like a cure when you’re struck by fever dire,
or food to ease the hunger pain,
come on, darling, please put out my fire,
quench me like water on a flame.
As elephants burning in the heat of summer,
sink down in a lotus pond to rest,
so cool, full of petals and of pollen—
that’s how I would plunge into your breast.
Like elephants bursting bonds in rutting season,
beating off the pricks of lance and pikes—
I just don’t understand what is the reason
I’m so crazy for your shapely thighs!
For you, my heart is full of passion,
I’m in an altered state of mind.
There is no going back, I’m just not able,
I’m like a fish that’s hooked up on the line.
Come on, my darling, hold me, fair of thighs!
Embrace me, with your so bashful eyes!
Take me in your arms, my lovely lady,
that’s all I’d ever want or could desire.
Ah, then my desire was such a small thing,
my sweet, with your curling wavy hair;
now, like to arahants an offering,
it’s grown so very much from there.
Whatever the merit I have forged
by giving to such perfected beings—
may that, my altogether gorgeous,
ripen in togetherness with you.
Whatever the merit I have forged
in this wide open land,
may that, my altogether gorgeous,
ripen in togetherness with you.
Absorbed, the Sakyan meditates,
unified, alert, and mindful,
the sage aims right at the deathless state—
like me, oh my Sunshine, aiming for you!
And just like the sage would be rejoicing,
were he to awaken to the truth,
so I’d be rejoicing, lady,
were I to end up as one with you.
If Sakka were to grant me just one wish,
as Lord of the holy Thirty-Three,
my darling, you’re the only one I’d wish for,
so strong is the love I hold for you.
Like a freshly blossoming sal tree
is your father, my lady so wise.
I pay homage to him, bowing down humbly,
to he whose daughter is of such a kind.”

5. Ôi Suriya Vaccasa!
Ta đảnh lễ Timbaru,
Bậc phụ thân của nàng,
Ðã sanh nàng thiện nữ,
Nguồn hạnh phúc của ta,
Như gió cho kẻ mệt.
Như nước cho kẻ khát,
Nàng là tình của ta.
Như pháp với Ứng Cúng,
Như thuốc cho kẻ bệnh,
Như đồ ăn kẻ đói,
Thiên nữ với nước mắt.
Hãy dập tắt lửa tình!
Như voi bị nắng thiêu,
Tẩm mình hồ nước mát,
Có cánh sen, nhụy sen.
Cũng vậy, ta muốn chìm,
Chìm sâu vào ngực nàng.
Như voi bị xiềng xích,
Hất móc câu, gậy nhọn,
Ta điên vì ngực nàng,
Hành động ta rối loạn.
Tâm ta bị nàng trói,
Di chuyển thật vô phương,
Rút lui cũng bất lực,
Như cá đã mắc câu.
Hiền nữ hãy ôm ta,
Trong cánh tay của nàng!
Hãy ôm ta, nhìn ta,
Trong ánh mắt dịu hiền.
Hãy ghì chặt lấy ta,
Thiện nữ! Ta van nàng!
Ôi Hiền nữ suối tóc,
Ái dục ta có bao!
Nhưng nay đã tăng bội,
Như đồ chúng La Hán!
Mọi công đức ta làm,
Dâng lên bậc La Hán,
Ôi Kiều nữ toàn thiện,
Nàng là quả cho ta.
Công đức khác của ta,
Ðã làm trên đời này!
Ôi Kiều nữ toàn thiện,
Nàng là quả của ta!
Vị Thích tử thiền tu,
Nhứt tâm và giác tỉnh,
Tìm cầu đạo Bất tử,
Cũng vậy ta cầu nàng!
Như người tu sung sướng,
Chứng Bồ Ðề tối thượng.
Kiều nữ, ta sung sướng,
Ðược nhập một với nàng,
Nếu Thiên chủ Sakka,
Cho ta một ước nguyện,
Ta ước nguyện được nàng,
Vì ta quá yêu nàng!
Như ta-la sanh quả,
Tuệ Nữ, phụ thân nàng!
Ta sẽ đảnh lễ ngài,
Vì sanh nàng vẹn toàn!

When Pañcasikha had spoken, the Buddha said to him,

6. Khi được nghe vậy, Thế Tôn nói với Pancasikha, con của Càn Thát Bà:

“Pañcasikha, the sound of the strings and the sound of your voice blend well together, so that neither overpowers the other. But when did you compose these verses on the Buddha, the teaching, the Saṅgha, the perfected ones, and sensual love?”

- Này Pancasikha, huyền âm của Ngươi khéo hòa điệu với giọng ca của Ngươi, và giọng ca của Ngươi khéo hòa điệu với huyền âm của Ngươi. Này Pancasikha, do vậy huyền âm của Ngươi không thêm mầu sắc cho giọng ca, hay giọng ca của Ngươi không thêm màu sắc cho huyền âm của Ngươi. Này Pancasikha, Ngươi học tại chỗ nào những bài kệ liên hệ đến Phật, Pháp, đến A La Hán, đến ái dục như vậy?

“This one time, sir, when you were first awakened, you were staying near Uruvelā at the goatherd’s banyan tree on the bank of the Nerañjarā River. And at that time I was in love with the lady named Bhaddā Suriyavacchasā, the daughter of the fairy king Timbaru. But the sister desired another—it was Mātali the charioteer’s son named Sikhaḍḍī who she loved. Since I couldn’t win that sister by any means, I took my arched harp to Timbaru’s home, where I played those verses. When I finished, Suriyavacchasā said to me, ‘Dear sir, I have not personally seen the Buddha. But I did hear about him when I went to dance for the gods of the Thirty-Three in the Hall of Justice. Since you extol the Buddha, let us meet up today.’ And that’s when I met up with that sister. But we have not met since.”

- Bạch Thế Tôn, một thời Thế Tôn an trú ở Uruvelà, bên bờ sông Neranjara (Ni-liên-thiền), dưới gốc cây Ajapàla-Nigrodha, khi mới thành Chánh Ðẳng Giác. Lúc bấy giờ, con yêu con gái của Timbaru, vua Càn Thát Bà, tên là Bhaddà với biệt hiệu Suriya Vaccasà. Nhưng bạch Thế Tôn, thiếu nữ lại yêu một người khác, tên là Sikhaddhi, con của Màtali người đánh xe. Bạch Thế Tôn, con không có phương tiện nào khác để chiếm được thiếu nữ. Con cầm đàn cầm bằng gỗ vàng Beluva, đến tại trú xá của Timbaru, vua Càn Thát Bà. Khi đến xong, con gảy đàn cầm bằng gỗ vàng Beluva và nói lên bài kệ này, liên hệ đến Phật, đến Pháp, đến A La Hán và đến ái dục:

^^^^

7. Ôi Suriya Vaccasa!
Ta đảnh lễ Timbaru,
Bậc phụ thân của nàng,
Ðã sanh nàng thiện nữ,
Nguồn hạnh phúc của ta,
Như gió cho kẻ mệt.
Như nước cho kẻ khát,
Nàng là tình của ta.
Như pháp với Ứng Cúng,
Như thuốc cho kẻ bệnh,
Như đồ ăn kẻ đói,
Thiên nữ với nước mắt.
Hãy dập tắt lửa tình!
Như voi bị nắng thiêu,
Tẩm mình hồ nước mát,
Có cánh sen, nhụy sen.
Cũng vậy, ta muốn chìm,
Chìm sâu vào ngực nàng.
Như voi bị xiềng xích,
Hất móc câu, gậy nhọn,
Ta điên vì ngực nàng,
Hành động ta rối loạn.
Tâm ta bị nàng trói,
Di chuyển thật vô phương,
Rút lui cũng bất lực,
Như cá đã mắc câu.
Hiền nữ hãy ôm ta,
Trong cánh tay của nàng!
Hãy ôm ta, nhìn ta,
Trong ánh mắt dịu hiền.
Hãy ghì chặt lấy ta,
Thiện nữ! Ta van nàng!
Ôi Hiền nữ suối tóc,
Ái dục ta có bao!
Nhưng nay đã tăng bội,
Như đồ chúng La Hán!
Mọi công đức ta làm,
Dâng lên bậc La Hán,
Ôi Kiều nữ toàn thiện,
Nàng là quả cho ta.
Công đức khác của ta,
Ðã làm trên đời này!
Ôi Kiều nữ toàn thiện,
Nàng là quả của ta!
Vị Thích tử thiền tu,
Nhứt tâm và giác tỉnh,
Tìm cầu đạo Bất tử,
Cũng vậy ta cầu nàng!
Như người tu sung sướng,
Chứng Bồ Ðề tối thượng.
Kiều nữ, ta sung sướng,
Ðược nhập một với nàng,
Nếu Thiên chủ Sakka,
Cho ta một ước nguyện,
Ta ước nguyện được nàng,
Vì ta quá yêu nàng!
Như ta-la sanh quả,
Tuệ Nữ, phụ thân nàng!
Ta sẽ đảnh lễ ngài,
Vì sanh nàng vẹn toàn!

When I finished, Suriyavacchasā said to me,

Bạch Thế Tôn, sau khi nghe nói vậy, Bhaddà Suriya Vaccasà nói với con như sau:

‘Dear sir, I have not personally seen the Buddha. But I did hear about him when I went to dance for the gods of the Thirty-Three in the Hall of Justice. Since you extol the Buddha, let us meet up today.’ And that’s when I met up with that sister. But we have not met since.”

"Này Hiền giả, tôi chưa được thấy Thế Tôn tận mặt. Nhưng tôi có nghe đến Thế Tôn, khi tôi đến múa tại Thiện Pháp đường của chư Thiên ở Tam thập tam thiên. Vì Hiền giả đã tán dương Thế Tôn như vậy, vậy hôm nay chúng ta sẽ gặp nhau".

^^^

Bạch Thế Tôn, rồi con được gặp nàng, không phải hôm ấy, nhưng về sau.

2. The Approach of Sakka Then Sakka, lord of gods, thought, “Pañcasikha is exchanging pleasantries with the Buddha.”

8. Rồi Thiên chủ Sakka suy nghĩ như sau: "Pancasikha, con của Càn Thát Bà hoan hỷ đàm luận với Thế Tôn. Và Thế Tôn đối với Pancasikha cũng vậy".

So he addressed Pañcasikha, “My dear Pañcasikha, please bow to the Buddha for me, saying: ‘Sir, Sakka, lord of gods, with his ministers and retinue, bows with his head at your feet.’”

“Yes, lord,”

Rồi Thiên chủ Sakka nói với Pancasikha, con của Càn Thát Bà: - Này Khanh Pancasikha, hãy thay mặt ta, đảnh lễ Thế Tôn và nói: "Bạch Thế Tôn, Thiên chủ Sakka cùng với đình thần và thuộc hạ đầu diện tiếp tục đảnh lễ Thế Tôn".

- Xin vâng, mong an lành đến cho Ngài.

replied Pañcasikha. He bowed to the Buddha and said, “Sir, Sakka, lord of gods, with his ministers and retinue, bows with his head at your feet.”

Pancasikha, con của Càn Thát Bà vâng theo lời dặn của Thiên chủ Sakka, đảnh lễ Thế Tôn và nói: - Bạch Thế Tôn, Thiên chủ Sakka cùng với đình thần và thuộc hạ, đầu diện tiếp tục đảnh lễ Thế Tôn.

“So may Sakka with his ministers and retinue be happy, Pañcasikha,” said the Buddha, “for all want to be happy—whether gods, humans, demons, dragons, fairies, or any of the other diverse creatures there may be.”

- Này Pancasikha, mong hạnh phúc đến với Thiên chủ Sakka, với các đình thần và các thuộc hạ! Chư Thiên, loài Người, Asurà, Nàgà, Gandhabba, đều ao ước hạnh phúc. Các loại chúng sanh khác cũng vậy.

For that is how the Realized Ones salute such illustrious spirits. And being saluted by the Buddha, Sakka entered the Indasāla cave, bowed to the Buddha, and stood to one side. And the gods of the Thirty-Three did likewise, as did Pañcasikha.

Như vậy, các Như Lai chào đón thượng chúng. Ðược chào đón như vậy, Thiên chủ Sakka bước vào hang Indasàla của Thế Tôn, đảnh lễ Ngài và đứng một bên. Chư Thiên ở Tam thập tam thiên cũng bước vào hang Indasàla, đảnh lễ Thế Tôn và đứng một bên. Pancasikha, con của Càn Thát Bà cũng bước vào hang Indasàla, đảnh lễ Thế Tôn và đứng một bên.

And at that time the uneven places were evened out, the cramped places were opened up, the darkness vanished and light appeared, as happens through the glory of the gods.Then the Buddha said to Sakka,

9. Lúc bấy giờ, trong hang Indasàla, những con đường gồ ghề được làm bằng phẳng, những khoảng chật hẹp được làm cho rộng rãi, trong hang tối tăm có hào quang chiếu sáng, đó là nhờ thần lực của chư Thiên. Rồi Thế Tôn nói với Thiên chủ Sakka:

“It’s incredible and amazing that you, the venerable Kosiya, who has so many duties and so much to do, should come here.”

- Thật là hy hữu, Ðại đức Kosiya! Thật là kỳ diệu, Ðại đức Kosiya, tuy có nhiều trách nhiệm phải gánh vác, có nhiều công tác phải làm, mà vẫn đến đây được!

“For a long time I’ve wanted to come and see the Buddha, but I wasn’t able, being prevented by my many duties and responsibilities for the gods of the Thirty-Three. This one time, sir, the Buddha was staying near Sāvatthī in the frankincense-tree hut. Then I went to Sāvatthī to see the Buddha.

- Bạch Thế Tôn, đã từ lâu con muốn đến để yết kiến Thế Tôn, nhưng bị ngăn trở bởi các công việc này, công việc khác phải làm cho chư Thiên ở Tam thập tam thiên, và do vậy không thể đến yết kiến Thế Tôn được. Bạch Thế Tôn, một thời, Thế Tôn trú ở Sàvatthi (Xá Vệ), tại cốc Salala. Bạch Thế Tôn, rồi con đến Sàvatthi để yết kiến Thế Tôn.

But at that time the Buddha was sitting immersed in some kind of meditation. And a divine maiden of Great King Vessavaṇa named Bhūjati was attending on the Buddha, standing there paying homage to him with joined palms.So I said to her,

10. Lúc bấy giờ, Thế Tôn đang ngồi nhập định và Bhunjàti, vợ của Vessavana đang đứng hầu Thế Tôn, đảnh lễ chắp tay. Bạch Thế Tôn, rồi con nói với Bhunjàti:

‘Sister, please bow to the Buddha for me, saying: “Sir, Sakka, lord of gods, with his ministers and retinue, bows with his head at your feet.”’

"- Này Hiền tỷ, hãy thay mặt ta đảnh lễ Thế Tôn và thưa: "Bạch Thế Tôn, Thiên chủ Sakka với đình thần và thuộc hạ đầu diện tiếp tục đảnh lễ Thế Tôn".

When I said this, she said to me, ‘It’s the wrong time to see the Buddha, as he’s in retreat.’

Ðược nghe nói vậy, Bhunjàti nói với con: "- Thiện hữu, nay không phải thời để yết kiến Thế Tôn. Thế Tôn đang an lặng tịnh cư.

‘Well then, sister, please convey my message when the Buddha emerges from that immersion.’

"- Này Hiền tỷ, khi nào xuất định, hãy thay mặt ta đảnh lễ Thế Tôn và thưa: "Bạch Thế Tôn, Thiên chủ Sakka cùng đình thần và thuộc hạ đầu diện tiếp tục đảnh lễ Thế Tôn".

I hope that sister bowed to you? Do you remember what she said?”

Bạch Thế Tôn, không hiểu Bhunjãti có thay mặt con đảnh lễ Thế Tôn không? Thế Tôn có nhớ lời bà ấy nói không?

“She did bow, lord of gods, and I remember what she said. I also remember that it was the sound of your chariot wheels that pulled me out of that immersion.”

- Này Thiên chủ, bà ấy có đảnh lễ Ta. Ta có nhớ lời bà ấy nói. Chính tiếng bánh xe của Ngài đã khiến Ta xuất định.

“Sir, I have heard and learned this in the presence of the gods who were reborn in the host of the Thirty-Three before me: ‘When a Realized One arises in the world, perfected and fully awakened, the heavenly hosts swell, while the demon hosts dwindle.’ And I have seen this with my own eyes.

2.1. The Story of Gopikā
Right here in Kapilavatthu there was a Sakyan lady named Gopikā who had confidence in the Buddha, the teaching, and the Saṅgha, and had fulfilled her ethics. Losing her attachment to femininity, she developed masculinity. When her body broke up, after death, she was reborn in a good place, a heavenly realm. In the company of the gods of the Thirty-Three she became one of my sons. There they knew him as the god Gopaka.

Meanwhile three others, mendicants who had led the spiritual life under the Buddha, were reborn in the inferior fairy realm. There they amused themselves, supplied and provided with the five kinds of sensual stimulation, and became my servants and attendants.

At that, Gopaka scolded them, ‘Where on earth were you at, good sirs, when you heard the Buddha’s teaching! For while I was still a woman I had confidence in the Buddha, the teaching, and the Saṅgha, and had fulfilled my ethics. I lost my attachment to femininity and developed masculinity. When my body broke up, after death, I was reborn in a good place, a heavenly realm. In the company of the gods of the Thirty-Three I became one of Sakka’s sons. Here they know me as the god Gopaka. But you, having led the spiritual life under the Buddha, were reborn in the inferior fairy realm.’

When scolded by Gopaka, two of those gods in that very life gained mindfulness leading to the host of Brahmā’s Ministers. But one god remained attached to sensuality.

11. Bạch Thế Tôn, có chư Thiên được sanh lên Tam thập tam thiên trước chúng con, chính chúng con tận mắt được nghe chư Thiên ấy nói như sau: "Khi Như Lai, bậc A La Hán, Chánh Ðẳng Giác xuất hiện ở đời, Thiên giới được hưng thịnh và Asurà giới bị suy vong". Bạch Thế Tôn, chính con có thể thấy và xác chứng rằng khi nào Như Lai, bậc A La Hán, Chánh Ðẳng Giác xuất hiện ở đời, thì Thiên giới được hưng thịnh và Asurà giới bị suy vong.

Bạch Thế Tôn ở đây, tại Kapilavatthu, có Thích nữ tên là Gopika, có lòng tin Phật, tin Pháp, tin Tăng, và gìn giữ đầy đủ giới luật. Thích nữ này, loại bỏ tâm niệm đàn bà, tu tập tâm niệm đàn ông, khi thân hoại mạng chung được sanh lên Thiên giới, thiện thú, nhập chúng với chư Thiên ở Tam thập tam thiên, sanh ra làm con của chúng con. Và ở đấy, nàng được gọi là Thiên tử Gopakà, Thiên tử Gopakà.

Bạch Thế Tôn, lại có ba Tỷ Kheo khác sống phạm hạnh với Thế Tôn và sanh vào Càn Thát Bà giới hạ đẳng. Họ sống được bao vây thọ hưởng năm món dục tăng thịnh và thường hay đến hầu hạ săn sóc chúng con. Chúng con được họ đến hầu hạ và săn sóc chúng con như vậy, Thiên tử Gopakà mới trách la họ như sau: "Chư Thiện hữu, tai các Người ở đâu mà không nghe Pháp của Thế Tôn. Chính ta xưa là đàn bà, tin Phật, tin Pháp, tin Tăng, gìn giữ giới luật, loại bỏ tâm niệm đàn bà, tu tập tâm niệm đàn ông, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên thiện thú, Thiên giới, nhập chúng với chư Thiên ở Tam thập tam thiên, làm con của Thiên chủ Sakka và được gọi là Thiên tử Gopakà. Chư Thiện hữu, các Người tu hành phạm hạnh với Thế Tôn, được sanh vào Càn Thát Bà giới hạ đẳng. Thật là điều không mấy tốt đẹp, khi chúng con thấy những vị đồng môn lại phải sanh vào hạ đẳng Càn Thát Bà giới. Bạch Thế Tôn, trong chư Thiên bị Thiên tử Gopakà trách mắng như vậy, hai vị Thiên, ngay trong hiện tại, chứng được chánh niệm và sanh làm phụ tá cho Phạm thiên. Còn một vị Thiên sống thọ hưởng dục lạc.

‘I was a laywoman disciple of the seer,
and my name was Gopikā.
I was devoted to the Buddha and the teaching,
and I faithfully served the Saṅgha.
Because of the excellence of the Buddha’s teaching,
I’m now a mighty, splendid son of Sakka,
reborn among the Three and Thirty.
And here they know me as Gopaka.
Then I saw some mendicants who I’d seen before,
dwelling in the host of fairies.
When I used to be a human,
they were disciples of Gotama.
I served them with food and drink,
and clasped their feet in my own home.
Where on earth were they at
when they learned the Buddha’s teachings?
For each must know for themselves the teaching
so well-taught, realized by the seer.
I was one who followed you,
having heard the fine words of the noble ones.
I’m now a mighty, splendid son of Sakka,
reborn among the Three and Thirty.
But you followed the best of men,
and led the supreme spiritual life,
but still you’re born in this lesser realm,
a rebirth not befitting.
It’s a sorry sight I see, good sirs,
fellow Buddhists in a lesser realm.
Reborn in the host of fairies,
you only wait upon the gods.
Meanwhile, I dwelt in a house—
but see my distinction now!
Having been a woman now I’m a male god,
blessed with heavenly sensual pleasures.’
Scolded by that disciple of Gotama,
when they understood Gopaka, they were struck with urgency.
‘Let’s strive, let’s try hard—
we won’t serve others any more!’
Two of them aroused energy,
recalling the Buddha’s instructions.
Right away they became dispassionate,
seeing the drawbacks in sensual pleasures.
The fetters and bonds of sensual pleasures—
the ties of the Wicked One so hard to break—
they burst them like a bull elephant his ropes,
and passed right over the Thirty-Three.
The gods with Indra and Pajāpati
were all gathered in the Hall of Justice.
As they sat there, they passed over them,
the heroes desireless, practicing purity.
Seeing them, Vāsava was struck with a sense of urgency;
the master of gods in the midst of the group said,
‘These were born in the lesser fairy realm,
but now they pass us by!’
Heeding the speech of one so moved,
Gopaka addressed Vāsava,
‘There is a Buddha, a lord of men, in the world.
Known as the Sakyan Sage, he’s mastered the senses.
Those sons of his were bereft of mindfulness;
but when scolded by me they gained it back.
Of the three, there is one who remains
dwelling in the host of fairies.
But two, recollecting the path to awakening,
serene, spurn even the gods.’
The teaching’s explained in such a way
that not a single disciple doubts it.
We venerate the Buddha, the victor, lord of men,
who has crossed the flood and cut off doubt.
They attained to distinction fitting
the extent to which they understood the teaching here.
Two of them mastered the distinction of
the host of Brahmā’s Ministers.
We have come here, dear sir,
to realize this same teaching.
If the Buddha would give me a chance,
I would ask a question, dear sir.”

12. Ta đệ tử pháp nhãn,
Tên gọi Gopakà,
Ta tin Phật, Pháp, Tăng.
Tâm niệm rất hoan hỷ.
Nhờ Thiện pháp chư Phật,
Sanh con Thần Sakka,
Hào quang, sanh Thiên giới,
Ðược tên Gopakà.
Ta thấy ba Tỷ Kheo,
Hạ sanh Càn Thát Bà!
Ðệ tử Gotama,
Trước sanh làm con Người,
Ta cúng dường ẩm thực,
Hầu hạ trú xứ ta.
Mắt Hiền giả ở đâu?
Không nắm giữ Pháp, Phật,
Chánh pháp tự giác hiểu,
Bậc Pháp nhãn khéo giảng.
Ta chỉ hầu Quý vị,
Ðược nghe Pháp bậc Thánh.
Ta là con Sakka,
Có thần lực hào quang,
Ðược sanh lên Thiên giới.
Các người hầu Thế Tôn,
Sống phạm hạnh tối thượng,
Nay phải sanh hạ thân,
Mất thượng sanh hạ phẩm.
Ta nhìn thật khó chịu,
Thấy đồng môn hạ sanh
Với thân Càn Thát Bà,
Phải hầu hạ chư Thiên.
Từ địa vị cư sĩ,
Ta thấy rõ khác biệt.
Trước bà, nay đàn ông.
Ta sanh Thiên, hưởng dục.
Bị Gopakà trách mắng,
Ưu phiền đồng phát nguyện,
Phải thăng tiến nỗ lực,
Không nô lệ cho ai!
Hai trong ba vị này,
Bắt đầu hành tinh tấn,
Nhờ Gotama dạy,
Chúng tẩy sạch tâm uế,
Thấy nguy hiểm dục vọng.
Như voi bỏ dây cương,
Các vị vượt Tam thiên,
Vứt bỏ dục kiết sử,
Quỷ triền phược khó vượt,
Cùng Sakka, Pajàpati.
Hội chúng Thiện Pháp đường
Vượt quá vị đang ngồi,
Anh hùng ly dục cấu.
Thấy chúng khỏi lo ngại,
Vasava giữa Thiên chúng,
Xem chúng sinh hạ phẩm,
Nay vượt qua Tam thiên.
Suy tư lời ưu phiền,
Gopaka với Vàsava:
Ðế Thích ở nhân giới,
Ðức Phật gọi Thích Ca
Ðã chinh phục dục vọng.
Chúng là con của Ngài,
Thất niệm khi mệnh chung,
Nhờ Ta lấy chánh niệm.
Một trong ba vị ấy,
Mang thân Càn Thát Bà.
Hai vị hướng Chánh giác,
Bỏ Thiên giới, nhập thiền.
Ðừng đệ tử nào nghi,
Vị ở đây chứng pháp.
Chúng ta đảnh lễ Phật.
Vị vượt khỏi bộc lưu,
Ðã diệt trừ nghi ngờ,
Bậc chiến thắng muôn loài.
Chính ở đây, chứng pháp,
Tấn bước đạt thù thắng,
Hai vị đạt thắng vị,
Hơn phụ tá Phạm thiên,
Ôi Thiện hữu chúng tôi.
Ðến đây để chứng pháp.
Nếu Thế Tôn cho phép,
Chúng con hỏi Thế Tôn.

Then the Buddha thought, “For a long time now this spirit has led a pure life. Any question he asks me will be beneficial, not useless. And he will quickly understand any answer I give to his question.”

13. Rồi Thế Tôn suy nghĩ: "Ðã lâu, Sakka này sống đời trong sạch. Câu hỏi gì Sakka hỏi Ta, đều hỏi có lợi ích, không phải không lợi ích. Câu hỏi gì hỏi Ta, Ta sẽ trả lời; và Sakka sẽ hiểu một cách mau chóng".

So the Buddha addressed Sakka in verse:

“Ask me your question, Vāsava,
whatever you want.
I’ll solve each and every
problem you have.”

Rồi Thế Tôn nói bài kệ sau đây với Thiên chủ Sakka:

Vàsava hãy hỏi Ta,
Những gì tâm Ngươi muốn!
Mỗi câu hỏi của Ngươi,
Ta làm Ngươi thỏa mãn.

Part II
The first recitation section is finished.
Having been granted an opportunity by the Buddha, Sakka asked the first question.
“Dear sir, what fetters bind the gods, humans, demons, dragons, fairies—and any of the other diverse creatures—so that, though they wish to be free of enmity, violence, hostility, and hate, they still have enmity, violence, hostility, and hate?”

Tụng phẩm II
1. Sau khi được phép, Thiên chủ Sakka hỏi Thế Tôn câu hỏi đầu tiên:
- Bạch Thế Tôn, do kiết sử gì, các loài Thiên, Nhân, Asurà, Nàgà, Càn Thát Bà, và tất cả những loài khác, dân chúng ao ước: "Không hận thù, không đả thương, không thù nghịch, không ác ý, chúng ta sống với nhau không hận thù". Thế mà với hận thù, với đả thương, với thù nghịch, với ác ý, họ sống với nhau trong hận thù?

Such was Sakka’s question to the Buddha. And the Buddha answered him:

Ðó là hình thức câu hỏi thứ nhất, Thiên chủ Sakka hỏi Thế Tôn. Và Thế Tôn trả lời câu hỏi ấy như sau:

“Lord of gods, the fetters of jealousy and stinginess bind the gods, humans, demons, dragons, fairies—and any of the other diverse creatures—so that, though they wish to be free of enmity, violence, hostility, and hate, they still have enmity, violence, hostility, and hate.”

- Do tật đố và xan tham, các loài Thiên, Nhân Asurà, Nàgà, Càn Thát Bà và tất cả những loài khác, dân chúng ao ước: "Không hận thù, không đả thương, không thù nghịch, không ác ý, chúng ta sống với nhau không hận thù". Thế mà với hận thù, với đả thương, với thù nghịch, với ác ý, họ sống với nhau trong hận thù.

Such was the Buddha’s answer to Sakka. Delighted, Sakka approved and agreed with what the Buddha said, saying,

Ðó là hình thức Thế Tôn trả lời cho câu hỏi Thiên chủ Sakka. Sung sướng, Thiên chủ Sakka hoan hỷ tín thọ lời dạy Thế Tôn và nói:

“That’s so true, Blessed One! That’s so true, Holy One! Hearing the Buddha’s answer, I’ve gone beyond doubt and got rid of indecision.”

- Như vậy là phải, bạch Thế Tôn! Như vậy là phải, bạch Thiện Thệ! Khi nghe Thế Tôn trả lời câu hỏi, nghi ngờ của con diệt tận, do dự của con tiêu tan.

And then, having approved and agreed with what the Buddha said, Sakka asked another question:

2. Thiên chủ Sakka, sau khi hoan hỷ, tín thọ câu trả lời Thế Tôn, liền hỏi câu hỏi tiếp:

“But dear sir, what is the source, origin, birthplace, and inception of jealousy and stinginess? When what exists is there jealousy and stinginess? When what doesn’t exist is there no jealousy and stinginess?”

- Bạch Thế Tôn, tật đố, xan tham, do nhân duyên gì, do tập khởi gì, cái gì khiến chúng sanh khởi, cái gì khiến chúng hiện hữu, cái gì có mặt thì tật đố, xan tham có mặt? Cái gì không có mặt, thì tật đố xan tham không có mặt?

“The liked and the disliked, lord of gods, are the source of jealousy and stinginess. When the liked and the disliked exist there is jealousy and stinginess. When the liked and the disliked don’t exist there is no jealousy and stinginess.”

- Này Thiên chủ, tật đố và xan tham do ưa ghét làm nhân duyên, do ưa ghét làm tập khởi, ưa ghét khiến chúng sanh khởi, ưa ghét khiến chúng hiện hữu, ưa ghét có mặt thì tật đố, xan tham có mặt; ưa ghét không có mặt thì tật đố, xan tham không có mặt.

“But dear sir, what is the source of what is liked and disliked?”

- Bạch Thế Tôn, ưa ghét do nhân duyên gì, do tập khởi gì? Cái gì khiến chúng sanh khởi, cái gì khiến chúng hiện hữu, cái gì có mặt thì ưa ghét có mặt? Cái gì không có mặt thì ưa ghét không có mặt?

“Desire is the source of what is liked and disliked.”

- Này Thiên chủ, ưa ghét do dục làm nhân duyên, do dục làm tập khởi, dục khiến chúng sanh khởi, dục khiến chúng hiện hữu. Dục có mặt thì ưa ghét có mặt; dục không có mặt thì ưa ghét không có mặt.

“But what is the source of desire?”

- Bạch Thế Tôn, nhưng dục do nhân duyên gì, do tập khởi gì? Cái gì khiến dục sanh khởi, cái gì khiến dục hiện hữu? Cái gì có mặt thì dục có mặt? Cái gì không có mặt thì dục không có mặt?

“Thought is the source of desire.”

- Này Thiên chủ, dục do tầm làm nhân duyên, do tầm làm tập khởi; tầm khiến dục sanh khởi, tầm khiến dục hiện hữu. Tầm có mặt thì dục có mặt; tầm không có mặt thì dục không có mặt.

“But what is the source of thought?”

- Bạch Thế Tôn, tầm lấy gì làm nhân duyên, lấy gì làm tập khởi? Cái gì khiến tầm sanh khởi, cái gì khiến tầm hiện hữu? Cái gì có mặt thì tầm có mặt? Cái gì không có mặt thì tầm không có mặt?

“Concepts of identity that emerge from the proliferation of perceptions are the source of thoughts.”

- Này Thiên chủ, tầm lấy cái loại vọng tưởng hý luận làm nhân duyên, lấy các loại vọng tưởng hý luận làm tập khởi. Các loại vọng tưởng hý luận khiến tầm sanh khởi, các loại vọng tưởng hý luận khiến tầm hiện hữu. Do các loại vọng tưởng hý luận có mặt thì tầm có mặt. Do các loại vọng tưởng hý luận không có mặt thì tầm không có mặt".

“But how does a mendicant fittingly practice for the cessation of concepts of identity that emerge from the proliferation of perceptions?”

3. Bạch Thế Tôn, vị Tỷ Kheo phải chứng đạt như thế nào? Phải thành tựu con đường nào thích hợp và hướng dẫn diệt trừ các loại vọng tưởng hý luận?

2.2. Meditation on Feelings
“Lord of gods, there are two kinds of happiness, I say: that which you should cultivate, and that which you should not cultivate. There are two kinds of sadness, I say: that which you should cultivate, and that which you should not cultivate. There are two kinds of equanimity, I say: that which you should cultivate, and that which you should not cultivate.

- Này Thiên chủ, Ta nói hý luận có hai loại, một loại phải thân cận, một loại phải tránh xa. Này Thiên chủ, Ta nói ưu cũng có hai loại, một loại phải thân cận, một loại phải tránh xa. Này Thiên chủ, Ta nói xả cũng có hai loại, một loại phải thân cận, một loại phải tránh xa.

Why did I say that there are two kinds of happiness? Well, should you know of a happiness: ‘When I cultivate this kind of happiness, unskillful qualities grow, and skillful qualities decline.’ You should not cultivate that kind of happiness. Whereas, should you know of a happiness: ‘When I cultivate this kind of happiness, unskillful qualities decline, and skillful qualities grow.’ You should cultivate that kind of happiness. And that which is free of placing the mind and keeping it connected is better than that which still involves placing the mind and keeping it connected.

Này Thiên chủ, Ta nói hỷ có hai loại, một loại phải thân cận, một loại phải tránh xa. Lời tuyên bố là như vậy. Do nhân duyên gì tuyên bố như vậy? Ở đây, loại hỷ nào có thể biết được: "Khi tôi thân cận với hỷ này, bất thiện pháp tăng trưởng, thiện pháp suy giảm", thời hỷ ấy cần phải tránh xa. Ở đây loại hỷ nào có thể biết được: "Khi tôi thân cận với hỷ này, bất thiện pháp suy giảm, thiện pháp tăng trưởng", thời hỷ ấy nên thân cận. Ở đây, có hỷ câu hữu với tầm, câu hữu với tứ; có hỷ không câu hữu với tầm, không câu hữu với tứ. Các loại hỷ không câu hữu với tầm, không câu hữu với tứ thì thù thắng hơn.

That’s why I said there are two kinds of happiness..

Này Thiên chủ, Ta nói hỷ có hai loại, một loại nên thân cận, một loại nên tránh xa. Sở dĩ có lời tuyên bố như vậy là do nhân duyên như vậy.

Why did I say that there are two kinds of sadness? Well, should you know of a sadness: ‘When I cultivate this kind of sadness, unskillful qualities grow, and skillful qualities decline.’ You should not cultivate that kind of sadness. Whereas, should you know of a sadness: ‘When I cultivate this kind of sadness, unskillful qualities decline, and skillful qualities grow.’ You should cultivate that kind of sadness. And that which is free of placing the mind and keeping it connected is better than that which still involves placing the mind and keeping it connected.

Này Thiên chủ, Ta nói ưu cũng có hai loại, một loại nên thân cận, một loại nên tránh xa. Lời tuyên bố là như vậy. Do nhân duyên gì, tuyên bố như vậy? Ở đây, loại ưu nào có thể biết được: "Khi tôi thân cận với ưu này, bất thiện pháp tăng trưởng, thiện pháp suy giảm", thời ưu ấy cần phải tránh xa. Ở đây, loại ưu nào có thể biết được: "Khi tôi thân cận với ưu này, bất thiện pháp suy giảm, thiện pháp tăng trưởng", thời ưu ấy nên thân cận. Ở đây, có ưu câu hữu với tầm, câu hữu với tứ, có ưu không câu hữu với tầm, không câu hữu với tứ. Các loại ưu không câu hữu với tầm, không câu hữu với tứ thì thù thắng hơn.

That’s why I said there are two kinds of sadness.

Này Thiên chủ, Ta nói ưu là hai loại, một loại nên thân cận, một loại nên tránh xa. Sở dĩ có lời tuyên bố như vậy, là do nhân duyên như vậy.

Why did I say that there are two kinds of equanimity? Well, should you know of an equanimity: ‘When I cultivate this kind of equanimity, unskillful qualities grow, and skillful qualities decline.’ You should not cultivate that kind of equanimity. Whereas, should you know of an equanimity: ‘When I cultivate this kind of equanimity, unskillful qualities decline, and skillful qualities grow.’ You should cultivate that kind of equanimity. And that which is free of placing the mind and keeping it connected is better than that which still involves placing the mind and keeping it connected.

Này Thiên chủ, Ta nói xả cũng có hai loại, một loại nên thân cận, một loại nên tránh xa. Lời tuyên bố là như vậy. Do nhân duyên gì, tuyên bố như vậy? Ở đây, loại xả nào có thể biết được: "Khi tôi thân cận với xả này, bất thiện pháp tăng trưởng, thiện pháp suy giảm", thời xả ấy cần phải tránh xa. Ở đây, loại xả nào có thể biết được: "Khi tôi thân cận với xả này, bất thiện pháp suy giảm, thiện pháp tăng trưởng", thời xả ấy nên thân cận. Ở đây, có xả câu hữu với tầm, câu hữu với tứ, có xả không câu hữu với tầm, không câu hữu với tứ. Các loại xả không câu hữu với tầm, không câu hữu với tứ thì thù thắng hơn.

That’s why I said there are two kinds of equanimity.

Này Thiên chủ, Ta nói rằng xả có hai loại, một loại nên thân cận, một loại nên tránh xa. Sở dĩ có lời tuyên bố như vậy là do nhân duyên như vậy.

That’s how a mendicant fittlingly practices for the cessation of concepts of identity that emerge from the proliferation of perceptions.”

Này Thiên chủ, vị Tỷ Kheo phải chứng đạt như vậy, phải thành tựu con đường như vậy, mới thích hợp và hướng dẫn đến sự diệt trừ các vọng tưởng hý luận.

Such was the Buddha’s answer to Sakka. Delighted, Sakka approved and agreed with what the Buddha said, saying,

Ðó là hình thức câu trả lời Thế Tôn cho câu hỏi Thiên chủ Sakka. Sung sướng, Thiên chủ Sakka hoan hỷ, tín thọ lời dạy Thế Tôn và nói:

“That’s so true, Blessed One! That’s so true, Holy One! Hearing the Buddha’s answer, I’ve gone beyond doubt and got rid of indecision.”

- Như vậy là phải, bạch Thế Tôn! Như vậy là phải, bạch Thiện Thệ! Khi nghe Thế Tôn trả lời câu hỏi, nghi ngờ của con được diệt tận, do dự của con được tiêu tan.

2.3. Restraint in the Monastic Code
And then Sakka asked another question:

4. Thiên chủ Sakka, sau khi hoan hỷ tín thọ câu trả lời của Thế Tôn liền hỏi câu hỏi tiếp:

“But dear sir, how does a mendicant practice for restraint in the monastic code?”

- Bạch Thế Tôn, vị Tỷ Kheo phải thành tựu như thế nào, phải thành tựu biệt giải thoát luật nghi như thế nào?

“Lord of gods, I say that there are two kinds of bodily behavior: that which you should cultivate, and that which you should not cultivate. I say that there are two kinds of verbal behavior: that which you should cultivate, and that which you should not cultivate. There are two kinds of search, I say: that which you should cultivate, and that which you should not cultivate.

Này Thiên chủ, Ta nói rằng thân hành có hai loại, một loại nên thân cận, một loại nên tránh xa. Này Thiên chủ, Ta nói rằng khẩu hành có hai loại, một loại nên thân cận, một loại nên tránh xa. Này Thiên chủ, Ta nói rằng tầm cầu có hai loại, một loại nên thân cận, một loại nên tránh xa.

Why did I say that there are two kinds of bodily behavior? Well, should you know of a bodily conduct: ‘When I cultivate this kind of bodily conduct, unskillful qualities grow, and skillful qualities decline.’ You should not cultivate that kind of bodily conduct. Whereas, should you know of a bodily conduct: ‘When I cultivate this kind of bodily conduct, unskillful qualities decline, and skillful qualities grow.’ You should cultivate that kind of bodily conduct. That’s why I said there are two kinds of bodily behavior.

Này Thiên chủ, Ta nói rằng thân hành có hai loại, một loại nên thân cận, một loại nên tránh xa. Lời tuyên bố là như vậy. Do nhân duyên gì tuyên bố như vậy? Ở đây, loại thân hành nào có thể biết được: "Khi tôi thân cận với thân hành này, bất thiện pháp tăng tướng, thiện pháp suy giảm", thì thân hành ấy cần phải tránh xa. Ở đây, loại thân hành nào có thể biết được: "Khi tôi thân cận với thân hành này, bất thiện pháp suy giảm, thiện pháp tăng trưởng", thì thân hành ấy cần phải thân cận.

That’s why I said there are two kinds of bodily behavior

Này Thiên chủ, Ta nói rằng thân hành có hai loại, một loại cần thân cận, một loại cần tránh xa. Sở dĩ có lời tuyên bố như vậy là do nhân duyên như vậy.

Why did I say that there are two kinds of verbal behavior? Well, should you know of a kind of verbal behavior that it causes unskillful qualities to grow while skillful qualities decline, you should not cultivate it. Whereas, should you know of a kind of verbal behavior that it causes unskillful qualities to decline while skillful qualities grow, you should cultivate it.

Này Thiên chủ, Ta nói rằng khẩu hành có hai loại, một loại nên thân cận, một loại nên tránh xa. Lời tuyên bố là như vậy. Do nhân duyên gì tuyên bố như vậy? Ở đây, loại khẩu hành nào có thể biết được: "Khi tôi thân cận với khẩu hành này, bất thiện pháp tăng trưởng, thiện pháp suy giảm", thì khẩu hành ấy phải tránh xa. Ở đây, loại khẩu hành nào có thể biết được: "Khi tôi thân cận với khẩu hành này, bất thiện pháp suy giảm, thiện pháp tăng trưởng", thì khẩu hành ấy cần phải thân cận.

That’s why I said there are two kinds of verbal behavior.

Này Thiên chủ, Ta nói rằng khẩu hành có hai loại, một loại nên thân cận, một loại nên tránh xa. Sở dĩ có lời tuyên bố như vậy, là do nhân duyên như vậy.

Why did I say that there are two kinds of search? Well, should you know of a kind of search that it causes unskillful qualities to grow while skillful qualities decline, you should not cultivate it. Whereas, should you know of a kind of search that it causes unskillful qualities to decline while skillful qualities grow, you should cultivate it.

Này Thiên chủ, Ta nói rằng tầm cầu cũng có hai loại, một loại nên thân cận, một loại nên tránh xa. Lời tuyên bố là như vậy. Do nhân duyên gì tuyên bố như vậy? Ở đây loại tầm cầu nào có thể biết được: "Khi tôi thân cận với tầm cầu này, bất thiện pháp tăng trưởng, thiện pháp suy giảm", thì loại tầm cầu ấy cần phải tránh xa. Ở đây, loại tầm cầu nào có thể biết được: "Khi tôi thân cận loại tầm cầu này, bất thiện pháp suy giảm, thiện pháp tăng trưởng", thì loại tầm cầu ấy nên thân cận.

That’s why I said there are two kinds of search.

Này Thiên chủ, Ta nói rằng tầm cầu có hai loại, một loại nên thân cận, một loại nên tránh xa. Sở dĩ có lời tuyên bố như vậy là do nhân duyên như vậy.

That’s how a mendicant practices for restraint in the monastic code.”

Này Thiên chủ, vị Tỷ Kheo phải thành tựu như vậy, phải thành tựu biệt giải thoát luật nghi như vậy!

Such was the Buddha’s answer to Sakka. Delighted, Sakka approved and agreed with what the Buddha said, saying,

Ðó là hình thức Thế Tôn trả lời câu hỏi Thiên chủ Sakka. Sung sướng, Thiên chủ Sakka hoan hỷ, tín thọ lời dạy Thế Tôn và nói:

“That’s so true, Blessed One! That’s so true, Holy One! Hearing the Buddha’s answer, I’ve gone beyond doubt and got rid of indecision.”

- Như vậy là phải, bạch Thế Tôn! Như vậy là phải, bạch Thiện Thệ! Sau khi nghe Thế Tôn trả lời câu hỏi, nghi ngờ con được diệt tận, do dự con được tiêu tan.

2.4. Sense Restraint
And then Sakka asked another question: “But dear sir, how does a mendicant practice for restraint of the sense faculties?”

5. Thiên chủ Sakka, sau khi hoan hỷ tín thọ lời dạy Thế Tôn liền hỏi câu hỏi tiếp: - Bạch Thế Tôn, vị Tỷ Kheo phải thành tựu như thế nào, phải thành tựu hộ trì các căn như thế nào?

“Lord of gods, I say that there are two kinds of sight known by the eye: that which you should cultivate, and that which you should not cultivate. There are two kinds of sound known by the ear … smells known by the nose … tastes known by the tongue … touches known by the body … thoughts known by the mind: that which you should cultivate, and that which you should not cultivate.”

- Này Thiên chủ, sắc do mắt phân biệt. Ta nói rằng có hai loại, một loại nên thân cận, một loại nên tránh xa. Này Thiên chủ, tiếng do tai phân biệt... hương do mũi phân biệt... vị do lưỡi phân biệt... xúc do thân phân biệt... Này Thiên chủ, pháp do ý phân biệt, Ta nói rằng có hai loại, một loại nên thân cận, một loại nên tránh xa.

When the Buddha said this, Sakka said to him: “Sir, this is how I understand the detailed meaning of the Buddha’s brief statement: You should not cultivate the kind of sight known by the eye which causes unskillful qualities to grow while skillful qualities decline. And you should cultivate the kind of sight known by the eye which causes unskillful qualities to decline while skillful qualities grow. You should not cultivate the kind of sound, smell, taste, touch, or thought known by the mind which causes unskillful qualities to grow while skillful qualities decline. And you should cultivate the kind of thought known by the mind which causes unskillful qualities to decline while skillful qualities grow. Sir, that’s how I understand the detailed meaning of the Buddha’s brief statement. Hearing the Buddha’s answer, I’ve gone beyond doubt and got rid of indecision.”

Ðược nghe như vậy, Thiên chủ Sakka bạch Thế Tôn: - Bạch Thế Tôn, vấn đề Thế Tôn nói một cách tóm tắt được con hiểu một cách rộng rãi. Bạch Thế Tôn, loại sắc do mắt phân biệt, khi con thân cận mà bất thiện pháp tăng trưởng, thiện pháp suy giảm, thời loại sắc do mắt phân biệt ấy nên tránh xa. Bạch Thế Tôn, loại sắc nào do mắt phân biệt, khi con thân cận, bất thiện pháp suy giảm, thiện pháp tăng trưởng, thời loại sắc do mắt phân biệt ấy nên thân cận. Bạch Thế Tôn, loại tiếng nào do tai phân biệt... loại hương nào do mũi phân biệt... loại vị nào do lưỡi phân biệt... loại xúc nào do thân phân biệt... loại pháp nào do ý phân biệt, khi con thân cận, bất thiện pháp tăng trưởng, thiện pháp suy giảm, thời loại pháp ấy nên tránh xa. Bạch Thế Tôn, loại pháp nào do ý phân biệt, khi con thân cận, bất thiện pháp suy giảm, thiện pháp tăng trưởng, thời loại pháp ấy nên thân cận. Bạch Thế Tôn, vấn đề Thế Tôn nói một cách tóm tắt, được con hiểu một cách rộng rãi. Sau khi nghe Thế Tôn trả lời câu hỏi, nghi ngờ của con tiêu tan, do dự của con diệt tận.

And then Sakka asked another question: “Dear sir, do all ascetics and brahmins have the same doctrine, ethics, desires, and attachments?”

6. Như vậy sau khi hoan hỷ tín thọ lời dạy Thế Tôn, Thiên chủ Sakka lại hỏi câu hỏi tiếp: - Bạch Thế Tôn, có phải tất cả vị Sa Môn, Bà La Môn đều đồng một tư tưởng, đồng một giới hạnh, đồng một mong cầu, đồng một chí hướng?

“No, lord of gods, they do not.”

- Này Thiên chủ, tất cả Sa Môn, Bà La Môn không đồng một tư tưởng, không đồng một giới hạnh, không đồng một mong cầu, không đồng một chí hướng!

“Why not?”

- Bạch Thế Tôn, vì sao cả Sa Môn, Bà La Môn không đồng một giới hạnh, không đồng một mong cầu, không đồng một chí hướng?

“The world has many and diverse elements. Whatever element sentient beings insist on in this world of many and diverse elements, they obstinately stick to it, insisting that: ‘This is the only truth, other ideas are silly.’ That’s why not all ascetics and brahmins have the same doctrine, ethics, desires, and attachments.”

- Này Thiên chủ, thế giới này gồm có nhiều loại giới, nhiều giới sai biệt. Trong thế giới gồm có nhiều loại giới và nhiều giới sai biệt này, các loại hữu tình tự nhiên thiên chấp một loại giới nào, và khi đã thiên chấp, trở thành Kiên trì, cố thủ, với định kiến: "Ðây là sự thật, ngoài ra toàn là si mê". Do vậy, tất cả Sa Môn, Bà La Môn không đồng một tư tưởng, không đồng một giới hạnh, không đồng một cứu cánh, không đồng một mong cầu, không đồng một chí hướng.

“Dear sir, have all ascetics and brahmins reached the ultimate end, the ultimate sanctuary, the ultimate spiritual life, the ultimate goal?”

- Bạch Thế Tôn, có phải tất cả vị Sa Môn, Bà La Môn đều đồng một cứu cánh, đồng một an ổn, đồng một phạm hạnh, đồng một mục đích?

“No, lord of gods, they have not.”

- Này Thiên chủ, tất cả vị Sa Môn, Bà La Môn không đồng một cứu cánh, không đồng một an ổn, không đồng một phạm hạnh, không đồng một mục đích.

“Why not?”

Bạch Thế Tôn, vì sao tất cả Sa môn, Bà la môn, không đồng một cứu cánh, không đồng một an ổn, không đồng một phạm hạnh, không đồng một mục đích?

Those mendicants who are freed through the ending of craving have reached the ultimate end, the ultimate sanctuary, the ultimate spiritual life, the ultimate goal. That’s why not all ascetics and brahmins have reached the ultimate end, the ultimate sanctuary, the ultimate spiritual life, the ultimate goal.”

- Này Thiên chủ, chỉ những vị Sa môn Bà la môn nào đã giải thoát tham ái, những vị ấy mới đồng một cứu cánh, đồng một an ổn, đồng một phạm hạnh, đồng một mục đích. Do vậy, tất cả vị Sa môn, Bà la môn không đồng một cứu cánh, không đồng một an ổn, không đồng một phạm hạnh, không đồng một mục đích.

Such was the Buddha’s answer to Sakka. Delighted, Sakka approved and agreed with what the Buddha said, saying,

Ðó là hình thức câu trả lời Thế Tôn cho câu hỏi Thiên chủ Sakka. Sung sướng, Thiên chủ Sakka hoan hỷ, tín thọ lời dạy Thế Tôn và nói:

“That’s so true, Blessed One! That’s so true, Holy One! Hearing the Buddha’s answer, I’ve gone beyond doubt and got rid of indecision.”

- Như vậy là phải, bạch Thế Tôn! Như vậy là phải, bạch Thiện Thệ! Sau khi nghe Thế Tôn trả lời câu hỏi, nghi ngờ con được diệt tận, do dự con được tiêu tan.

And then Sakka asked another question: “Passion, sir, is a disease, an abscess, a dart. Passion drags a person to be reborn in life after life. That’s why a person finds themselves in states high and low. Elsewhere, among other ascetics and brahmins, I wasn’t even given a chance to ask these questions that the Buddha has answered. The dart of doubt and uncertainty has lain within me for a long time, but the Buddha has plucked it out.”

7. Thiên chủ Sakka, sau khi hoan hỷ, tín thọ lời dạy Thế Tôn liền hỏi câu tiếp: - Bạch Thế Tôn, tham ái là bệnh tật, tham ái là mụn nhọt, tham ái là mũi tên, tham ái dắt dẫn con người tái sanh đời này, đời khác, khiến con người khi cao, khi thấp. Bạch Thế Tôn, trong khi các Sa môn, Bà la môn khác ngoài giáo phái của Ngài không cho con dịp để hỏi những câu hỏi, thời Thế Tôn lại trả lời những câu hỏi ấy cho con, giảng giải rất lâu cho con, khiến mũi tên nghi ngờ, do dự của con được Thế Tôn rút nhổ đi.

“Lord of gods, do you recall having asked this question of other ascetics and brahmins?”

- Này Thiên chủ, Ngươi có biết những câu hỏi ấy cũng được Ngươi hỏi các vị Sa môn, Bà la môn khác không?

“I do, sir.”

- Bạch Thế Tôn, con được biết những câu hỏi ấy cũng được con hỏi các vị Sa môn, Bà la môn khác.

“If you wouldn’t mind, lord of gods, tell me how they answered.”

- Này Thiên chủ, những vị ấy trả lời với Ngươi như thế nào, nếu không gì trở ngại hãy nói cho biết.

“It’s no trouble when someone such as the Blessed One is sitting here.”

“Well, speak then, lord of gods.”

- Bạch Thế Tôn, không gì trở ngại cho con, khi Thế Tôn ngồi nghe hay những vị như Thế Tôn.

- Này Thiên chủ, vậy Ngươi hãy nói đi.

“Sir, I approached those who I imagined were ascetics and brahmins living in the wilderness, in remote lodgings. But they could not answer, and they even questioned me in return: ‘What is the venerable’s name?’ So I answered them: ‘Dear sir, I am Sakka, lord of gods.’ So they asked me another question: ‘But lord of gods, what deed brought you to this position?’ So I taught them the Dhamma as I had learned and memorized it. And they were pleased with just that much: ‘We have seen Sakka, lord of gods! And he answered our questions!’ Invariably, they become my disciples, I don’t become theirs. But sir, I am the Buddha’s disciple, a stream-enterer, not liable to be reborn in the underworld, bound for awakening.”

- Bạch Thế Tôn, những vị Sa môn, Bà la môn mà con nghĩ là những vị sống trong rừng an tịnh, xa vắng, con đi đến những vị ấy và hỏi những câu hỏi ấy. Các vị này không trả lời cho con, không trả lời lại hỏi ngược con: "Tôn giả tên gì?" Ðược hỏi vậy con trả lời: "Chư Hiền giả, tên là Thiên chủ Sakka." Rồi những vị ấy lại hỏi thêm con câu nữa: "Do công việc gì Tôn giả Thiên chủ lại đến chỗ này?" Con liền giảng cho những vị ấy Chánh pháp như con đã được nghe và đã được học. Chỉ được từng ấy, các vị hoan hỷ và nói: "Chúng tôi đã được thấy Thiên chủ Sakka. Những điều gì chúng tôi hỏi, vị ấy đều trả lời cho chúng tôi." Không những vậy, các vị này trở thành đệ tử của con, chớ không phải con là đệ tử của các vị ấy. Bạch Thế Tôn, nhưng con là đệ tử của Thế Tôn, đã chứng Dự lưu, không còn bị rơi vào đọa xứ, chắc chắn sẽ được giác ngộ.

2.5. On Feeling Happy
“Lord of gods, do you recall ever feeling such joy and happiness before?”

- Này Thiên chủ, Ngươi có biết trước kia Ngươi không bao giờ có sự thoải mái như vậy, có được sự hỷ lạc như vậy?

“I do, sir.”

- Bạch Thế Tôn, trước kia con không bao giờ có sự thoải mái như vậy, có được an lạc như vậy.

“But how?”

- Này Thiên chủ, như thế nào, Ngươi biết được trước kia không bao giờ có sự thoải mái như vậy, có được sự hỷ lạc như vậy?

“Once upon a time, sir, a battle was fought between the gods and the demons. In that battle the gods won and the demons lost. It occurred to me as victor, ‘Now the gods shall enjoy both the nectar of the gods and the nectar of the demons.’ But sir, that joy and happiness is in the sphere of the rod and the sword. It doesn’t lead to disillusionment, dispassion, cessation, peace, insight, awakening, and extinguishment. But the joy and happiness I feel listening to the Buddha’s teaching is not in the sphere of the rod and the sword. It does lead to disillusionment, dispassion, cessation, peace, insight, awakening, and extinguishment.”

- Bạch Thế Tôn, thuở xưa, một trận chiến tranh xẩy ra giữa chư Thiên và các vị Asurà. Bạch Thế Tôn, trong trận chiến tranh này, chư Thiên thắng trận, các loài Asurà bại trận. Bạch Thế Tôn sau khi thắng trận, con là người thắng trận, con suy nghĩ: "Nay cam lồ của chư Thiên và cam lồ của Asurà, cả hai loại cam lồ, chư Thiên sẽ được nếm." Bạch Thế Tôn, thoải mái ấy, hỷ lạc ấy do gậy trượng đem lại, do đao kiếm đem lại, không đưa đến yểm ly, ly dục, tịch diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ và Niết bàn. Bạch Thế Tôn, thoải mái này, hỷ lạc này nhờ nghe Chánh pháp Thế Tôn đem lại, không do gậy trượng, không do đao kiếm, sẽ đưa đến yểm ly, ly dục, tịch diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ và Niết bàn.

“But lord of gods, what reason do you see for speaking of such joy and happiness?”

8. - Này Thiên chủ, khi Ngươi cam thọ sự thoải mái và hỷ lạc như vậy, Ngươi cảm thấy những lợi ích gì?

“I see six reasons to speak of such joy and happiness, sir.

While staying right here,
remaining in the godly form,
I have gained an extended life:
know this, dear sir.

- Bạch Thế Tôn, khi con cảm thọ thoải mái và hỷ lạc như vậy, con cảm thấy có sáu lợi ích như sau:

Nay con đứng tại đây,
Với thân một vị Thiên.
Con thấy được tái sanh,
Bạch Ngài, hãy biết vậy.

This is the first reason.

When I fall from the heavenly host,
leaving behind the non-human life,
I shall consciously go to a new womb,
wherever my mind delights.

Bạch Thế Tôn đó là điều lợi thứ nhất con cảm thấy, khi con cảm thọ thoải mái hỷ lạc như vậy.

Sau khi chết con bỏ,
Thân chư Thiên, phi nhân,
Không muội lược, con đi,
Ðến bào thai con thích.

This is the second reason.

Living happily under the guidance
of the one of unclouded wisdom,
I shall practice according to method,
aware and mindful.

Bạch Thế Tôn, đó là điều lợi ích thứ hai, con cảm thấy, khi con cảm thọ thoải mái và hỷ lạc như vậy.

Câu hỏi được đáp rõ,
Hoan hỷ trong Chánh giáo.
Con sống với Chánh trí,
Giác tỉnh và Chánh niệm.

This is the third reason.

And if awakening should arise
as I practice according to the method,
I shall live as one who understands,
and my end shall come right there.

Bạch Thế Tôn, đó là điều lợi thứ ba, con cảm thấy, khi con cảm thọ thoải mái và hỷ lạc như vậy.

Con sống với Chánh trí,
Sẽ được quả Bồ đề,
Sống làm vị Chánh giác,
Ðời này đời cuối cùng.

This is the fourth reason.

When I fall from the human realm,
leaving behind the human life,
I shall become a god again,
in the supreme heaven realm.

Bạch Thế Tôn, đó là điều lợi ích thứ tư, con cảm thấy, khi con cảm thọ thoải mái và hỷ lạc như vậy.

Chết từ thân con Người,
Con từ bỏ thân Người,
Con sẽ thành chư Thiên,
Trong Thiên giới vô thượng.

This is the fifth reason.

They are the finest of gods,
the glorious Akaniṭṭhas.
So long as my final life goes on,
there my home will be.

Bạch Thế Tôn, đó là điều lợi ích thứ năm, con cảm thấy, khi con cảm thọ thoải mái, và hỷ lạc như vậy.

Thù thắng hơn chư Thiên,
Akanittha danh xưng,
Sống đời sống cuối cùng,
Như vậy nơi an trú.

This is the sixth reason. Seeing these six reasons I speak of such joy and happiness.

My wishes unfulfilled,
doubting and undecided,
I wandered for such a long time,
in search of the Realized One.
I imagined that ascetics
living in seclusion
must surely be awakened,
so I went to sit near them.
‘How is there success?
How is there failure?’
But they couldn’t answer such questions
about the path and practice.
And when they found out that I
was Sakka, come from the gods,
they questioned me instead about
the deed that brought me to this state.
I taught them the Dhamma
as I had learned it among men.
They were delighted with that, saying:
‘We’ve seen Vāsava!’
Now since I’ve seen the Buddha,
who helps us overcome doubt,
today, free of fear,
I pay homage to the awakened one.
Destroyer of the dart of craving,
the Buddha is unrivaled.
I bow to the great hero,
the Buddha, Kinsman of the Sun.
Just as Brahmā is worshipped
by the gods, dear sir,
today we shall worship you—
come, let us bow to you!
You alone are the Awakened!
You are the Teacher supreme!
In the world with its gods,
there is no-one like you.”

Bạch Thế Tôn, đó là điều lợi ích thứ sáu, con cảm thấy, khi con cảm thọ thoải mái và hỷ lạc như vậy.

9. Tâm tư không thỏa mãn,
Nghi ngờ và do dự,
Con sống cầu Như Lai,
Thời gian khá lâu dài!
Con nghĩ các Sa môn,
Sống một mình cô độc,
Là bậc Chánh Ðẳng Giác,
Nghĩ vậy con tìm gặp.
Làm thế nào thành công?
Làm thế nào thất bại?
Ðược hỏi câu hỏi vậy?
Không thể chỉ đường hướng.
Biết con là Sakka,
Bậc Thiên chủ, đã đến!
Họ liền gạn hỏi con,
Ðến đây có việc gì?
Con liền giảng Chánh pháp,
Con cho họ được nghe.
Hoan hỷ, họ bèn nói:
"Vàsava làm họ thấy!"
Khi con được thấy Phật,
Nghi ngờ đều tiêu tan.
Nay con sống vô úy,
Hầu hạ bậc Chánh Giác.
Mũi tên độc tham ái,
Ðấng Chánh Giác nhổ lên,
Con đảnh lễ Ðại Hùng,
Bậc thân tộc mặt trời.
Tôn giả như Phạm thiên,
Nay con đảnh lễ Ngài,
Nay con kính lễ Ngài!
Ngài là bậc Chánh Giác,
Bậc Ðạo Sư vô thượng,
Trong đời kể chư Thiên,
Không ai so sánh Ngài!

Then Sakka addressed the fairy Pañcasikha, “Dear Pañcasikha, you were very helpful to me, since you first charmed the Buddha, after which I went to see him. I shall appoint you to your father’s position—you shall be king of the fairies. And I give you Bhaddā Suriyavaccasā, who you love so much.”

10. Rồi Thiên chủ Sakka nói với Pancasikha, con của Càn thát bà:
- Này Khanh Pancasikha, Ngươi đã giúp ta nhiều việc. Trước nhờ Ngươi làm Thế Tôn bằng lòng, sau khi Ngươi làm cho bằng lòng, ta mới đến yết kiến Thế Tôn, bậc A la hán, Chánh Ðẳng Giác. Ta sẽ đóng vai trò thân phụ cho Ngươi, Ngươi sẽ là Vua loài Càn thát bà. Ta sẽ cho Ngươi Bhaddà Suriya Vaccasà, người mà ngươi ao ước.

Then Sakka, touching the ground with his hand, expressed this heartfelt sentiment three times:

“Homage to that Blessed One, the perfected one, the fully awakened Buddha!
Homage to that Blessed One, the perfected one, the fully awakened Buddha!
Homage to that Blessed One, the perfected one, the fully awakened Buddha!”
“Homage to that Blessed One, the perfected one, the fully awakened Buddha!
Homage to that Blessed One, the perfected one, the fully awakened Buddha!
Homage to that Blessed One, the perfected one, the fully awakened Buddha!”

Rồi Thiên chủ Sakka, lấy tay sờ đất, đọc lên ba lần bài kệ cảm hứng như sau:

Ðảnh lễ đấng Thế Tôn,
Bậc La hán, Chánh Giác!
Ðảnh lễ đấng Thế Tôn,
Bậc La hán, Chánh Giác!
Ðảnh lễ đấng Thế Tôn,
Bậc La hán, Chánh Giác!

And while this discourse was being spoken, the stainless, immaculate vision of the Dhamma arose in Sakka, lord of gods: “Everything that has a beginning has an end.” And also for another 80,000 deities. Such were the questions Sakka was invited to ask, and which were answered by the Buddha. And that’s why the name of this discussion is “Sakka’s Questions”.

Khi lời tuyên thuyết này được tụng đọc, pháp nhãn thanh tịnh vô cấu, khởi lên cho Thiên chủ Sakka: "Phàm pháp gì tập sanh, pháp ấy sẽ bị hoại diệt." Ngoài ra, tám vạn chư Thiên cũng chứng quả tương tợ. Ðó là những câu hỏi, Thiên chủ Sakka được mời hỏi và được Thế Tôn trả lời. Do vậy, cuộc đối thoại này cũng được gọi là Những Câu Hỏi Của Sakka (Ðế-thích sở vấn).

Cập nhập ngày: Thứ Năm 16-4-2021

webmasters: Minh Hạnh & Thiện Pháp, Thủy Tú & Phạm Cương


 | | trở về đầu trang | Home page |