thus have i heard. The Exalted One was once staying at Rājagaha on Vulture-peak Hill. Now when the night was far spent, Five-crest of the Gandhabba fairies, beautiful to see, irradiating the whole of Vulture-peak, came into the presence of the Exalted One, and saluted him, and stood on one side. So standing Five-crest the Gandhabba addressed the Exalted One, and said—

1. Như vậy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở tại Vương Xá, núi Linh Thứu. Khi đêm đã gần mãn, Pancasikha (Ngũ Kế), thuộc giòng họ Càn-thát-bà (Gandhabba), với dung mạo đoan chánh, chói sáng toàn vùng núi Linh Thứu, đến tại chỗ Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Ngài và đứng một bên. Sau khi đứng một bên, Pancasikha, thuộc giòng họ Càn-thát-bà bạch Thế Tôn:

‘The things, lord, that I have seen, the things I have noted when in the presence of the gods in the heaven of the Three-and-Thirty, I would tell to the Exalted One.’

‘Tell thou me, Five-crest,’ said the Exalted One.

- Bạch Thế Tôn, những điều con đã tự thân nghe và chấp nhận trước mặt chư Thiên ở Tam thập tam thiên, bạch Thế Tôn con muốn bạch lại Thế Tôn.

- Này Pancasikha, hãy nói cho ta nghe! - Thế Tôn nói như vậy.

‘In days gone by, lord, in days long long gone by, on the Fifteenth, the holy-day, at the Feast of the Invitations on the night of full moon, all the gods in the heaven of the Thirty-Three were assembled, sitting in their Hall of Good Counsel. And a vast celestial company was seated round about, and at the four quarters of the firmament sat the Four Great Kings. There was Dhataraṭṭha, king of the East, seated facing the west, presiding over his host; Virūḷhaka, king of the South, seated facing the north, presiding over his host; Virupakkha, king of the West, seated facing the east, presiding over his host; and Vessava a, king of the North, seated facing the south, presiding over his host. Whenever, lord, all the gods in the heaven of the Thirty-Three are assembled, and seated in their Hall of Good Counsel, with the vast celestial company seated around them, and with the Four Great Kings at the four quarters of the firmament, this is the order of the seats of the four. After that come our seats. And those gods, lord, who had been recently reborn in the hosts of the Three-and-Thirty because they had lived the higher life under the Exalted One, they outshone the other gods in appearance and in glory. Thereat, verily, lord, the Three-and-Thirty gods were glad and of good cheer, were filled with joy and happiness, saying, “Verily, sirs, the celestial hosts are waxing; the hosts of the titans are waning!”

2. - Bạch Thế Tôn, trong những ngày xưa, những ngày xa xưa, nhân đêm trăng rằm Bố-tát (Uposatha), trong tháng nhập cư mùa mưa, toàn thể chư Thiên ở cõi Tam thập tam thiên ngồi hội họp tại Thiện Pháp đường, xung quanh có Ðại thiên chúng ngồi khắp mọi phía; tại bốn phương hướng có bốn vị đại vương ngồi. Ðại vương Dhatarattha (Trì Quốc Thiên vương), vua ở phương Ðông, ngồi xây mặt hướng Tây, trước mặt Thiên chúng. Ðại vương Virùlhaka (Tăng Trưởng thiên vương), vua ở phương Nam, ngồi xây mặt hướng Bắc, trước mặt Thiên chúng. Ðại vương Virùpakkha (Quảng Mục Thiên vương), vua ở phương Tây, ngồi xây mặt hướng Ðông, trước mặt Thiên chúng. Ðại vương Vessavana (Tỳ-sa-môn Thiên vương), vua ở phương Bắc, ngồi xây mặt hướng Nam, trước mặt Thiên chúng. Bạch Thế Tôn, khi nào toàn thể chư Thiên ở cõi Tam thập tam thiên ngồi hội họp tại Thiện Pháp đường, xung quanh có Ðại thiên chúng ngồi khắp mọi phía và tại bốn phương hướng có bốn vị đại vương ngồi, như vậy là thứ tự các chỗ ngồi của các vị này, rồi đến chỗ ngồi của chúng con. Bạch Thế Tôn, chư Thiên nào trước sống phạm hạnh theo Thế Tôn và nay mới sanh lên cõi Tam thập tam thiên, những vị này thắng xa chư Thiên khác về thân sắc và danh tiếng. Bạch Thế Tôn, chư Thiên ở Tam thập tam thiên đẹp lòng, thoải mái, hoan hỷ sanh: Thiên giới thật sự được tăng thịnh, còn A-tu-la giới bị hoại diệt.

‘Then Sakka, lord, ruler of the gods, when he saw the satisfaction felt by the Three-and-Thirty gods, expressed his approval in these verses—

The Three-and-Thirty, verily, both gods and lord, rejoice,
Tathāgata they honour and the cosmic law sublime,
Whereas they see these gods new-risen, beautiful and bright,
Who erst the holy life had lived, under the Happy One,
The Mighty Sage’s hearers, who had won to higher truths,
Come hither; and in glory all the other gods outshine.
This they behold right gladly, both lord and Thirty-Three,
Tathāgata they honour and the cosmic law sublime.

3. Bạch Thế Tôn, lại bây giờ Thiên chủ Ðế-thích (Sakka) thấy chư Thiên ở Tam thập tam thiên hoan hỷ bèn tùy hỷ nói lên bài kệ như sau:

Chư Tam thập tam thiên,
Cùng Ðế-thích hoan hỷ,
Ðảnh lễ bậc Như Lai,
Cùng Chánh pháp vi diệu.
Thấy Thiên chúng tân sanh,
Quang sắc thật thù thắng,
Các vị sống phạm hạnh,
Nay sanh tại cõi này.
Họ thắng về quang sắc,
Thọ mạng và danh xưng.
Ðệ tử bậc Ðại Tuệ,
Thù thắng sanh cõi này.
Chư Tam thập tam thiên,
Cùng Ðế-thích hoan hỷ,
Ðảnh lễ bậc Như Lai,
Và Chánh pháp vi diệu.

‘Then Sakka, lord, perceiving the satisfaction of the Three-and-Thirty gods, addressed them thus—

Bạch Thế Tôn, chư Thiên ở Tam thập tam thiên lại càng đẹp lòng thoải mái hoan hỷ hơn nữa và nói:

“Is it your wish, gentlemen, to hear eight truthful items in praise of that Exalted One?” “It is our wish, sir, to hear them.” Then Sakka, lord, ruler of the gods, uttered before the Three-and-Thirty gods these eight truthful items in praise of the Exalted One—

"- Thiên giới thật sự được tăng thịnh, còn A-tu-la giới bị hoại diệt". 4. Bạch Thế Tôn, Thiên chủ Ðế-thích biết được chư Thiên ở Tam thập tam thiên hoan hỷ, liền nói với Chư Thiên ở Tam thập tam thiên: "- Các vị có muốn nghe tám pháp như thật của Thế Tôn không? "- Chúng tôi muốn nghe tám pháp Như thật của Thế Tôn". Bạch Thế Tôn, Thiên chủ Ðế-thích ở Tam thập tam thiên giải thích về tám pháp Như thật của Thế Tôn như sau:

“Now what think ye, my lords gods Three-and-Thirty? Inasmuch as the Exalted One has so wrought for the good of the many, for the happiness of the many, for the advantage, the good, happiness of gods and men, out of compassion for the world—a teacher of this kind, of this character, we find not, whether we survey the past or whether we survey the present—save only the Exalted One.

5. "- Này chư Thiện hữu ở Tam thập tam thiên các vị nghĩ thế nào? Như Lai dấn thân vì hạnh phúc cho chúng sanh, vì an lạc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì hạnh phúc vì an lạc cho loài Trời và lời Người. Một vị Ðại sư dấn thân vì hạnh phúc cho chúng sanh, vì an lạc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì hạnh phúc vì an lạc cho loài Trời và loài Người như vậy, một vị Ðại sư đầy đủ đức tánh như vậy, chúng ta thật khó tìm thấy được trong quá khứ cũng như trong hiện tại, trừ Thế Tôn.

“Inasmuch, again, as the Doctrine has been proclaimed by that Exalted One, a Doctrine for the life that now is, a Doctrine not for mere temporary gain, a Doctrine of welcome and of guidance, to be comprehended by the wise each in his own heart—a preacher of such a Doctrine so leading us on, a teacher of this kind, of this character we find not, whether we survey the past, or whether we survey the present, save only the Exalted One.

6. "Chánh pháp được Thế Tôn khéo léo thuyết giảng, một Chánh pháp thiết thực hiện tại, vượt ngoài thời gian, đến để mà thấy, luôn luôn hướng thượng, chỉ người có trí tự mình giác hiểu. Một vị Giảng sư thuyết pháp hướng thượng như vậy, một vị Ðạo sư đầy đủ đức tánh như vậy, chúng ta thật khó tìm thấy được trong quá khứ cũng như trong hiện tại, trừ Thế Tôn.

“‘This is good; that is bad’—well has this been revealed by that Exalted One, well has he revealed that this is wrong, and that is right, that this is to be followed, that to be avoided, that this is base and that noble, that this is of the Light and this of the Dark. Such a Revelation of the nature of things, a teacher of this kind, of this character we find not, whether we survey the past, or whether we survey the present, save only the Exalted One.

7. "Ðây là thiện", "đây là bất thiện" đã được Thế Tôn khéo giải thích. "Ðây có tội", "đây không tội", "đây cần phải tuân theo", "đây cần phải né tránh", "đây là hạ liệt", "đây là cao thượng", "đây là đen trắng đồng đẳng", được Thế Tôn khéo giải thích. Một vị khéo giải thích các pháp thiện, bất thiện, có tội, không có tội, cần phải thuận theo, cần phải né tránh, hạ liệt, cao thượng, đen trắng đồng đẳng, một vị Ðại sư đầy đủ đức tánh như vậy, chúng ta thật khó tìm thấy được trong quá khứ, cũng như trong hiện tại, trừ Thế Tôn.

“Well revealed, again, to his disciples by that Exalted One is the Way leading to Nirvana; they run one into the other, Nirvana and the Way. Even as the waters of the Ganges and the Jumna now one into the other, and go on together united, so it is with that well-revealed Way leading to Nirvana; they run one into the other, Nirvana and the Way. A revealer of such a Way leading to Nirvana, a teacher of this kind, of this character we find not, whether we survey the past, or whether we survey the present, save only that Exalted One.

8. "Con đường đưa đến Niết-bàn cho các đệ tử, Niết-bàn và con đường phối hợp thành một, đã được Thế Tôn khéo giải thích như nước sông Hằng phối hợp và cùng chảy với nước sông Yamuna (Diệm-mâu-na). Cũng vậy con đường đưa đến Niết-bàn cho các đệ tử, Niết-bàn và con đường phối hợp thành một đã được Thế Tôn khéo giải thích. Một vị khéo giải thích con đường hướng đến Niết-bàn như vậy, một vị Ðạo sư đầy đủ đức tánh như vậy, chúng ta thật khó tìm thấy trong quá khứ, cũng như trong hiện tại, trừ Thế Tôn.

“Comrades too has this Exalted One gotten, both students only, travelling along the Way, and Arahants who have lived the life. Them does he not send away, but dwells in fellowship with them whose hearts are set on one object. A teacher so dwelling, of this kind, of this character, we find not, whether we survey the past, or whether we survey the present, save only that Exalted One.

9. "Thế Tôn cũng đã đào tạo được chúng thiện hữu Hữu học đang đi trên nẻo đạo và các vị Lậu tận đã hoàn tất Thánh đạo. Ngài không di tản chúng nhưng sống cùng chung một niềm hòa hợp lạc trú. Một vị sống cùng chung một niềm hòa hợp lạc trú, một Ðạo sư đầy đủ đức tánh như vậy, chúng ta thật khó tìm thấy trong quá khứ, cũng như trong hiện tại, trừ Thế Tôn.

“Well established are the gifts made to that Blessed One, widely established is his fame, so much so that the nobles, methinks, continue well disposed towards him. Yet notwithstanding, that Exalted One takes sustenance with a heart unintoxicated by pride. One so living, a teacher of this kind, of this character, we find not, whether we survey the past, or whether we survey the present, save only that Exalted One.

10. - "Lợi dưỡng cúng dường cho Thế Tôn đã được an bài chắc chắn, danh tiếng cũng đã được an bài chắc chắn, và con nghĩ rằng các vị Sát-đế-lỵ (Khattiyà) sống với gương mặt rất quý mến Ngài. Nhưng Thế Tôn sống thọ hưởng các lợi dưỡng với tâm không kiêu mạn. Một vị sống thọ hưởng các lợi dưỡng với tâm không kiêu mạn như vậy, một vị Ðạo sư đầy đủ đức tánh như vậy, chúng ta thật khó tìm thấy trong quá khứ, cũng như trong hiện tại, trừ Thế Tôn.

“The acts, again, of that Exalted One conform to his speech; his speech conforms to his acts. One who has so carried out hereby the greater and the lesser matters of the Law, a teacher of this kind, of this character, we find not, whether we survey the past, or whether we survey the present; save only that Exalted One.

11. "Thế Tôn nói gì thời làm vậy, làm gì thời nói vậy. Một vị nói gì thời làm vậy, làm gì thời nói vậy, thành tựu các pháp và tùy pháp như vậy, làm gì thời nói vậy, thành tựu các pháp và túy pháp như vậy. Một vị đầy đủ đức tánh như vậy, chúng ta thật khó tìm thấy trong quá khứ, cũng như trong hiện tại, trừ Thế Tôn.

“Crossed, too, by that Exalted One has been the sea of doubt, gone by for him is all question of the ‘how’ and ‘why,’ accomplished for him is every purpose with respect to his high resolve and the ancient rule of right. A teacher who has attained thus far, of this kind, of this character, we find not, whether we survey the past, or whether we survey the present, save only that Exalted One.”

12. "Thế Tôn đã vượt khỏi nghi ngờ, diệt trừ do dự, mọi suy tư được thỏa mãn về tâm nguyện và tối sơ phạm hạnh. Một vị đã vượt khỏi nghi ngờ, diệt trừ do dự, mọi suy tư được thỏa mãn về tâm nguyện và tối sơ phạm hạnh, một bậc Ðạo sư đầy đủ đức tánh như vậy, chúng ta thật khó tìm thấy trong quá khứ, cũng như trong hiện tại, trừ Thế Tôn.

‘These eight true praises, lord, of the Exalted One did Sakka, ruler of the gods, utter before the Three-and-Thirty gods. Hereat the Three-and-Thirty gods were even more abundantly pleased, gladdened and filled with joy and happiness over the things they had heard.

13. "Bạch Thế Tôn, rồi một số chư Thiên nói như sau: "- Chư Thiện hữu, nếu có được bốn vị Chánh Ðẳng Giác xuất hiện ở đời, diễn giảng Chánh pháp như Thế Tôn. Như vậy mới đem lại hạnh phúc cho chúng sanh, an lạc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì hạnh phúc và an lạc cho loài Người và loài Trời".

‘Then certain gods, lord, spoke thus—“Oh, sir! If only four supreme Buddhas might arise in the world and teach the Doctrine even as the Exalted One! That would make for the welfare of the many, for the happiness of the many, for compassion to the world, for the good and the gain and the weal of gods and men.”

"Một số chư Thiên khác lại nói như sau: "- Chư Thiện hữu, cần gì có bốn vị Chánh Ðẳng Giác. Chư Thiện hữu, nếu có được ba vị Chánh Ðẳng Giác xuất hiện ở đời, diễn giảng Chánh pháp như Thế Tôn. Như vậy mới đem lại hạnh phúc cho chúng sanh, an lạc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì hạnh phúc và an lạc cho loài Người và loài Trời. "Một số chư Thiên khác lại nói như sau: "- Chư Thiện hữu, cần gì có ba vị Chánh Ðẳng Giác. Chư Thiện hữu, nếu có được hai vị Chánh Ðẳng Giác xuất hiện ở đời, diễn giảng chánh pháp như Thế Tôn. Như vậy mới đem lại hạnh phúc cho chúng sanh, an lạc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì hạnh phúc và an lạc cho loài Người và loài Trời.

And certain other gods spoke thus—“It would suffice, sir, if there arose three supreme Buddhas in the world.”

"Một số chư Thiên khác lại nói như sau: "- Chư Thiện hữu, cần gì có ba vị Chánh Ðẳng Giác. Chư Thiện hữu, nếu có được hai vị Chánh Ðẳng Giác xuất hiện ở đời, diễn giảng chánh pháp như Thế Tôn. .

‘And certain other gods spoke thus—“It would suffice, sir, if two supreme Buddhas arose in the world … for the good and the gain and the weal of gods and men.”

Như vậy mới đem lại hạnh phúc cho chúng sanh, an lạc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì hạnh phúc và an lạc cho loài Người và loài Trời.

‘Then answered Sakka, ruler of the gods to the Three-and-Thirty—“Nowhere, gentlemen, and at no time is it possible that, in one and the same world-system, two Arahant Buddhas supreme should arise together, neither before nor after the other. This can in no wise be. Ah, gentlemen! Would that this Blessed One might yet live for long years to come, free from disease and free from suffering! That would make for the welfare of the many, for the happiness of the many, for loving compassion to the universe, for the good and the gain and the weal of gods and men!

14. "Bạch Thế Tôn, khi được nói vậy, Thiên chủ Ðế-thích nói với chư Thiên ở Tam thập tam thiên: "- Chư Thiện hữu, không một chỗ nào, không một thời gian nào cùng chung một thế giới mà có hai vị Ứng Cúng, Chánh Ðẳng Giác đồng thời ra đời, không ra trước, không ra sau, không bao giờ sự kiện như vậy có thể xảy ra. Chư Thiện hữu, một bậc Thế Tôn như vậy, không có tật bệnh, không có đau khổ, sống như vậy trong khoảng thời gian rất dài. Như vậy mới đem lại hạnh phúc cho chúng sanh, an lạc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì hạnh phúc và an lạc cho loài Người và loài Trời.

‘Then, lord, the Three-and-Thirty gods having thus deliberated and taken counsel together concerning- the matter for which they were assembled and seated in the Hall of Good Counsel, with respect to that matter the Four Kings were receivers of the spoken word, the Four Great Kings were receivers of the admonition given, remaining the while in their places, not retiring.

"Bạch Thế Tôn, rồi với mục đích gì chư Thiên ở Tam thập tam thiên ngồi hội họp tại Thiện Pháp đường, các vị này suy tư, thảo luận về mục đích ấy. Và tùy thuộc về mục đích ấy, bốn vị đại vương được thuyết giảng: Theo mục đích ấy, bốn vị đại vương được khuyến giáo, bốn vị này đều đứng một bên chỗ ngồi của mình. .

Taking the uttered word and speech, the kings stood there, serene and calm, each in his place.

Các đại vương chấp nhận, Lời giảng dạy khuyết giáo, Thanh thoát và an tịnh, Ðứng bên chỗ mình ngồi.

Then, lord, from out of the North came forth a splendid light, and a radiance shone around, surpassing the divine glory of the gods. Then did Sakka, ruler of the gods, say to the dwellers in the heaven of the Three-and-Thirty—“According, gentlemen, to the signs now seen, the light that ariseth, the radiance that appeareth—will Brahma now be made manifest. For this is the herald sign of the manifestation of Brahma, when the light ariseth and the glory shineth.

15. "Bạch Thế Tôn, rồi từ phương Bắc, một ánh sáng vi diệu khởi lên, một hào quang hiện ra thắng xa oai lực của chư Thiên. Bạch Thế Tôn, rồi Thiên chủ Sakka, nói với chư Thiên ở Tam thập tam thiên: "- Này các Thiện hữu, theo các hiện tượng được thấy, ánh sáng khởi lên, hào quang hiện ra. Như vậy là báo hiệu Phạm thiên sẽ xuất hiện. Vì hiện tượng báo hiệu Phạm thiên xuất hiện là ánh sáng khởi lên và hào quang hiện ra.

Even by yonder signs great Brahma draweth nigh. For this is Brahma’s sign, this glorious splendour vast.

Theo hiện tượng được thấy, Phạm thiên sẽ xuất hiện, Hiện tượng bậc Phạm thiên, Là hào quang vi diệu.

Then, lord, the Three-and-Thirty gods sat down again in their own places, saying—“We will ascertain what shall be the result of this radiance; when we have realized it, we will go to meet him.” The Four Kings also sat down in their places, saying the same- And when they heard that, the Three-and-Thirty gods were all agreed saying: “We will ascertain what will be the result of this radiance; when we have verified it, we will go to meet him.”

"Bạch Thế Tôn, rồi chư Thiên ở Tam thập tam thiên, ngồi xuống trên ghế ngồi của mình và nói rằng: "- Chúng tôi sẽ tìm hiểu kết quả của hào quang này là thế nào, sau khi được biết, chúng tôi sẽ đi gặp vị ấy. Cũng vậy bốn vị đại vương ngồi xuống trên ghế của mình và nói rằng: "- Chúng tôi sẽ tìm hiểu kết quả của hào quang này là thế nào, sau khi được biết, chúng tôi sẽ đi gặp vị ấy. "Sau khi nghe vậy, chư Thiên ở Tam thập tam thiên đều đồng một lòng một ý: "Chúng ta sẽ tìm hiểu kết quả của hào quang này là thế nào, sau khi đã được biết, chúng ta sẽ gặp vị ấy".

When, lord, Brahma Sanaṅkumāra appears before the Three-and-Thirty gods, he manifests himself as an individual of relatively gross substance which he has specially created. For Brahma’s usual appearance is not sufficiently materialized for the scope of the sight of the Three-and-Thirty gods. And, lord, when Brahma Sanaṅkumāra is manifested before these gods, he outshines the other gods in his appearance and his glory. Just as a figure made of gold outshines the human frame, so, when Brahma Sanaṅkumāra is manifested before the Three-and-Thirty gods, does he outshine the other gods in his appearance and his glory. And when, lord, Brahma Sanaṅkumāra is manifested before the Three-and-Thirty gods, not one god in that assembly salutes him, or rises up, or invites him to be seated. They all sit in silence with folded hands and cross-legged, each thinking: ‘Of whichever god Brahma Sanaṅkumāra now desires anything, he will seat himself on that god’s divan. And that god by whom he does so seat himself is filled with a sublime satisfaction, a sublime happiness, even as a khattiya king that is just anointed and crowned, is filled with a sublime satisfaction, a sublime happiness.

16. "Bạch Thế Tôn, khi Phạm thiên Sanamkumàra (Thường Ðồng hình Phạm thiên) xuất hiện trước chư Thiên ở Tam thập tam thiên, ngài xuất hiện với một hóa tướng thô xấu. Bạch Thế Tôn, vì khi Phạm thiên tự nhiên hiện hóa, các tướng không đủ thù thắng để chư Thiên ở Tam thập tam thiên khâm phục. Bạch Thế Tôn, khi Phạm thiên Sanamkumàra xuất hiện trước chư Thiên ở Tam thập tam thiên vị này thắng xa chư THiên khác về sắc tướng và danh tiếng. Bạch Thế Tôn, như một hình tượng bằng vàng chói sáng hơn thân hình con người, cũng vậy bạch Thế Tôn khi Phạm thiên Sanamkumàra xuất hiện trước chư Thiên ở Tam thập tam thiên, vị này thắng xa chư Thiên khác về sắc tướng và danh tiếng. Bạch Thế Tôn, khi Phạm thiên Sanamkumàra xuất hiện trước chư Thiên ở Tam thập tam thiên, không một vị Thiên trong chúng này đảnh lễ hoặc đứng dậy mời Phạm thiên ngồi. Tất cả đều yên lặng, chắp tay, không ngồi trên chỗ ngồi của mình và nghĩ rằng: "Nếu nay Phạm thiên Sanamkumàra muốn gì với vị Thiên nào, thì hãy ngồi trên chỗ ngồi của vị Thiên ấy sẽ vô cùng sảng khoái, sẽ vô cùng hoan hỷ. Bạch Thế Tôn, như vị vua Sát-đế-lỵ vừa mới làm lễ quán đảnh và lên vương vị, vị ấy sẽ vô cùng sảng khoái, sẽ vô cùng hoan hỷ. Cũng vậy, bạch Thế Tôn, Phạm thiên Sanamkumàra ngồi trên chỗ ngồi của vị Thiên nào, vị Thiên ấy sẽ vô cùng sảng khoái, sẽ vô cùng hoan hỷ.

‘Then, lord, Brahma Sanaṅkumāra, perceiving how gratified were those Three-and-Thirty gods, uttered his approval while invisible in these verses—

The Three-and-Thirty, verily, both gods and lord, rejoice,
Tathāgata they honour and the cosmic law sublime,
Whereas they see these gods new-risen, beautiful and bright,
Who erst the holy life had lived, under the Happy One,
The Mighty Sage’s hearers, who had won to higher truths,
Come hither; and in glory all the other gods outshine.
This they behold right gladly, both lord and Thirty-Three,
Tathāgata they honour and the cosmic law sublime.

17. "Bạch Thế Tôn, rồi Phạm thiên Sanamkumàra biết được sự thoải mái hoan hỷ của chư Thiên ở Tam thập tam thiên liền ân hình tùy hỷ nói lên bài kệ sau đây:

Chư Tam thập tam thiên,
Cùng Ðế-thích hoan hỷ,
Ðảnh lễ bậc Như Lai,
Và Chánh pháp vi diệu.
Thấy Thiên chúng tân sanh,
Quang sắc thật thù thắng,
Các vị sống phạm hạnh,
Nay sanh tại cõi này,
Thắng xa về quang sắc,
Thọ mạng và danh xưng,
Ðệ tử bậc Ðại Tuệ,
Thù thắng sanh cõi nầy.
Chư Tam thập tam thiên,
Cùng Ðế Thích hoan hỷ,
Ðảnh lễ bậc Như Lai,
Và Chánh pháp vi diệu.

‘This, lord, was the substance of Brahma the Eternal Youth’s speech. And he spoke it with a voice of eightfold quality—a voice that was fluent, intelligible, sweet and audible, sustained and distinct, deep and resonant. And whereas, lord, he made himself audible to that assembly by his voice, the sound thereof did not penetrate beyond the assembly. He whose voice has these eight qualities is said to have a Brahma-voice.

18. "Bạch Thế Tôn, đó là nội dung lời nói của Phạm Thiên Sanamkumàra. Bạch Thế Tôn tiếng nói của Phạm Thiên Sanamkumàra có tám đặc điểm sau đây: Lưu loát, dễ hiểu, dịu ngọt, nghe rõ ràng, sung mãn, phân minh, thâm sâu và vang động. Bạch Thế Tôn, khi Phạm thiên Sanamkumàra giải thích cho hội chúng với tiếng nói của mình, tiếng nói không vượt ra khỏi đại chúng. Bạch Thế Tôn một tiếng nói có tám đặc điểm như vậy được gọi là Phạm âm.

‘Then, lord, to Brahma the Eternal Youth the Three-and-Thirty gods spoke thus—

“’Tis well, O Brahma! We do rejoice at this that we have noted. Moreover Sakka, ruler of the gods, hath rehearsed to us eight truthful praises of that Exalted One, and these too we have marked and do rejoice thereat.”

19. "Bạch Thế Tôn, chư Thiên ở Tam thập tam thiên nói với Phạm thiên Sanamkumàra như sau:

"- Này Phạm thiên, chúng tôi thật sự hoan hỷ với những điều chúng tôi đã được chú ý. Hơn nữa Thiên chủ Sakka đã nói đến tám pháp như thật của Thế Tôn; và chúng tôi hoan hỷ với tám pháp này.

‘Then, lord, Brahma the Eternal Youth spoke thus to Sakka, ruler of the gods—“Tis well, O ruler of the gods; we too would hear the eight truthful praises of that Exalted One.”

"Bạch Thế Tôn, rồi Phạm thiên Sanamkumàra nói với Thiên chủ Ðế-thích: "- Thật lành thay, Thiên chủ, nếu chúng tôi được nghe tám pháp như thật của Thế Tôn.

"So be it, O Great Brahma,” replied Sakka. And thereupon, beginning “Now what thinketh my lord, the Great Brahma?”

[He uttered once more those eight truthful praises of the Blessed One, §§ 21–27].

Hereat, lord, Brahma the Eternal Youth was pleased and gladdened, and was filled with joy and happiness when he had heard those praises.

"- Vâng, Ðại Phạm thiên. Bạch Thế Tôn, Thiên chủ Ðế-thích, giải thích tám pháp như thật của Thế Tôn cho Phạm thiên Sanamkumàra:

20. "- Này Thiện hữu Ðại Phạm thiên, Ngài nghĩ thế nào? Như Lai dấn thân vì hạnh phúc cho chúng sanh, vì an lạc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì hạnh phúc, vì an lạc cho loài Trời, loài Người. Một vị Ðạo sư dấn thân vì hạnh phúc cho chúng sanh, vì an lạc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì hạnh phúc, vì an lạc cho loài Trời, loài Người như vậy, một vị Ðạo sư đầy đủ đức tánh như vậy chúng ta khó tìm thấy được trong quá khứ cũng như trong hiện tại, trừ Thế Tôn.

21. "- Chánh pháp được Thế Tôn khéo léo thuyết giảng, một Chánh pháp thiết thực hiện tại, vượt ngoài thời gian, đến để mà thấy, luôn luôn hướng thiện, chỉ người có trí tự mình giác hiểu. Một vị Giảng sư thuyết pháp hướng thượng như vậy, một vị Ðạo sư đầy đủ đức tánh như vậy, chúng ta thật khó tìm thấy được trong quá khứ cũng như trong hiện tại, trừ Thế Tôn.

22. "Ðây là thiện", "đây là bất thiện", đã được Thế Tôn khéo giải thích. "Ðây là có tội", "đây là không tội", "Ðây cần phải tuân theo", "đây cần phải né tránh", "đây là hạ liệt", "đây là cao thượng", "đây là đen trắng đồng đẳng", đã được Thế Tôn khéo giải thích. Một vị khéo giải thích các pháp thiện, bất thiện, có tội, không có tội, cần phải thuận theo, cần phải né tránh, hạ liệt, cao thượng, đen trắng đồng đẳng, một vị Ðạo sư đầy đủ đức tánh như vậy, chúng ta thật khó tìm thấy được trong quá khứ, cũng như trong hiện tại, trừ Thế Tôn.

23. "Con đường đưa đến Niết-bàn cho các đệ tử, Niết-bàn và con đường phối hợp thành một, đã được Thế Tôn khéo léo giải thích. Như nước sông Hằng phối hợp và cùng chảy với nước sông Yamunà, cũng vậy con đường đưa đến Niết-bàn cho các đệ tử, Niết-bàn và con đường phối hợp thành một đã được Thế Tôn khéo giải thích. Một vị khéo giải thích con đường hướng đến Niết-bàn như vậy, một vị Ðạo sư đầy đủ đức tánh như vậy, chúng ta thật khó tìm thấy trong quá khứ, cũng như trong hiện tại, trừ Thế Tôn.

24. "Thế Tôn cũng đã đào tạo được chúng thiện hữu Hữu học đang đi trên nẻo đạo và các vị Lậu tận đã hoàn tất Thánh đạo. Ngài không di tản chúng, nhưng sống cùng chung một niềm hòa hợp lạc trú. Một vị sống cùng chung một niềm hòa hợp lạc trú, một Ðạo sư đầy đủ đức tánh như vậy, chúng ta thật khó tìm thấy trong quá khứ, cũng như trong hiện tại, trừ Thế Tôn.

25. "Lợi dưỡng cúng dường cho thế Tôn đã được an bài chắc chắn, danh tiếng cũng đã được an bài chắc chắn, và con nghĩ rằng các vị Sát-đế-lỵ sống với diện mạo rất quý mến Ngài. Nhưng Thế Tôn sống thọ hưởng các lợi dưỡng với tâm không kiêu mạn. Một vị sống thọ hưởng các lợi dưỡng với tâm không kiêu mạn như vậy, một vị Ðạo sư đầy đủ đức tánh như vậy, chúng ta thật khó tìm thấy trong quá khứ, cũng như trong hiện tại, trừ Thế Tôn.

26. "Thế Tôn nói gì thì làm vậy, làm gì thời nói vậy, một vị nói gì thì làm vậy, làm gì thì nói vậy, thành tựu các pháp và tùy pháp như vậy, chúng ta thật khó tìm thấy trong quá khứ, cũng như trong hiện tại, trừ Thế Tôn.

27. "Thế Tôn đã vượt khỏi nghi ngờ, diệt trừ do dự, mọi suy tư hoặc thỏa mãn về tâm nguyện và tối sơ phạm hạnh. Một vị đã vượt khỏi nghi ngờ, diệt trừ do dự, mọi suy tư được thỏa mãn về tâm nguyện và tối sơ phạm hạnh, một bậc Ðạo sư đầy đủ đức tánh như vậy, chúng ta thật khó tìm thấy trong quá khứ, cũng như trong hiện tại, trừ Thế Tôn.

Hereat, lord, Brahma the Eternal Youth was pleased and gladdened, and was filled with joy and happiness when he had heard those praises.

"Bạch Thế Tôn, Thiên chủ Sakka giải thích tám pháp như thật của Thế Tôn cho chư Thiên ở Tam thập tam thiên. Bạch Thế Tôn, chư Thiên ở Tam thập tam thiên lại càng hoan hỷ, lại càng thích thú, hỷ duyệt sung mãn khi được nghe tám pháp như thật của Thế Tôn.

‘And so, lord, Brahma the Eternal Youth materializing himself and becoming in appearance like the youth Five-crest, manifested himself to the Three-and-Thirty gods, and rising up into the air, he sat down cross-legged in the sky. Just, lord, as easily as a strong man might sit down cross-legged on a well-spread divan or a smooth piece of ground, even so did Brahma the Eternal Youth, rising up into the air, sit down cross-legged in the sky. And he addressed the Three-and-Thirty gods thus—

28. "Bạch Thế Tôn, Phạm thiên Sanamkumàra xuất hiện với hình tướng thô xấu, hiện thành một đồng tử tên là Pancasikha (Ngũ Kế) trước mặt chư Thiên ở Tam thập tam thiên, bay bổng lên trời, vị này, ngồi kiết-già giữa hư không. Bạch Thế Tôn, như một vị lực sĩ ngồi kiết-già trên một chỗ ngồi được trải bằng phẳng trên một mặt đất thăng bằng, cũng vậy bạch Thế Tôn, Phạm thiên Sanamkumàra bay bổng trên trời, ngồi kiết-già trên hư không và nói với chư Thiên ở Tam thập tam thiên:

“Now what think ye, my lord gods Thirty-and-Three? For how long hath the Blessed One been of great wisdom?

29. "- Chư thiện hữu ở Tam thập tam thiên nghĩ thế nào? Thế Tôn đã được đại trí tuệ bao lâu rồi?

Once upon a time there was a king named Disampati. And king Disampati’s minister was a brahmin named Govinda (the Steward). And king Disampati had a son named Reṇu, and Govinda had a son named Jotipāla. And prince Reṇu and the young Jotipāla and six other young nobles—these eight—were great friends. Now in the course of years Govinda died. And king Disampati mourned for him, saying—‘Alas! Just when we had devolved all our duties on Govinda the brahmin, and were surrounded by and giving ourselves up to the pleasures of sense, Govinda has died!’

"Chư Thiện hữu, thuở xưa có vị vua tên là Disampati (Thành Chủ). Vua Disampati có vị quốc sư tên Govinda (Ðiển Tôn), và có vị hoàng tử tên là Renu (Lê-nô). Bà-la-môn Govinda có người con trai tên là Jotipàla (Hộ Minh đồng tử). Hoàng tử Renu, đồng tử Jotipàla cùng sáu người Sát-đế-lỵ nữa, tám người này là thân hữu. Sau một thời gian, Bà-la-môn Govinda mệnh chung. Khi nghe Bà-la-môn Govinda mệnh chung, vua Sisampati than khóc như sau:"- Tiếc thay, khi chúng ta giao mọi công việc cho Bà-la-môn Govinda để chúng ta có thể được đầy đủ và thọ hưởng năm món dục tăng thịnh, chính khi ấy Bà-la-môn lại mệnh chung.

Then said prince Reṇu to the king—‘Mourn not, sire, so excessively for Govinda, the brahmin. Govinda has a son, young Jotipāla, who is wiser than his father was, better able to see what is profitable than his father. Let Jotipāla administer all such affairs as were entrusted to his father.’

‘I do, sire.’

"Nghe nói vậy, hoàng tử Renu tâu với vua Disampati: "- Tâu Ðại vương, chớ có quá sầu khổ than khóc vì Bà-la-môn Govinda từ trần. Tâu Ðại vương, con của Bà-la-môn Govinda, thanh niên Jotipàla còn sáng suốt hơn phụ thân, còn biết kế hoạch sinh lợi hơn phụ thân. Những trách nhiệm gì Ðại vương giao cho phụ thân, nay hãy giao cho thanh niên Jotipàla. "- Như vậy là phải, Hoàng tử.

"- Xin vâng, tâu Ðại vương.

Then king Disampati summoned a man and said: ‘Come you, good man, go to Master Jotipāla, and say to him—May good fortune attend the honourable Jotipāla! King Disampati calls for the honourable Jotipāla. King Disampati would like to see the honourable Jotipāla.’

30. "Rồi vua Disampati cho gọi một người và bảo: "- Khanh hãy đi đến thanh niên Jotipàla, và nói như sau: "Mong rằng mọi tốt lành hãy đến với thanh niên Jotipàla! Vua Disampati có cho gọi thanh niên Jotipàla! Vua Disampati muốn được gặp thanh niên Jotipàla!".

‘So be it, sire,’ responded the man, and going to Jotipāla he repeated the message.

"- Tâu Ðại vương, xin vâng! "Người ấy vâng lệnh vua Disampati, đến chỗ thanh niên Jotipàta ở, khi đến xong liền nói với thanh niên Jotipàla:

‘Very good, sir,’ responded Jotipāla, and went to wait upon the king. And when he had come into the king’s presence, he exchanged with the king the greetings and compliments of politeness and courtesy, and sat down on one side. Then said king Disampati to Jotipāla—“We would have the honourable youth Jotipāla administer for us. Let him not refuse to do so. I will set him in his father’s place and appoint him to the Stewardship.”

‘So be it, sire,’ replied Jotipāla in assent.

"- Mong rằng mọi tốt lành hãy đến với thanh niên Jotipàla! Vua Disampati cho gọi thanh niên Jotipàla! Vua Disampati muốn được gặp thanh nhiên Jotipàla!"- Xin vâng, này Thiện hữu! "Thanh nhiên Jotipàla vâng theo lời người ấy, đi đến chỗ vua Disampati ở, khi đến xong liền nói lên những lời viếng thăm, và những lời khen tặng xã giao, rồi ngồi xuống một bên. Vua Disampati nói với thanh niên Jotipàla đang ngồi bên như sau: "- Này thanh niên Jotipàla! Nay ta muốn khanh chấp chánh! Thanh niên Jotipàla, chớ có từ chối chấp chánh! Ta sẽ đặt Khanh trong địa vị của phụ thân. Ta sẽ phong cho Khanh chức chưởng của Govinda! "

- Tâu Ðại vương, xin vâng! "Thanh niên Jotipàla vâng theo lời dạy của vua Disampati.

So king Disampati appointed Jotipāla as his Steward, and set him in his father’s place. And thus appointed and installed, whatever matters his father had administered, those did Jotipāla administer; and whatever his father had not administered, those matters did he too not administer. And whatever works his father had accomplished, and no others, even such works, and no others, did he too accomplish. Of him men said—‘The brahmin is verily a Steward! A Great Steward is verily this brahmin!’ And on this wise Jotipāla came to be called the High Steward.

31. "Rồi vua Disampati phong cho thanh niên Jotipàla chức chưởng của Govinda và đặt vào địa vị của phụ thân. Thanh niên Jotipàla được phong chức chưởng của Govinda như vậy và được đặt vào địa vị của phụ thân như vậy, những phần việc gì phụ thân điều hành, những phần việc ấy thanh niên Jotipàla điều hành, những phần việc gì phụ thân không điều hành, những phần việc ấy thanh niên Jotipàla không điều hành. Những công tác gì phụ thân thực hiện, những công tác ấy thanh niên Jotipàla thực hiện; những công tác gì phụ thân không thực hiện, những công tác ấy thanh niên Jotipàla không thực hiện. Do vậy, dân chúng nói về Jotipàla: "- Vị Bà-la-môn thật sự là Govinda! Vị Bà-la-môn thật sự là Mahà Govinda và được danh tiếng là Mahà Govinda!

Now it came to pass that the Great Steward went to those six nobles, and said to them: ‘Disampati the king is old and wasted with age, full of years, and arrived at the term of life. Who indeed can answer for the survival of the living? When the king dies, it will behove the king-makers to anoint Reṇu the prince as king. I suggest, gentlemen, that you wait on prince Reṇu, and say to him thus: ‘We are the dear, beloved, and congenial friends of our lord Reṇu. We are happy when our lord is happy; unhappy when he is unhappy. Disampati, our lord king, is old and wasted with age, full of years and arrived at the term of life. Who indeed can answer for the living? When the king dies, it will behove the kin-makers to anoint our lord Reṇu kin. If our lord Reṇu should gain the sovereignty, let him divide it with us.”’

32. "Rồi Mahà Govinda đến tại chỗ sáu vị Sát-đế-lỵ ở, khi đến xong, liền nói với sáu vị Sát-đế-lỵ như sau: "-Vua Disampati nay đã già, trọng tuổi, lớn tuổi, đã đến thời, đã đến hạn cuối cuộc đời. Này Thiện Hữu, ai có thể biết được thọ mạng của vua? Sự việc này có thể xảy ra, nếu vua Disampati mệnh chung, thời những vị có trách nhiệm phong vua, hãy phong hoàng tử Renu lên vương vị. Chư Thiện hữu, quí vị hãy đến chỗ hoàng tử Renu an trú, khi đến xong hãy thưa với hoàng tử Renu: "- Chúng tôi là những bạn hữu thân tình, thân ái, tâm đầu ý hiệp với Thiện hữu Renu! Chúng tôi sung sướng khi thiện hữu sung sướng, chúng tôi đau khổ khi Thiện hữu đau khổ. Nay vua Disampati đã già, trọng tuổi, lớn tuổi, đã đến thời, đã đến hạn cuối cuộc đời. Này Thiện hữu, ai có thể biết thọ mạng của vua. Sự việc này có thể xảy ra. Nếu vua Disampati mệnh chung, thời những vị có trách nhiệm phong vua, hãy phong hoàng tử Renu lên vương vị. Nếu Thiện hữu Renu lên vương vị, hãy chia xẻ vương vị với chúng tôi!

‘So be it,’ responded the six nobles, and waiting upon prince Reṇu they repeated these words to him.

33. "-Xin vâng, Thiện hữu! "Sáu vị Sát-đế-lỵ này, vâng theo lời của Bà la môn Mahà Govinda, đến tại chỗ của hoàng tử Renu, khi đến xong liền thưa với hoàng tử Renu:

‘Why, sirs, who besides myself ought to prosper in this realm if it be not you? If I, sirs, shall gain the sovereignty, I will divide it with you.’

- Chúng tôi là những bạn hữu thân tình, thân ái, tâm đầu ý hợp với Thiện hữu Renu, chúng tôi sung sướng khi Thiện hữu sung sướng, chúng tôi đau khổ khi thiện hữu đau khổ.

And it came to pass in course of time that king Disampati died. And after his death, the kingmakers anointed Reṇu his son king. And he, when he was made king, lived surrounded by and given up to the pleasures of sense. Then the High Steward went to those six nobles and said thus—

Nay vua Disampati đã già, trọng tuổi, lớn tuổi, đã đến thời, đã đến hạn cuối cuộc đời. Này Thiện hữu, ai có thể biết được thọ mạng của vua. Sự việc này có thể xảy ra.

‘Disampati, gentlemen, is dead, and my lord Reṇu lives surrounded by and given up to the pleasures of sense. Well, gentlemen, who can say? The pleasures of sense are intoxicating, I would suggest, gentlemen, that you wait on king Reṇu and say to him: “King Disampati, my lord, is dead, my lord Reṇu is anointed king. Does my lord remember his promise?”

Nếu vua Disampati mệnh chung, thời những vị có trách nhiệm phong vua, hãy phong hoàng tử Renu lên vương vị. Nếu Thiện hữu Renu lên vương vị, hãy chia vương vị với chúng tôi- Chư Thiện hữu, có ai khác có quyền hưởng an lạc trong quốc độ của tôi, ngoài Quý vị? Nếu tôi được lên vương vị, tôi sẽ chia xẻ vương vị cho Quý vị.

‘Very good, sir,’ responded the six nobles, and going into Reṇu’s presence, they said—

34. "Chư Thiện hữu, sau một thời gian vua Disampati mệnh chung. Khi vua Disampati mệnh chung, những vị có trách nhiệm phong vua, liền phong hoàng tử Renu lên vương vị. Khi được phong vương vị, hoàng tử Renu sống đầy đủ và thọ hưởng năm pháp dục tăng thịnh. Khi ấy Bà la môn Mahà Govinda đi đến chỗ sáu vị Sát-đế-lỵ ở, khi đến xong liền nói rằng:

‘King Disampati, sire, is dead, and my lord Reṇu is anointed king. Does my lord remember his promise?’

"- Chư Thiện hữu, vua Disampati đã mệnh chung. Thiện hữu Renu được phong vương vị lại sống đầy đủ và thọ hưởng năm pháp dục tăng thịnh. Chư Thiện hữu, ai có thể biết được? Dục vọng khiến con người si loạn. Chư Thiện hữu, hãy đi đến chỗ vua Renu ở, khi đến xong, hãy nói với vua Renu như sau: "- Thiện hữu, vua Disampati đã mệnh chung. Thiện hữu Renu được phong vương vị. Thiện hữu có nhớ lời hứa của mình không?"

‘Who, sire, is able if it be not the Great Steward, the brahmin?’

"- Xin vâng, này Thiện hữu. "Sáu vị Sát-đế-lỵ này vâng theo lời của Bà la môn Mahà Govinda đi đến chỗ vua Renu ở, khi đến xong, liền tâu vua Renu như sau: "- Thiện hữu, vua Disampati đã mệnh chung, Thiện hữu Renu đã được phong vương vị. Thiện hữu có nhớ lời hứa của mình không?

Then king Reṇu sent a man to the Great Steward, saying—‘Come, my good fellow, go to the Great Steward, the brahmin, and say: “The king has sent for you, my lord.” And the Great Steward was told and obeyed, and, coming into the king’s presence, exchanged with him the greetings and compliments of politeness and courtesy, and sat down on one side. Then said the king to him: ‘Will you go, my lord Steward, and so divide this great earth wide on the north and…. on the south into seven equal portions, all …’

"- Chư Thiện hữu, tôi có nhớ lời hứa của tôi. Chư Thiện hữu, ai có thể khéo phân chia đại địa này thành bảy phần đồng đều. Ðại địa này, phía Bắc thì rộng, phía Nam như bộ phận trước của cỗ xe?

"- Này Thiện hữu, ai có thể làm được, ngoại trừ Bà la môn Mahà Govinda?

"- Này Thiện hữu, ai có thể làm được, ngoại trừ Bà la môn Mahà Govinda?

35. "Rồi vua Renu cho gọi một người và nói:

"- Này Khanh, Khanh hãy đi đến chỗ Bà la môn Mahà Govinda, khi đến xong hãy nói với Bà la môn Govinda: "Này Thiện hữu, vua Renu cho gọi Thiện hữu."

"- Xin vâng, tâu đại vương!

" Người ấy vâng theo lời của vua Renu, đến tại chỗ của Bà la môn Ma hà Govinda ở, khi đến xong liền nói với Bà la môn Mahà Govinda::"- Thiện hữu, vua Renu cho gọi Thiện hữu.

"- Xin vâng, Thiện hữu!

"Bà-la-môn Mahà Govinda vâng theo lời nói của người ấy, đến tại chỗ vua Renu ở, khi đến xong liền nói lên những lời thăm viếng và những lời khen tặng xã giao với vua Renu rồi ngồi xuống một bên. Và vua Renu nói với Bà-la-môn Govinda đang ngồi xuống một bên như sau:

"- Này Thiện hữu Govinda, hãy đến và phân chia đại địa này thành bảy phần đồng đều, đại địa này phía Bắc thời rộng, phía Nam như bộ phận trước của cỗ xe.

‘Very good, sire,’ responded the High Steward, [And this he did.]

"Bà-la-môn Mahà Govinda vâng theo lời nói của vua Renu phân chia đại địa này thành bảy phần đồng đều, đại địa này phía Bắc rộng, phía Nam như bộ phận trước của cỗ xe, tất cả phần như hình phần trước của cỗ xe.

And king Reṇu’s country held the central position. As it is said—

Dantapura of the Kalingas, and Potana for the Assakas,
Mahissati for the Avantis, and Roruka in the Sovīra land.
Mithila of the Videhas, and then Campā among the Aṅgas,
Lastly Benares in the Kāsi realm—
all these did the Great Steward wisely plan.

36. "Và vua Ruenu giữ phần quốc độ trung ương.

"Dantapura (Nại-đa-bố-la) cho dân Kàlingà (Ca-lăng-giới) và Potana (Bao-tĩnh-noa) cho dân Assaka (Ma-thấp-na-ka).
"Mahissati (Ma-hê-sa-ma) cho dân Avanti (Ương-đế-na) và Roruka (Lao-lỗ-ca) cho dân Sovira (Tô-vĩ-la).
"Mithilà (Di-thế-la) cho dân Videhà (Vi-đề-hê) và Campà (Thiềm-ba) được tạo ra cho dân Anga (Ương-già),
"Bàrànasì (Ba-la-nại) cho dân Kàsi (Ca-thi).
"Tất cả đều do Govinda tạo lập.

Then were those six nobles well pleased each with his allotted gain, and at the success of his plan. For they said—‘What we wished for, what we desired, what we intended, what we aimed at, lo, that is what we have gotten!’ And the seven kings were named—

"Và sáu vị Sát-đế-lỵ này đều hoan hỷ về khu phần của mình được và sự thành tựu của điều mong ước: "- Những điều gì chúng tôi muốn, những điều gì chúng tôi ao ước, những điều gì chúng tôi nhắm đến, những điều gì chúng tôi hy vọng, chúng tôi đều được hết.

Sattabhu and Brahmadatta, Vessabhu with Bhārata, Kenu and two Dhataraṭṭhas—These are the seven Bhāratas.

Here ends the first Portion for Recitation.

"Sattabhù (Phá Oan vương) và Brahmadatta (Phạm Thọ vương), Vessabhũ (Thắng Tôn vương) và Bharata (Minh Ái vương), Renu (Lê-nô vương) và hai Dhataratthà (Trì Quốc vương). Tất cả là bảy vị Bharata (Bà-la-đa vương).

Here ends the first Portion for Recitation.

Now those six nobles came to the High Steward and said to him—‘Just as the honourable Steward was dear, beloved and congenial as companion to Reṇu the king, so has he been also to us a companion, dear, beloved and congenial. We would that the honourable Steward administer our affairs; we trust he will not refuse to do so.’

37. "Rồi sáu vị Sát-đế-lỵ ấy đến tại chỗ Bà-la-môn Màhà Govinda ở, khi đến xong liền nói với Bà-la-môn Mahà Govinda (Ðại Ðiển Tôn) "- Như thiện hữu Govinda là bạn hữu thân tình, thân ái, tâm đầu ý hiệp với vua Renu, cũng vậy Thiện hữu Mahà Govinda và bạn hữu thân tình, thân ái, tâm đầu ý hiệp với chúng tôi. Thiện hữu Govinda hãy giáo hóa chúng tôi, Thiện hữu Govinda chớ có từ chối giáo hóa.

‘Very good, sirs,’ replied the Great Steward. And so he instructed those seven anointed kings in government; and he taught the mantras to seven eminent and wealthy Brahmins and to seven hundred young graduates.

"- Xin vâng, chư Thiện hữu. "Thiện hữu Mahà Govinda trả lời cho sáu vị Sát-đế-lỵ này. Rồi Thiện hữu Mahà Govinda giáo hóa về vương chánh cho bảy vị Sát-đế-lỵ đã được phong vua, và Mahà Govinda dạy các chú thuật cho bảy vị triệu phú Bà-la-môn và bảy trăm vị tịnh hạnh.

Now later on the excellent reputation of the brahmin, the High Steward, was noised abroad after this fashion—‘With his own eyes the High Steward sees Brahma! Face to face does the High Steward commune with Brahma, converse and take counsel with Him!’ Then the High Steward thought: This flattering rumour is noised abroad about me, that I both see Brahma and hold converse with Him. Now I neither see Him, nor commune with Him, nor converse or take counsel with Him. But I have heard aged and venerable brahmins, teachers and pupils, say: “He who remains in meditation the four months of the rains, and practises the ecstasy of pity, he sees Brahma, communes, converses, takes counsel with Brahma? What if I now were to cultivate that discipline?”’

38. "Sau một thời gian, danh tiếng tốt đẹp sau đây được truyền tụng về Bà-la-môn Mahà Govinda: "- Bà-la-môn Mahà Govinda tự thân thấy Phạm thiên; Bà-la-môn Maha Govinda tự thân nói chuyện thảo luận, luận nghị với Phạm thiên. "Rồi Bà-la-môn Mahà Govinda suy nghĩ: "Danh tiếng tốt đẹp sau đây được truyền tụng về ta: Bà-la-môn Maha Govinda tự thân thấy Phạm thiên; Bà-la-môn Maha Govinda tự thân nói chuyện, thảo luận, luận nghị với Phạm thiên. Nhưng ta không thấy Phạm thiên, ta không nói chuyện với Phạm thiên, không thảo luận với Phạm thiên, không nghị luận với Phạm thiên. Ta có nghe các vị Bà-la-môn trưởng thượng lớn tuổi, cả giáo thọ và đệ tử nói rằng: Những ai sống tịnh cư trong bốn tháng mưa, tu tập thiền định về bi tâm, người ấy sẽ thấy Phạm thiên, sẽ nói chuyện, thảo luận và nghị luận với Phạm thiên. Vậy ta hãy sống tịnh cư trong bốn tháng mưa và tu tập thiền định về bi tâm".

So the High Steward waited on king Reṇu, and telling him of the reputation imputed to himself, and of his wish to practise seclusion, added: ‘I wish, sir, to meditate during the four months of the rains and to practise the ecstasy of pity. Noone is to come near me save someone who will bring me my meals.’

39. "Rồi Thiện hữu Bà-la-môn Mahà Govinda đi đến vua Renu, khi đến xong liền tâu với vua Renu: "Danh tiếng tốt đẹp sau đây được truyền tụng về Thần: "Bà-la-môn Mahà Govinda tự thân thấy được Phạm thiên, tự thân nói chuyện, thảo luận và luận nghị với Phạm thiên". Nhưng Thần không thấy được Phạm thiên, không nói chuyện được với Phạm thiên, không thảo luận được với Phạm thiên, không luận nghị được với Phạm thiên. Thần có nghe các vị Bà-la-môn trưởng thượng, lớn tuổi nói ai sống tịnh cư trong bốn tháng mưa, tu tập thiền định về bi tâm sẽ thấy được Phạm thiên, sẽ nói chuyện, thảo luận và luận nghị với Phạm thiên". Nay Thần muốn sống tịnh cư trong bốn tháng mưa, và tu tập thiền định về bi tâm. Không một ai được đến gặp thần, trừ chỉ một người đem đồ ăn.

‘Do, honourable Steward, whatever seems to you fit.’

"- Này Thiện hữu Govinda, hãy làm những gì Khanh nghĩ là hợp thời.

And the High Steward went round to each of the six nobles, told them the same, and took his leave of them also.

40. "Rồi Bà-la-môn Mahà Govinda đến tại chỗ sáu vị Sát-đế-lỵ ở, khi đến xong liền nói với sáu vị Sát-đế-lỵ:

Then he went to those seven eminent and wealthy Brahmins, and to the seven hundred graduates, and telling them [too of the rumours and of his wish to practise seclusion], said—‘Wherefore, sirs, according as you have heard the mantras and have committed them to memory, continue to rehearse them in full, and teach them to each other. I, sirs, wish to meditate during the four months of the rains, and to practise the ecstasy of pity. No one is to come near me save someone who shall bring me my meals.’

‘Do, honourable Steward, whatever seems to you fit.’

"- Danh tiếng tốt đẹp sau đây được truyền tụng về tôi: "Bà-la-môn Mahà Govinda tự thân thấy được Phạm thiên, tự thân nói chuyện, thảo luận và luận nghị với Phạm thiên". Tôi không được thấy Phạm thiên, không nói chuyện, thảo luận và luận nghị với Phạm Thiên. Nhưng tôi có nghe các vị Bà-la-môn trưởng thượng lớn tuổi, cả giáo thọ và đệ tử nói rằng: "Những ai sống tịnh cư trong bốn tháng mưa, tu tập thiền định về bi tâm sẽ thấy được Phạm thiên, sẽ nói chuyện, thảo luận và nghị luận với Phạm thiên". Nay tôi muốn sống tịnh cư trong bốn tháng mưa, tu tập thiền định về bi tâm. Không một ai được đến gặp tôi, chỉ trừ một người đem đồ ăn.

"- Này Thiện hữu Govinda, hãy làm những gì Thiện hữu nghĩ là hợp thời.

Next the High Steward went to his forty wives who were all on an equality, and told them [too of the rumours and of his wish to practise ecstasy in seclusion. And they replied like the others.]

42. "Rồi Bà-la-môn Mahà Govinda đi đến bốn mươi vị phu nhân đồng đẳng của mình, khi đến xong liền nói với bốn mươi vị phu nhân đồng đẳng như sau: "- Chư Thiện hữu, danh tiếng tốt đẹp sau đây được truyền tụng về tôi: "Bà-la-môn Mahà Govinda tự thân thấy được Phạm thiên, tự thân nói chuyện, thảo luận, luận nghị với Phạm thiên". Nhưng tôi không được thấy Phạm thiên, tôi không nói chuyện, thảo luận, luận nghị với Phạm thiên. Tôi có nghe các vị Bà-la-môn trưởng thượng, lớn tuổi, cả giáo thọ và đệ tử đều nói rằng: "Những ai sống tịnh cư trong bốn tháng mưa, tu tập thiền định về bi tâm sẽ thấy được Phạm thiên, sẽ nói chuyện, thảo luận và luận nghị với Phạm thiên". Nay tôi muốn sống tịnh cư trong bốn tháng mưa, tu tập thiền định về bi tâm, không một ai được đến gặp tôi, chỉ trừ một người đem đồ ăn. "- Này Thiện hữu Govinda, hãy làm những gì thiện hữu nghĩ là hợp thời.

Then the High Steward had a new rest-house built eastward of the city, and there for the four months of the rains he meditated, rapt in the Ecstasy of Pity; nor did anyone have access to him save one who brought him his meals. But when the four rainy months were over, then verily came disappointment and anguish over him as he thought: ‘Here have I heard aged and venerable brahmins, teachers and their pupils, say: “He who remains in meditation the four months of the rains, and practises the Ecstasy of Pity, he sees Brahma, communes, converses, and takes counsel with Brahma.” But I see not Brahma, I commune not, nor converse, nor take counsel with Him.’

43. "Rồi Thiện hữu Mahà Govinda cho làm một hội đường mới về phương Ðông kinh thành, tịnh cư trong bốn tháng mưa và tu tập thiền định về bi tâm, không một ai đến gặp, trừ người đem đồ ăn. Sau bốn tháng, sự thất vọng và sợ hãi sau đây khởi lên cho Bà-la-môn Mahà Govinda: "Ta có nghe các vị Bà-la-môn trưởng thượng, lớn tuổi, cả giáo thọ và đệ tử đều nói rằng: "Những ai sống tịnh cư trong bốn tháng mưa, tu tập thiền định về bi tâm, sẽ thấy được Phạm thiên, sẽ nói chuyện, thảo luận và nghị luận với Phạm thiên. Nhưng nay ta không thấy Phạm thiên, không nói chuyện với Phạm thiên, không thảo luận với Phạm thiên, không nghị luận với Phạm thiên".

Then Brahma, the Eternal Youth, when in his mind he knew the thoughts of the High Steward’s mind, vanished from his heaven, and, like a strong man shooting his arm out or drawing back his out-shot arm, appeared before the High Steward. Then verily came fear, then came trembling upon the High Steward, then did the hair of his flesh stand up * when he saw this thing that had never been seen before. And he, full of fear and dread with stiffening hair, addressed Brahma the Eternal Youth in these verses—

‘O Vision fair, O glorious and divine!
Who art thou, lord?
Knowing thee not we ask,
That we may know!’

‘To a Brahma Blest
Let seat and water for the feet and sweet
Cooked cakes and drink be brought.
We ask what gift The Lord would take.
Would he himself decide
The form for us.

44. "Rồi Phạm thiên Sanamkumàra với tâm của mình biết được tâm của Bà-la-môn Mahà Govinda, như một người lực sĩ duỗi cánh tay đang co lại, hay co lại cánh tay đang duỗi ra, cũng vậy Phạm thiên biến mất ở Phạm thiên giới và hiện ra trước mặt Bà-la-môn Mahà Govinda. Rồi Bà-la-môn Mahà Govinda hoảng hốt, run sợ, lông tóc dựng ngược, thốt lên bài kệ sau đây với Phạm thiên Sanamkumàra (Thường Ðồng hình Phạm thiên):

Ôi đoan tướng quang vinh,
Thiện hữu thật là ai?
Không biết nên hỏi Ngài.
Ðể chúng tôi biết Ngài!
Phạm thiên giới biết ta,
Là Ðồng tử thường hằng!
Ta là bậc thiên vương,
Hãy biết ta là vậy,
Hãy đem đến sàng tọa,
Nước rửa chân, thục mật.
Hiền giả muốn nhận gì,
Hãy cho chúng tôi biết!
Ta chấp nhận cúng vật,
Mà Ngươi vừa đề cập.
Vì hạnh phúc hiện tại,
Vì an lạc tương lai,
Dịp may nay đã đến,
Hãy hỏi điều Ngươi muốn.

‘Hereby we take thy gift, and now—whether it be for good and gain, in this thy present life, or for thy weal, in that which shall be—Thou hast leave. Come, ask, Govinda, whatsoe’er thou fain would’st have?’

Bằng cách này, chúng tôi nhận món quà của bạn, và bây giờ — cho dù đó là điều tốt và lợi ích, trong cuộc sống hiện tại của bạn này, hay cho sự hao mòn của bạn, trong đó sẽ là — Bạn hãy ra đi. Hãy đến, hỏi, Govinda, bạn sẽ có gì?

Then the High Steward thought: ‘Leave is given me by Brahma the Eternal Youth! What now shall I ask of him, some good thing for this life, or a future good?’ [24l] Then it occurred to him: ‘I am an expert regarding what is profitable for this life. Even others consult me about that. What now if I were to ask Brahma the Eternal Youth for something of advantage in a life to come?’ And he addressed the god in these verses—

‘I ask the Brahma, the Eternal Youth,
Him past all doubt I, doubting, ask about
The things that others would fain know about.
Wherein proficient, in what method trained
Can mortal reach th’ immortal world of Brahm?’

‘He among men, O Brahmin, who eschews
All claims of “me “and “mine”;
he in whom thought
Rises in lonely calm, in pity rapt,
Loathing all foul things, dwelling in chastity—
Herein proficient, in such matters trained,
Mortal can reach th’ immortal heav’n of Brahm.’

45. "Rồi Bà-la-môn Mahà Govinda suy nghĩ: "Ðây là dịp may Phạm thiên Sanamkumàra dành cho ta. Ta nay hỏi Phạm thiên Sanamkumàra điều gì đã được ích lợi cho hiện tại và tương lai?"."Rồi Bà-la-môn Mahà Govinda suy nghĩ: "Ta rất giỏi về những lợi ích hiện tại. Chính người khác cũng hỏi ta về những lợi ích hiện tại. Vậy ta hãy hỏi Phạm thiên Sanamkumàra lợi ích tương lai"."Rồi Ba-la-môn Mahà nói bài kệ sau đây với Phạm thiên Sanmakumàra:

Nay ta hỏi Phạm thiên, Sanamkumàra!
Ta hỏi điều nghi ngờ,
Người khác đều muốn biết!
An trú tại chỗ nào,
Tu tập tại chỗ nào,
Ðể chứng quả bất tử?

Chính tại Phạm thiên giới:
Này Ngươi Bà-la-môn.
Ai bỏ ngã, ngã sở,
Tâm chuyên chú nhứt cảnh,
Tu tập đại bi tâm,
Thoát ly mọi xú uế,
Lánh xa mọi tà dục,
An trú ở nơi đây!
Ðể chứng quả bất tử,
Chính tại Phạm thiên giới.

‘What the Lord saith touching “eschewing all claims of ‘me’ and ‘mine’ I understand. It is to renounce all property whether it be small or large, and to renounce all family life, whether the circle of one’s kin be small or large, and with hair and beard cut off and yellow robes donned, to go forth from the home into the homeless life. Thus do I understand this.

46. "- Từ bỏ ngã và ngã sở hữu, thưa Tôn giả, câu ấy tôi hiểu. Trong đời có người từ bỏ tài sản nhỏ hay từ bỏ tài sản lớn, từ bỏ vòng quyến thuộc nhỏ hay vòng quyến thuộc lớn, cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa, xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Thưa Tôn giả, như vậy ta hiểu nghĩa từ bỏ ngã và ngã sở hữu.

‘What the Lord saith touching “thought rising in lonely calm” I understand. It is when one chooses a solitary abode—the forest, at the foot of a tree, a mountain brae, a grotto, a rock-cavern, a cemetery, or a heap of grass out in the open field. Thus do I understand this .

"Tâm chuyên nhất cảnh, thưa Tôn giả, câu ấy tôi hiểu. Trong đời có người lựa một chỗ an trú thanh vắng, một khu rừng, một gốc cây, một ngọn núi, một hang cốc, một bãi tha ma, một sơn lâm, giữa trời không, một đống rơm. Thưa, Tôn giả, như vậy tôi hiểu nghĩa tâm chuyên nhất cảnh.

‘What the Lord saith touching “in pity rapt” I understand. It is when one continues to pervade one quarter of the horizon with a heart charged with pity, and so the second quarter, and so the third, and so the fourth. And thus the whole wide world, above, below, around and everywhere does one continue to pervade with a heart charged with pity, far-reaching, expanded, infinite, free from wrath and ill will. Thus do understand this.

"Tu tập bi tâm, thưa Tôn giả, câu ấy tôi hiểu. Trong đời có người an trú, biến mãn một phương với tâm câu hữu với bi, cũng vậy phương thứ hai, cũng vậy phương thứ ba, cũng vậy phương thứ tư. Như vậy cùng khắp thế giới, trên, dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị ấy an trú, biến mãn với tâm câu hữu với bi quảng đại vô biên, không hận, không sân. Thưa Tôn giả, như vậy tôi hiểu nghĩa tu tập bi tâm.

‘Only in what He saith touching “loathing the foul “do I not understand thee, Lord.

"Thưa Tôn giả, riêng câu nói về xú uế tôi không được hiểu.

‘What mean’st thou by “foul odours among men,” O Brahma, here I understand thee not. Tell what these signify, who knowest all. When cloaked and clogged by what is man thus foul, Hell-doomed, and shut off from the heaven of Brahm?’

‘Anger and lies, deceit and treachery,
Selfishness, self-conceit and jealousy,
Greed, doubt, and lifting hands ‘gainst fellow men,
Lusting and hate, dulness and pride of life—
When yoked with these man is of odour foul,
Hell-doomed, and shut out from the heav’n of Brahma.’

"Này Phạm thiên, trong loài người cái gì là xú uế? "Ðó là điều ở nơi đây tôi không hiểu. Tôn giả hãy nói đi!

- Loài người bị gì che,
Bị trói buộc cái gì,
Phải chịu sanh đọa xứ,
Bị đóng cửa Phạm thiên?

Phẫn nộ và vọng ngữ,
Gian manh và lừa đảo,
Hà tiện và quá mạn,
Tật đố và dục cầu,
Nghi ngờ và hại người,
Tham, sân, si kiêu mạn.
Những tánh này trói buộc,
Khiến con người xú uế,
Phải chịu sanh đọa xứ,
Bị đóng cửa Phạm thiên.

‘As I understand the word of the Lord concerning these “foul odours”, they cannot easily be suppressed if one live in the world. I will therefore go forth from the home into the life of the homeless state.’

‘Do, lord steward, whatever seems to you fit.’

"- Như tôi hiểu lời Tôn giả giải thích về các xú uế, chúng không dễ gì mà được điều phục, nếu phải sống tại gia. Nay tôi muốn xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình.

"- Hiền giả Govinda, hãy làm gì Hiền giả xem là hợp thời.

Then the High Steward waited on king Reṇu and said to him— ‘Will my lord now seek another minister, who will administer my lord’s affairs? I wish to leave the world for the homeless life. I am going forth in accordance with the word of Brahma which I have heard concerning foul odours. These cannot be easily suppressed when one is living in the world.’

47. "Rồi Bà-la-môn Mahà Govinda đi đến chỗ vua Renu ở, khi đến xong liền tâu với vua Renu:"- Này Tôn giả, hãy tìm một phụ tá khác, vị này sẽ điều khiển quốc sự cho Tôn giả. Tôi muốn xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Tôi được nghe Phạm thiên giải thích các xú uế, chúng tôi dễ gì mà được điều phục, nếu phải sống tại gia. Nay tôi muốn xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.

‘King Reṇu, lord o’ the land, I here declare—do thou thyself take thought for this thy realm! I care no longer for my ministry.’

"- Này Tôn giả, hãy tìm một phụ tá khác, vị này sẽ điều khiển quốc sự cho Tôn giả. Tôi muốn xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Tôi được nghe Phạm thiên giải thích các xú uế, chúng tôi dễ gì mà được điều phục, nếu phải sống tại gia. Nay tôi muốn xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.

‘If for thy pleasures aught there lacketh yet,
I’ll make it good. If any injure thee,
Them I’ll restrain, warlord and landlord I!
Thou art my father, Steward, lo! I am thy son!
Abide with us, Govinda, leave us not.’

- Vua Renu quốc chủ,
Thần xin tâu Ngài rõ.
Hãy biết quốc độ Ngài,
Thần không thiết chức vụ.

‘Naught lack I for my pleasures,
nor is there One who doth injure me.
But I have heard Voices unearthly.
Henceforth home holds me not.’

- Nếu Khanh thiếu dục lạc,
Ta cho Khanh đầy đủ!
Nếu có ai hại Khanh,
Quốc chủ, ta ngăn chận.
Khanh là cha, ta con,
Khanh chớ bỏ rơi ta.

What like is this Unearthly?
What did He say to thee,
that having heard thou will straightway
Forsake our house and us and all the world?’

- Thần không thiếu dục lạc
Không có ai hại thần.
Vì nghe bậc phi nhân,
Thần không thiết gia đình.

‘Ere I had passed through this Retreat,
my care was for due altar-rites,
the sacred fire was kindled,
strewn about with kusa-grass.
But lo! Brahma I saw, from Brahma’s heav’n, Eternal god.
I asked; he made reply; I heard.
And now irksome is home to me.’

- Phi nhân ấy là ai,
Vị ấy đã nói gì,
Khanh nghe, bỏ gia đình,
Bỏ ta, bỏ tất cả?
- Trước kia ở nơi đây,
Lòng thần chỉ nguyện cầu
Lo đốt nén lửa thiêng,
Và rải cỏ cát tường.
Nay Phạm thiên hiện ra,
Hiện từ Phạm thiên giới,
Trả lời câu hỏi thần,
Nghe xong thần bỏ nhà.

‘Lo! I believe the words that thou hast said, Govinda,
Having heard the Unearthly Voice.
How could it be thou should’st act otherwise?
Thee will we follow after.
Be our guide, our teacher!
So, like gem of purest ray,
Purg’d of all dross, translucent, without flaw—
As pure as that we’ll walk according to thy word.’

- Này Khanh Govinda, Ta tin lời Khanh nói!
Ðược nghe bậc phi nhân,
Làm sao làm khác được?
Ta sẽ theo gương Khanh,
Bậc thầy của chúng ta.
Như hòn ngọc lưu ly,
Không tỳ vết, cấu uế,
Thật trong sạch như vậy,
Ta theo giáo lý Người!

‘If the honourable Steward goes forth from the home into the homeless, I too will do the like. For whither thou goest, I will go.’

"- Nếu Thiện hữu Govinda xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình, thời tôi cũng xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Chỗ nào Thiện hữu đi, chỗ ấy chúng tôi sẽ đi.

Then the High Steward, the brahmin, waited upon the six nobles, and said to them: ‘Will my lords now seek another minister who will administer my lords’ affairs? I wish to leave the world for the homeless life. I am going forth in accordance with the word of Brahma which I have heard concerning-foul odours. These cannot be easily suppressed when one is living in the world.’

48. "Rồi Bà-la-môn Mahà Govinda đi đến chỗ sáu vị Sát-đế-lỵ ở, khi đến xong liền nói với sáu vị ấy như sau: "- Chư Hiền giả, hãy tìm một vị phụ tá khác. Vị này sẽ điều khiển quốc sự cho quý vị Hiền giả. Tôi muốn xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Tôi được nghe Phạm thiên giải thích về các xú uế. Chúng không dễ gì được điều phục, nếu phải sống tại gia. Nay tôi muốn xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.

Then the six nobles went aside together and thus deliberated—‘These brahmin folk are greedy for money. What if we were to gain him over through money?’ And coming to the High Steward they said—‘There is abundance of property, sir, in these seven kingdoms. Wherefore, sir, take of it as much as seems profitable to you.’

"Rồi sáu vị Sát-đế-lỵ đi qua một bên và thảo luận như sau: "- Những người Bà-la-môn này rất tham tài sản. Chúng ta hãy lấy tài sản để dụ dỗ Bà-la-môn này. "Các vị này đến tại chỗ của Bà-la-môn Mahà Govinda và nói: "- Thiện hữu, tài sản trong bảy quốc độ này rất là phong phú, Thiện hữu muốn bao nhiêu, Thiện hữu cứ lấy bấy nhiêu.

‘Enough, sirs! I have already abundant possessions, thanks to the action of my lords. It is that luxury that I am now relinquishing in leaving the world for the homeless life, [even as I have told you].’

"- Thôi thôi, chư Thiện hữu! Tài sản của tôi rất là phong phú, nhờ sự giúp đỡ của quý vị. Nay tôi đã bỏ mọi danh lợi ấy để xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Tôi được nghe Phạm thiên giải thích về các xú uế, chúng không dễ gì được điều phục, nếu phải sống tại gia. Nay tôi muốn xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.

Then the six nobles went aside together, and thus deliberated: ‘These brahmin folk are greedy about women. What if we, were to gain him over through women?’ And coming to the High Steward they said: ‘There is, sir, in those seven kingdoms abundance of women. Wherefore, sir, conduct away with you as many as you want.’

49. "Rồi sáu vị Sát-đế-lỵ, đi qua một bên và thảo luận như sau: "Những người Bà-la-môn này rất tham đàn bà. Chúng tôi hãy lấy đàn bà để dụ dỗ Bà-la-môn này. "Các vị này đến tại chỗ của Bà-la-môn Mahà Govinda và nói: "- Thiện hữu, đàn bà trong bảy quốc độ này rất nhiều. Thiện hữu muốn bao nhiêu, Thiện hữu cứ lấy bấy nhiêu.

‘Enough, sirs! I have already these forty wives equal in rank. All of them I am forsaking in leaving the world for the homeless life, [even as I have told you].’

"- Thôi thôi, chư Thiện hữu, tôi có đến bốn mươi vị phu nhân, thảy đều đồng đẳng. Tôi nay muốn từ bỏ tất cả các vị ấy để xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Tôi được nghe Phạm thiên giải thích về các xú uế. Chúng không dễ gì được điều phục, nếu sống tại gia. Nay tôi muốn xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.

‘If the honourable Steward goes forth from the home into the homeless life, we too will do the like. Whither thou goest we will go.’

If ye would put off fleshly lusts
that worldling’s heart coerce,
Stir ye the will,
wax strong,
firm in the power of patience.
This is the Way, the Way that’s Straight,
the Way unto the End,
The Righteous Path that good men guard,
to birth in Brahma’s heaven.’

50. "- Nếu Thiện hữu Govinda sẽ xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, thì chúng tôi cũng sẽ xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Chỗ nào thiện hữu đi, chỗ ấy chúng tôi sẽ đi.

Nếu từ bỏ dục vọng,
Mà kẻ phàm say đắm.
Tinh cần và cương quyết,
Vững chắc trong nhẫn lực,
Ðó là con đường chánh,
Con đường hướng vô thượng,
Ðược Thiện nhân hộ trì,
Sanh lên cõi Phạm thiên.

‘Wherefore, my lord Steward, wait yet seven years, and when they are over, we too will go forth from the world into the homeless life. Whither thou goest we will go.’

51. "Do vậy, Thiện hữu Govinda hãy chờ bảy năm nữa, sau bảy năm chúng tôi sẽ xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Chỗ nào Thiện hữu đi, chỗ ấy chúng tôi đi.

‘Too long, my lords, are seven years! I cannot wait for my lords seven years. For who can answer for the living? We must go toward the future, we must learn by wisdom, we must do good, we must walk in righteousness, for there is no escaping death for all that’s born. Now I am going forth in accordance with the word of Brahma which I have heard concerning foul odours. They cannot be easily suppressed when one is living in the world.’

"- Chư Thiện hữu, bảy năm quá lâu dài. Tôi không thể chờ các Hiền giả đến bảy năm. Ai có thể biết được về mạng sống? Chúng ta phải bước đi, hướng về tương lai. Chúng ta phải học nhờ tuệ tri. Việc thiện chúng ta cần phải làm. Phạm hạnh chúng ta cần phải thực hành. Không ai tránh khỏi sự chết khi phải sanh ra. Tôi được nghe Phạm thiên giải thích về các xú uế. Chúng không gì được điều phục nếu sống tại gia. Nay tôi muốn xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.

‘Well then, lord Steward, wait for us six years … [or] wait five years … four years … three … two years … one year. When a year has gone by we too will leave the world for the Homeless State. Whither thou goest we will go.’

52. "- Vậy Thiện hữu Govinda, hãy chờ trong sáu năm nữa... hãy chờ trong năm năm nữa... hãy chờ trong bốn năm nữa... hãy chờ trong ba năm nữa... hãy chờ trong hai năm nữa... hãy chờ trong một năm nữa. Sau một năm chúng tôi sẽ xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Chỗ nào Thiện hữu đi, chỗ ấy chúng tôi sẽ đi.

‘Too long, my lords, is one year. I cannot wait for my lords one year. For who can answer for the living? We must go towards the future, we must learn by wisdom, we must do good, we must walk in righteousness, for there is no escaping death for all that’s born. Now I am going forth in accordance with the word of Brahma which I have heard concerning foul odours. They cannot easily be suppressed when one is living in the world.’

53. "- Chư Thiện hữu, một năm quá lâu dài. Tôi không thể chờ các Hiền giả đến một năm. Ai có thể biết được về mạng sống? Chúng ta phải bước đi, hướng về tương lai. Chúng ta phải học nhờ tuệ tri. Việc thiện chúng ta cần phải làm. Phạm hạnh, chúng ta cần phải thực hành. Không ai tránh khỏi sự chết khi phải sanh ra. Tôi được nghe Phạm thiên giải thích về các xú uế. Chúng không dễ gì mà được điều phục, nếu sống tại gia. Nay tôi muốn xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.

‘Well then, lord Steward, wait for us seven months … six months … five … four … three … two months … one month … half a month … seven days, till we have devolved our kingdoms on to our sons and brothers. When seven days are over, we will leave the world for the Homeless State. Whither thou goest we will go.’

"- Vậy Thiện hữu Govinda, hãy chờ trong bảy tháng nữa. Sau bảy tháng chúng tôi sẽ xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Chỗ nào Thiện hữu đi, chỗ ấy chúng tôi sẽ đi.

54. "- Chư Thiện hữu, bảy tháng quá lâu dài. Tôi không thể chờ các Hiền giả đến bảy tháng. Ai có thể biết được về mạng sống? Chúng ta phải bước đi, hướng về tương lai. Chúng ta phải học nhờ tuệ tri. Việc thiện chúng ta cần phải làm. Phạm hạnh chúng ta cần phải thực hành. Không ai tránh khỏi sự chết khi phải sanh ra. Tôi được nghe Phạm thiên giải thích về các xú uế. Chúng không dễ gì mà điều phục, nếu sống tại gia. Nay tôi muốn xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.

"- Vậy Thiện hữu Govinda, hãy chờ sáu tháng nữa... hãy chờ năm tháng nữa... hãy chờ bốn tháng nữa... hãy chờ ba tháng nữa... hãy chờ hai tháng nữa... hãy chờ một tháng nữa... hãy chờ nửa tháng nữa. Sau nửa tháng, chúng tôi sẽ xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, chỗ nào Thiện hữu đi, chỗ ấy chúng tôi sẽ đi.

55. "- Chư Thiện hữu, nửa tháng quá lâu dài, tôi không thể chờ các Hiền giả đến nửa tháng. Ai có thể biết được về mạng sống? Chúng ta phải bước đi, hướng về tương lai. Chúng ta phải học nhờ tuệ tri. Việc thiện chúng ta cần phải làm. Phạm hạnh chúng ta cần phải thực hành. Không ai tránh khỏi sự chết khi phải sanh ra. Tôi được nghe Phạm thiên giải thích về các xú uế. Chúng không dễ gì mà điều phục, nếu sống tại gia. Nay tôi muốn xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.

‘Seven days, my lords, is not a long time. I will wait, my lords, for seven days.’

"- Vậy Thiện hữu Govinda, hãy chờ cho bảy ngày cho đến khi chúng tôi giao quốc độ cho các người con và người anh của chúng tôi. Sau bảy ngày, chúng tôi sẽ xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Chỗ nào Thiện hữu đi, chỗ ấy chúng tôi sẽ đi.

"- Chư Thiện hữu, bảy ngày không lâu gì. Tôi sẽ chờ chư Thiện hữu cho đến bảy ngày.

Then the High Steward, the brahmin, came to those seven eminent and wealthy brahmins and to those seven hundred graduates, and said—‘Will ye now seek another teacher, sirs, who will (by repetition) teach you the mystic verses? I wish to leave the world for the homeless life. I am going forth in accordance with the word of Brahma which I have heard concerning foul odours. These cannot easily be suppressed when one is living in the world.’

56. "Rồi Bà-la-môn Maha Govinda đi đến chỗ bảy triệu phú Bà-la-môn và bảy trăm vị tịnh hạnh ở, khi đến xong liền nói với bảy vị triệu phúc Bà-la-môn và bảy trăm vị tịnh hạnh như sau: "- Này các Thiện hữu, hãy tìm một vị giáo thọ khác, vị ấy sẽ dạy các thần chú cho chư Thiện hữu, nay tôi muốn xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Tôi được nghe Phạm thiên giải thích về các xú uế. Chúng không dễ gì mà điều phục, nếu sống tại gia. Nay tôi muốn xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.

‘Let the honourable Steward not leave the world for the homeless life! Leaving the world means little power and little gain; to be a brahmin brings great power and great gain.’

"- Thiện hữu Bà-la-môn Govinda, chớ có xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Này Thiện hữu, xuất gia ít có quyền thế, và ít có lợi dưỡng. Làm người Bà-la-môn có nhiều quyền thế và có nhiều lợi dưỡng.

‘Speak not so, gentlemen, of leaving the world or of being a brahmin. Who for that matter has greater power or wealth than I? I, sirs, have been hitherto as a king of kings, as Brahma to brahmins, as a deity to householders. And this, all this, I put away in leaving the world, in accordance with the word of Brahma…’

"- Chư Thiện hữu chớ có nói như vậy: "Xuất gia ít có quyền thế và ít có lợi dưỡng. Làm người Bà-la-môn có nhiều quyền thế và có nhiều lợi dưỡng". Chư Thiện hữu, có ai nhiều quyền thế và nhiều lợi dưỡng hơn tôi. Tôi nay là vua các vị vua, là Phạm thiên cho các vị Bà-la-môn, và là vị Trời cho các Gia chủ, và tất cả điều này, tôi muốn vất bỏ, xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Tôi được nghe Phạm thiên giải thích về các xú uế. Chúng không dễ gì mà điều phục nếu sống tại gia. Nay tôi muốn xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình!

‘If the lord Steward leaves the world for the Homeless State, we too will do the like. Whither thou goest, we will go.’

"- Nếu Thiện hữu Govinda xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, chúng tôi cũng sẽ xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Chỗ nào Thiện hữu đi, chỗ ấy chúng tôi sẽ đi.

Then the High Steward, the Brahmin, went to his forty wives, all on an equality, and said—‘Will each of you, ladies, who may wish to do so, go back to her own family and seek another husband? I wish, ladies, to leave the world for the homeless life, in accordance with the word of Brahma …’

57. "Rồi Bà-la-môn Mahà Govinda đi đến bốn mươi vị phu nhân đồng đẳng, khi đến xong liền nói với bốn mươi vị phu nhân đồng đẳng như sau: "- Các phu nhân, nếu muốn hãy trở về gia đình của mình hay gia đình quyến thuộc và tìm một người chồng khác. Tôi nay muốn xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Tôi được nghe Phạm thiên giải thích về các xú uế. Chúng không dễ gì mà được điều phục, nếu sống tại gia. Nay tôi muốn xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. "- Ngài là người quyến thuộc của chúng tôi, người quyến thuộc mà chúng tôi ao ước. Ngài là chồng của chúng tôi, người chồng mà chúng tôi ao ước. Nếu Tôn giả Govinda xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, chúng tôi cũng sẽ xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Chỗ nào Tôn giả đi, chỗ ấy chúng tôi sẽ đi.

And so the High Steward, the brahmin, when those seven days were past, let his hair and beard be cut off, donned the yellow robes and went forth from his home into the Homeless State. And he having so acted, the seven kings also, anointed khattiyas, as well as the seven eminent and wealthy brahmins and the seven hundred graduates, the forty wives all on an equality, several thousand nobles, several thousand brahmins, several thousand commoners and several young women from women’s quarters, let their hair be cut, donned the yellow robes and went forth from their homes into the Homeless State. And so, escorted by this company, the High Steward, the brahmin, went a-wandering through the villages, towns, and cities. And whether he arrived at village or town or city, there he became as a king to kings, as Brahma to brahmins, as a deity to commoners. And in those days when any one sneezed or slipped, they called out—‘Glory be to the High Steward, the brahmin! Glory be to the Minister of Seven!’

58. "Rồi Bà-la-môn Mahà Govinda, sau bảy ngày liền cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa, xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Sau khi Bà-la-môn Mahà Govinda xuất gia, bảy vị Sát-đế-lỵ được làm lễ quán đảnh lên vương vị, bảy vị Bà-la-môn triệu phú, bảy trăm vị tịnh hạnh, bốn mươi vị phu nhân đồng đẳng, vài ngàn vị Sát-đế-lỵ, vài ngàn vị Bà-la-môn, vài ngàn cư sĩ, và một số thiếu phụ trẻ từ các cư xá thiếu phụ, những vị này đều cạo bỏ râu tóc, xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình theo Bà-la-môn Mahà Govinda. Và được bao vây bởi hội chúng như vậy, Bà-la-môn Mahà Govinda du hành đi qua làng, qua quận, qua các đô thị. Và đến tại làng nào, hay quận nào, hay đô thị nào, Bà-la-môn Mahà Govinda được xem là vua các vị vua, là Phạm thiên cho các Bà-la-môn, là vị Trời cho các cư sĩ. Trong thời gian ấy nếu có người nào nhảy mũi hay trượt chân, người ấy liền nói: "Ðảnh lễ Bà-la-môn Mahà Govinda! Ðảnh lễ vị phụ tá bảy quốc độ!"

Now the High Steward, the brahmin, continued to pervade each of the four quarters of the horizon with a heart charged with love … with pity … with sympathy in joy … with equanimity. And so the whole wide world above, below, around, and everywhere did he continue to pervade with heart charged with equanimity, far-reaching, expanded, infinite, free from wrath and ill will. And he taught to disciples the way to union with the world of Brahma.

59. "Bà-la-môn Mahà Govinda an trú, biến mãn một phương với tâm câu hữu với từ, cũng vậy phương thứ hai, cũng vậy phương thứ ba, cũng vậy phương thứ tư. Như vậy cùng khắp thế giới, trên, dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị ấy an trú, biến mãn với tâm câu hữu với từ, quảng đại, vô biên, không hận, không sân. Bà-la-môn Mahà Govinda, biến mãn một phương với tâm câu hữu với bi... với tâm câu hữu với hỷ... với tâm câu hữu với xả, cũng vậy phương thứ hai, cũng vậy phương thứ ba, cũng vậy phương thứ tư. Như vậy cùng khắp thế giới, trên, dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, biến mãn với tâm câ hữu với xả, quảng đại vô biên, không hận, không sân. Và vị ấy dạy cho các đệ tử con đường đưa đến sự thân hữu với Phạm thiên giới.

Now all they who at that time had been the High Steward’s disciples and in all points wholly understood his teaching, were after their death reborn into the blissful world of Brahma. They who had not in all points wholly understood his teaching, were after their death reborn into the company either of the gods who Dispose of Joys purveyed from without, or of the gods of the Heaven of Boundless Delight, or of the gods of the Heavens of Bliss, or of the Yama gods, [25l] or of the Three-and-Thirty gods, or of the gods who are the Four Kings of the Horizon. Even they who accomplished the lowest realm of all, attained to the realm of the Gandhabba fairies.

60. "Và tất cả những vị nào, trong thời ấy là đệ tử của Bà-la-môn Mahà Govinda đều hiểu được toàn diện giáo lý của Bà-la-môn Mahà Govinda. Những vị này, khi thân hoại, mạng chung đều được sanh lên thiện thú, Phạm thiên giới. Những vị nào không hiểu một cách toàn diện tất cả giáo lý, sau khi thân hoại, mạng chung, một số được sanh làm thân hữu với chư Thiên ở Tha Hóa Tự Tại thiên, một số được sanh làm thân hữu với chư Thiên ở Hóa Lạc thiên, một số được sanh làm thân hữu với chư Thiên ở Dạ-ma thiên, một số được sanh làm thân hữu với chư Thiên ở Tam thập tam thiên, một số được sanh làm thân hữu với Tứ Thiên vương thiên. Cho đến những vị phải thành tựu các thân thấp kém nhất, cũng được thành tựu thân Càn-thát-bà.

Thus of all those clansmen there was not one whose renunciation proved vain or barren; in each case it bore fruit and development.’

‘Does the Exalted One remember?’

Như vậy tất cả những thiện nam tử đã xuất gia không phải vô hiệu, không phải trống không, trái lại thật sự có hiệu quả, có tiến bộ.

61. Thế Tôn có nhớ không?

‘I do remember, Five-crest. I was the High Steward of those days. I taught my disciples the way to communion with the Brahma world. But, Five-crest, that religious life did not conduce to detachment, to passionlessness, to cessation of craving, to peace, to understanding, to insight of the higher stages of the Path, to Nirvana, but only to rebirth in the Brahma-world. On the other hand my religious system, Five-crest, conduces wholly and solely to detachment, to passionlessness, to cessation of craving, to peace, to understanding, to insight of the higher stages of the Path, to Nirvana. And that is the Aryan Eightfold Path, to wit, right views, right intention, right speech, right, action, right livelihood, right effort, right mindfulness, right rapture.

- Này Pancasikha, Ta có nhớ. Ta thuở ấy là Mahà Govinda. Ta dạy cho các đệ tử của Ta con đường đưa đến sự thân hữu ở Phạm thiên quốc. Nhưng này Pancasikha, con đường phạm hạnh ấy không đưa đến yểm ly, ly dục, tịch diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ và Niết-bàn. Con đường ấy chỉ đưa sanh lên cõi Phạm thiên. Này Pancasikha, con đường phạm hạnh của Ta hoàn toàn đưa đến yểm ly, ly dục, tịch diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ và Niết-bàn. Ðó là con đường Thánh đạo tám ngành tức là Chánh Tri kiến, Chánh Tư duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh tấn, Chánh Niệm, Chánh Ðịnh. Này Pancasikha, con đường phạm hạnh này hoàn toàn đưa đến yểm ly, ly dục, tịch diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ và Niết-bàn.

Those of my disciples, Five-crest, who in all points wholly understand my teaching, they from the destruction of the Deadly Taints have by and for themselves understood, realized and attained to, even in this life, freedom from taint, liberty of heart, liberty of intellect. Those who do not in all points wholly understand my teaching, some of them, in that they have broken away the five Fetters belonging to the Hither Side, are reborn without parents, where they will utterly pass away, being no more liable to return to this world. And some of them, in that they have broken away three [other] Fetters, and have worn down passion and hate and dullness, become Once-Returners, who after once returning to this world shall make an end of Ill. And some of them, again, in that they have broken away those three Fetters, become Stream-Attainers, not liable to be reborn in any state of woe, but assured of attaining to the Insight. And so, Five-crest, of all, even all those persons, there is not one whose renunciation is vain or barren; in each case it will have brought fruit and development.’ Thus spoke the Exalted One. And Five-crest of the Gandhabba fairies was pleased at the word of the Exalted One, and in delight and gladness he saluted the Exalted One, and with the salutation of the right side he vanished from that place.

Here endeth the Story of the Lord High Steward.

62. Này Pancasikha, những vị đệ tử nào đã hiểu được toàn diện tất cả giáo lý của Ta, những vị ấy trừ diệt các lậu hoặc, vô lậu, tự mình hiện chứng thắng trí giác ngộ, sống an trú tâm giải thoát, tuệ giải thoát. Trong những vị không hiểu được toàn diện tất cả giáo lý của Ta, một số những vị ấy, diệt trừ năm hạ phần kiết sử, được hóa sanh (lên Thiên giới) và ở tại chỗ ấy được nhập Niết-bàn, không phải sanh lại thế giới này. Trong những vị không hiểu được toàn diện tất cả giáo lý của Ta, một trong những vị ấy diệt trừ ba kiết sử, làm nhẹ bớt tham, sân, si, thành bậc Nhất lai, chỉ phải sanh vào thế giới này một lần nữa rồi diệt tận khổ đau. Trong những vị này không hiểu được toàn diện tất cả giáo lý của Ta, một số những vị ấy từ diệt ba kiết sử, thành bậc Dự lưu, không còn phải sanh vào đọa xứ, nhất định chứng quả Bồ-đề. Này Pancasikha, như vậy tất cả những thiện nam tử đã xuất gia, không phải vô hiệu, không phải trống không, trái lại thật sự có hiệu quả, có tiến bộ. Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Pancasikha, con của Càn-thát-bà, sung sướng, hoan hỷ nghe lời dạy của Thế Tôn, đảnh lễ Ngài, thân phía hữu hướng về Ngài và biến mất tại chỗ.

Knh Ðại Ðiển Tôn chấm dứt tại đây.

 Chủ biên và điều hành: TT Thích Giác Đẳng.

  Những đóng góp dịch thuật xin gửi về TT Thích Giác Đẳng tại phamdang0308@gmail.com
Cập nhập ngày: Thứ Năm 07-1-2021

webmasters: Minh Hạnh & Thiện Pháp, Thủy Tú & Phạm Cương

 | | trở về đầu trang | Home page |