Part Four: The Last Meal


Part Four: The Last Meal


The Elephant's Look

The Elephant's Look

1. Then the Blessed One, getting ready in the forenoon, took bowl and robe and went into Vesali for alms. After the alms round and meal, on his return, he looked upon Vesali with the elephant's look, 36 and said to the Venerable Ananda: "This, Ananda, is the last time that the Tathagata will look upon Vesali. Come, Ananda, let us go to Bhandagama."

1.. Rồi Thế Tôn, vào buổi sáng đắp y, đem theo y bát, vào Vesàli để khất thực. Sau khi khất thực ở Vesàli, ăn xong và trên đường khất thực trở về, 36 Thế Tôn nhìn Vesàli với cái nhìn của con voi chúa rồi nói với tôn giả Ananda: - Này Ananda, lần này là lần cuối cùng, Như Lai nhìn Vesàli. Này Ananda, chúng ta hãy đi đến làng Bhandagàma.

"So be it, O Lord." And the Blessed One took up his abode at Bhandagama together with a large community of bhikkhus.

- Xin vâng, bạch Thế Tôn ! Tôn giả Ananda vâng lời Thế Tôn . Rồi Thế Tôn cùng với đại chúng Tỷ-kheo đi đến Bhandagàma. Tại đây, Thế Tôn ở tại Bhandagàma.

2. And the Blessed One addressed the bhikkhus, saying: "Bhikkhus, it is through not realizing, through not penetrating four principles that this long course of birth and death has been passed through and undergone by me as well as by you. What are those four? They are: noble virtue, noble concentration, noble wisdom, and noble emancipation. But now, bhikkhus, that these have been realized and penetrated, cut off is the craving for existence, destroyed is that which leads to renewed becoming, and there is no fresh becoming."

2.. Rồi Thế Tôn nói với Tỷ-kheo: - Này các Tỷ-kheo, chính vì không giác ngộ, không chứng đạt bốn Pháp mà Ta và các Ngươi lâu đời phải trôi lăn trong biển sanh tử. Thế nào là bốn? Này các Tỷ-kheo, chính vì không giác ngộ không chứng đạt Thánh Giới mà Ta và các Ngươi lâu đời phải trôi lăn trong biển sanh tử. Này các Tỷ-kheo, chính vì không giác ngộ, không chứng đạt Thánh Định mà Ta và các Ngươi lâu đời phải trôi lăn trong biển sanh tử. Này các Tỷ-kheo, chính vì không giác ngộ, không chứng đạt Thánh Tuệ mà Ta và các Ngươi lâu đời phải trôi lăn trong biển sanh tử. Này các Tỷ-kheo, chính vì không giác ngộ, không chứng đạt Thánh giải thoát mà Ta và các Ngươi lâu đời phải trôi lăn trong biển sanh tử. Này các Tỷ-kheo, khi Thánh Giới được giác ngộ, được chứng đạt; khi Thánh Định được giác ngộ, được chứng đạt; khi Thánh Tuệ được giác ngộ, được chứng đạt; khi Thánh giải thoát được giác ngộ, được chứng đạt, thời tham ái một đời sống tương lai được trừ diệt, những gì đưa đến một đời sống mới được dứt sạch, nay không còn một đời sống nào nữa.

3. And having spoken these words, the Happy One, the Master, spoke again, saying:

3.. Đó là lời Thế Tôn dạy. Sau khi nói vậy, Thiện Thệ lại nói thêm:

"Virtue, concentration, wisdom, and emancipation unsurpassed —

Giới, Định, Tuệ và Giải thoát vô thượng

These are the principles realized by Gotama the renowned;

Gotama danh xưng đã chứng ngộ.

And, knowing them, he, the Buddha, to his monks has taught the Dhamma.

Đấng Giác Ngộ giảng pháp chúng Tỷ-kheo.

He, the destroyer of suffering, the Master, the Seer, is at peace."

Đạo Sư diệt khổ, pháp nhãn, tịnh lạc.

4. And also at Bhandagama the Blessed One often gave counsel to the bhikkhus thus: "Such and such is virtue; such and such is concentration; and such and such is wisdom. Great becomes the fruit, great is the gain of concentration when it is fully developed by virtuous conduct; great becomes the fruit, great is the gain of wisdom when it is fully developed by concentration; utterly freed from the taints of lust, becoming, and ignorance is the mind that is fully developed in wisdom."

4. Trong thời gian Thế Tôn ở tại Bhandagàma, pháp thoại này được giảng cho chúng Tỷ-kheo: - Đây là Giới, đây là Định, đây là Tuệ, Định cùng tu với Giới sẽ đưa đến quả vị lớn, lợi ích lớn. Tuệ cùng tu với Định sẽ đưa đến quả vị lớn, lợi ích lớn. Tâm cùng tu với Tuệ sẽ đưa đến giải thoát hoàn toàn các món lậu hoặc, tức là dục lậu, hữu lậu (tri kiến lậu), vô minh lậu.

5. When the Blessed One had stayed at Bhandagama as long as he pleased, he spoke to the Venerable Ananda: "Come, Ananda, let us go to Hatthigama."

5.. Rồi Thế Tôn, sau khi ở Bhandagàma cho đến khi Ngài xem là vừa đủ, liền nói với tôn giả Ananda: - Này Ananda, chúng ta hãy đi đến Hatthigama >

"So be it, Lord." And the Blessed One took up his abode at Hatthigama together with a large community of bhikkhus.

Xin vâng, bạch Thế Tôn! Tôn giả Ananda vâng đáp Thế Tôn. Rồi Thế Tôn cùng với đại chúng Tỷ-kheo đi đến Hatthigama

And when the Blessed One had stayed at Hatthigama as long as he pleased, he took up his abode at Ambagama, then at Jambugama. And at each of these places the Blessed One often gave counsel to the bhikkhus thus: "Such and such is virtue; such and such is concentration; and such and such is wisdom. Great becomes the fruit, great is the gain of concentration when it is fully developed by virtuous conduct; great becomes the fruit, great is the gain of wisdom when it is fully developed by concentration; utterly freed from the taints of lust, becoming, and ignorance is the mind that is fully developed in wisdom."

Rồi Thế Tôn, sau khi ở Hatthigama cho đến khi Ngài xem là vừa đủ, Thế Tôn cùng với đại chúng Tỷ-kheo đi đến Ambagama,rồi đến Jambugama. Tại những no7 này, pháp thoại này được giảng cho chúng Tỷ-kheo: - Đây là Giới, đây là Định, đây là Tuệ, Định cùng tu với Giới sẽ đưa đến quả vị lớn, lợi ích lớn. Tuệ cùng tu với Định sẽ đưa đến quả vị lớn, lợi ích lớn. Tâm cùng tu với Tuệ sẽ đưa đến giải thoát hoàn toàn các món lậu hoặc, tức là dục lậu, hữu lậu (tri kiến lậu), vô minh lậu.

6. And when the Blessed One had stayed at Jambugama as long as he pleased, he spoke to the Venerable Ananda: "Come, Ananda, let us go to Bhoganagara."

6. Rồi Thế Tôn, sau khi ở Jambugàma cho đến khi Ngài xem là vừa đủ, liền nói với tôn giả Ananda: - Này Ananda, chúng ta hãy đi đến Bhoganagara.

"So be it, Lord." And the Blessed One took up his abode at Bhoganagara together with a large community of bhikkhus, and stayed in the Ananda shrine.

Xin vâng, bạch Thế Tôn! Tôn giả Ananda vâng đáp Thế Tôn. Rồi Thế Tôn cùng với đại chúng Tỷ-kheo đi đến Bhoganagara. Thế Tôn ở Bhoganagara tại đền Ananda

The Four Great References

The Four Great References

7. And there the Blessed One addressed the bhikkhus, saying: "Now, bhikkhus, I shall make known to you the four great references. 37 Listen and pay heed to my words." And those bhikkhus answered, saying:

7.. Ngài nói với các Tỷ-kheo: - Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng bốn Đại giáo pháp, hãy nghe và suy nghiệm kỹ,37 Ta sẽ giảng.

"So be it, Lord."

- Xin vâng, bạch Thế Tôn! Các Tỷ-kheo ấy vâng lời Thế Tôn

8-11. Then the Blessed One said: "In this fashion, bhikkhus, a bhikkhu might speak: 'Face to face with the Blessed One, brethren, I have heard and learned thus: This is the Dhamma and the Discipline, the Master's Dispensation'; or: 'In an abode of such and such a name lives a community with elders and a chief. Face to face with that community, I have heard and learned thus: This is the Dhamma and the Discipline, the Master's Dispensation'; or: 'In an abode of such and such a name live several bhikkhus who are elders, who are learned, who have accomplished their course, who are preservers of the Dhamma, the Discipline, and the Summaries. Face to face with those elders, I have heard and learned thus: This is the Dhamma and the Discipline, the Master's Dispensation'; or: 'In an abode of such and such a name lives a single bhikkhu who is an elder, who is learned, who has accomplished his course, who is a preserver of the Dhamma, the Discipline, and the Summaries. Face to face with that elder, I have heard and learned thus: This is the Dhamma and the Discipline, the Master's Dispensation.'

Thế Tôn giảng như sau:

8-11. Này các Tỷ-kheo, có thể có Tỷ-kheo nói: "Này Hiển giả, tôi tự thân nghe từ miệng Thế Tôn, tự thân lãnh thọ, như vậy là Pháp, như vậy là Luật, như vậy là lời dạy của vị Đạo Sư". Này các Tỷ-kheo, các Ngươi không nên tán thán, không nên hủy báng lời nói của Tỷ-kheo ấy. Không tán thán, không hủy báng, mỗi mỗi chữ, mỗi mỗi câu, cần phải được học hỏi kỹ lưỡng và đem so sánh với Kinh, đem đối chiếu với Luật. Khi đem so sanh với Kinh, đối chiếu với Luật, nếu chúng không phù hợp với Kinh, không tương ứng với Luật thời các Ngươi có thể kết luận: "Chắc chắn những lời này không phải là lời Thế Tôn, và Tỷ-kheo ấy đã thọ giáo sai lầm. Và này các Tỷ kheo, các Ngươi hãy từ bỏ chúng. Khi đem so sánh với Kinh, đem đối chiếu với Luật và nếu chúng phù hợp với Kinh, tương ứng với Luật, thời các Ngươi có thể kết luận: "Chắc chắn những lời này phải là lời dạy của Thế Tôn và Tỷ-kheo ấy đã thọ giáo chơn chánh". Này các Tỷ-kheo, như vậy là Đại giáo pháp thứ nhất, các Ngươi hãy thọ trì. Này các Tỷ-kheo, nếu có Tỷ-kheo nói: "Tại trú xứ kia, có Tăng chúng ở với các vị Thượng tọa, với các Thủ chúng. Tôi tự thân nghe từ miệng Tăng chúng, tự thân lãnh thọ, như vậy là Pháp, như vậy là Luật, như vậy là lời dạy của vị Đạo Sư". Này các Tỷ-kheo, các Ngươi không nên tán thán, không nên hủy báng lời nói của Tỷ-kheo ấy. Không tán thán, không hủy báng, mỗi mỗi chữ, mỗi mỗi câu, phải được học hỏi kỹ lưỡng và đem so sánh với Kinh, đem đối chiếu với Luật, nếu chúng không phù hợp với Kinh, không tương ứng với Luật thời các Ngươi có thể kết luận: "Chắc chắn những lời này không phải là lời Thế Tôn, và Tỷ-kheo ấy đã thọ giáo sai lầm". Và này các Tỷ-kheo, các Ngươi hãy từ bỏ chúng. Khi đem so sánh với Kinh, đem đối chiếu với Luật và nếu chúng phù hợp với Kinh, tương ứng với luật, thời các ngươi có thể kết luận: "Chắc chắn những lời này phải là lời dạy của Thế Tôn, và Tỷ-kheo ấy đã thọ giáo chơn chánh". Này các Tỷ-kheo, như vậy là Đại giáo pháp thứ hai, các Ngươi hãy thọ trì. Này các Tỷ-kheo, có thể có vị Tỷ-kheo nói: "Tại trú xứ kia có nhiều Tỷ-kheo Thượng tọa ở, những vị này là bậc đa văn, gìn giữ truyền thống, trì pháp, trì luật, trì pháp yếu. Tôi tự thân nghe từ miệng những vị Thượng tọa ấy, tự thân lãnh thọ, như vậy là Pháp, như vậy là Luật, như vậy là lời dạy của vị Đạo Sư". Này các Tỷ-kheo, các Ngươi không nên tán thán, không nên hủy báng lời nói của Tỷ-kheo ấy. Không tán thán, không hủy báng, mỗi mỗi chữ, mỗi mỗi câu, phải được học hỏi kỹ lưỡng và đem so sánh với Kinh, đem đối chiếu với Luật. Khi đem so sánh với Kinh, đối chiếu với Luật, và nếu không phù hợp với Kinh, không tương ứng với Luật, và nếu chúng phù hợp với Kinh, tương ứng với Luật, thời các Ngươi có thể kết luận: "Chắc chắn những lời này không phải là lời Thế Tôn và Tỷ-kheo ấy đã thọ giáo sai lầm". Và, này các Tỷ-kheo, các Ngươi hãy từ bỏ chúng. Khi đem so sánh với Kinh, đem đối chiếu với Luật, thời các Ngươi có thể kết luận: "Chắc chắn những lời ấy phải là lời dạy của Thế Tôn và Tỷ-kheo ấy đã thọ giáo chơn chánh". Này các Tỷ-kheo, như vậy là Đại giáo pháp thứ ba, các Ngươi hãy thọ trì.

"In such a case, bhikkhus, the declaration of such a bhikkhu is neither to be received with approval nor with scorn. Without approval and without scorn, but carefully studying the sentences word by word, one should trace them in the Discourses and verify them by the Discipline. If they are neither traceable in the Discourses nor verifiable by the Discipline, one must conclude thus: 'Certainly, this is not the Blessed One's utterance; this has been misunderstood by that bhikkhu — or by that community, or by those elders, or by that elder.' In that way, bhikkhus, you should reject it. But if the sentences concerned are traceable in the Discourses and verifiable by the Discipline, then one must conclude thus: 'Certainly, this is the Blessed One's utterance; this has been well understood by that bhikkhu — or by that community, or by those elders, or by that elder.' And in that way, bhikkhus, you may accept it on the first, second, third, or fourth reference. These, bhikkhus, are the four great references for you to preserve."

Này các Tỷ-kheo, có thể có Tỷ-kheo nói: "Tại trú xứ kia, có một vị Thượng tọa, vị này là bậc đa văn, gìn giữ truyền thống, trì pháp, trì luật, trì pháp yếu. Tôi tự thân nghe từ Thượng tọa, tự thân lãnh thọ; như vậy là Pháp, như vậy là Luật, như vậy là lời dạy của vị Đạo Sư". Này các Tỷ-kheo, các Ngươi không nên tán thán, không nên hủy báng lời nói của Tỷ-kheo ấy. Không tán thán, không hủy báng, mỗi mỗi chữ, mỗi mỗi câu, cần phải được học hỏi kỹ lưỡng và đem so sánh với Kinh, đối chiếu với Luật. Khi đem so sánh với Kinh, đối chiếu với Luật, và nếu chúng không phù hợp với Kinh, không tương ứng với Luật, thời các ngươi có thể kết luận: "Chắc chắn những lời này không phải là lời của Thế Tôn, và Tỷ-kheo ấy đã thọ giáo sai lầm". Và này các Tỷ-kheo, các Ngươi hãy từ bỏ chúng. Khi đem so sánh với Kinh, đem đối chiếu với Luật, và nếu chúng phù hợp với Kinh, tương ứng với Luật, thời các ngươi có thể kết luận: "Chắc chắn những lời ấy phải là lời dạy của Thế Tôn và Tỷ-kheo ấy đã thọ giáo chơn chánh". Này các Tỷ-kheo, như vậy là Đại giáo pháp thứ tư, các Ngươi hãy thọ trì. Này các Tỷ-kheo, bốn đại giáo pháp này, các Ngươi hãy thọ trì.

12. And also at Bhoganagara, at the Ananda shrine, the Blessed One often gave counsel to the bhikkhus thus: "Such and such is virtue; such and such is concentration; and such and such is wisdom. Great becomes the fruit, great is the gain of concentration when it is fully developed by virtuous conduct; great becomes the fruit, great is the gain of wisdom when it is fully developed by concentration; utterly freed from the taints of lust, becoming, and ignorance is the mind that is fully developed in wisdom."

12. Trong khi Thế Tôn ở tại Bhoganagara, pháp thoại này được giảng cho chúng Tỷ-kheo: - Đây là Giới, đây là Định, đây là Tuệ, Định cùng tu với Giới sẽ đưa đến quả vị lớn, lợi ích lớn. Tuệ cùng tu với Định sẽ đưa đến quả vị lớn, lợi ích lớn. Tâm cùng tu với Tuệ sẽ đưa đến giải thoát hoàn toàn các món lậu hoặc, tức là dục lậu, hữu lậu (tri kiến lậu), vô minh lậu.

13. When the Blessed One had stayed at Bhoganagara as long as he pleased, he spoke to the Venerable Ananda, saying: "Come, Ananda, let us go to Pava."

13. Rồi Thế Tôn, sau khi ở tại Bhoganagara cho đến khi Ngài xem là vừa đủ, liền bảo tôn giả Ananda: - Này Ananda, chúng ta sẽ đi đến Pàvà.

"So be it, Lord." And the Blessed One took up his abode at Pava together with a great community of bhikkhus, and stayed in the Mango Grove of Cunda, who was by family a metalworker.

- Xin vâng, bạch Thế Tôn! Tôn giả Ananda vâng lời Thế Tôn. Và Thế Tôn cùng với đại chúng Tỷ-kheo đi đến Pàvà, tại vườn xoài của Cunda, một người thợ sắt.

The Buddha's Last Meal

The Buddha's Last Meal

14. And Cunda the metalworker came to know: "The Blessed One, they say, has arrived at Pava, and is staying in my Mango Grove." And he went to the Blessed One, and having respectfully greeted him, sat down at one side. And the Blessed One instructed Cunda the metalworker in the Dhamma, and roused, edified, and gladdened him.

14. Thợ sắt Cunda nghe: "Nay Thế Tôn đã đến Pàvà và hiện đang ở trong vườn xoài của ta". Rồi thợ sắt Cunda đến tại chỗ Thế Tôn, khi đến xong liền đảnh lễ Ngài và ngồi xuống một bên. Và Thế Tôn thuyết pháp cho thợ sắt Cunda đang ngồi một bên, khích lệ, làm cho phấn khởi, khiến tâm hoan hỷ.

15. Then Cunda spoke to the Blessed One, saying: "May the Blessed One, O Lord, please accept my invitation for tomorrow's meal, together with the community of bhikkhus." And by his silence the Blessed One consented.

15. Và thợ sắt Cunda, sau khi được Thế Tôn thuyết pháp, khích lệ, làm cho phấn khởi, khiến tâm hoa hỷ, liền bạch Thế Tôn: "Bạch Thế Tôn, mong Thế Tôn nhận lời mời của con ngày mai đến dùng cơm với chúng Tỷ-kheo". Thế Tôn im lặng nhận lời.

16. Sure, then, of the Blessed One's consent, Cunda the metalworker rose from his seat, respectfully saluted the Blessed One, and keeping his right side towards him, took his departure.

16.. Thợ sắt Cunda, sau khi biết Thế Tôn đã nhận lời, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Ngài, thân phía hữu hướng về Ngài và từ biệt.

17. And Cunda the metalworker, after the night had passed, had choice food, hard and soft, prepared in his abode, together with a quantity of sukara-maddava, 38 and announced it to the Blessed One, saying: "It is time, O Lord, the meal is ready."

17. Và thợ sắt Cunda, sau khi đêm đã mãn, liền cho sửa soạn tại nhà các món ăn thượng thị, loại cứng và loại mềm và nhiều thứ Sùkara-maddave (một loại mộc nhĩ),38 và báo tin cho Thế Tôn: "Bạch Thế Tôn, giờ đã đến, cơm đã sẵn sàng".

18. Thereupon the Blessed One, in the forenoon, having got ready, took bowl and robe and went with the community of bhikkhus to the house of Cunda, and there sat down on the seat prepared for him. And he spoke to Cunda, saying: "With the sukara-maddava you have prepared, Cunda, you may serve me; with the other food, hard and soft, you may serve the community of bhikkhus."

18.. Và Thế Tôn buổi sáng đắp y, mang theo y bát, cùng với chúng Tỷ-kheo đến nhà thợ sắt Cunda, khi đến xong liền ngồi trên chỗ đã soạn sẵn. Sau khi ngồi. Thế Tôn nói với thợ sắt Cunda: - Này Cunda, loại mộc nhĩ đã soạn sẵn, hãy dọn cho ta. Còn các món ăn khác đã soạn sẵn, loại cứng và loại mềm, hãy dọn cho chúng Tỷ-kheo.

"So be it, Lord." And with the sukara-maddava prepared by him, he served the Blessed One; and with the other food, hard and soft, he served the community of bhikkhus.

- Xin vâng, bạch Thế Tôn! Thợ sắt Cunda vâng lời Thế Tôn, dọn cho Thế Tôn các món mộc nhĩ đã soạn sẵn, và dọn cho chúng Tỷ-kheo các món ăn khác, loại cứng và loại mềm.

19. Thereafter the Blessed One spoke to Cunda, saying: "Whatever, Cunda, is left over of the sukara-maddava, bury that in a pit. For I do not see in all this world, with its gods, Maras, and Brahmas, among the host of ascetics and brahmans, gods and men, anyone who could eat it and entirely digest it except the Tathagata alone."

19. Rồi Thế Tôn nói với thợ sắt Cunda: - Này Cunda, món ăn mộc nhĩ còn lại. Ngươi hãy đem chôn vào một lỗ. Này Cunda, Ta không thấy một ai ở cõi Trời, cõi Người, ở Ma giới, ở Phạm thiên giới, không một người nào trong chúng Sa-môn và chúng Bà-la-môn, giữa những Thiên, Nhân, ăn món mộc nhĩ này mà có thể tiêu hóa được, trừ Như Lai.

And Cunda the metalworker answered the Blessed One saying: "So be it, O Lord."And what remained over of the sukara-maddava he buried in a pit.

- Xin vâng, bạch Thế Tôn! Thợ sắt Cunda vâng theo Thế Tôn, đem chôn món ăn mộc nhĩ còn lại vào một lỗ.

20. Then he returned to the Blessed One, respectfully greeted him, and sat down at one side. And the Blessed One instructed Cunda the metalworker in the Dhamma, and roused, edified, and gladdened him. After this he rose from his seat and departed.

20. Thợ sắt Cunda đi đến chỗ Thế Tôn, đảnh lễ Ngài và ngồi xuống một bên. Rồi Thế Tôn thuyết pháp cho thợ sắt Cunda đang ngồi xuống một bên, khích lệ, làm cho phấn khởi, khiến tâm hoan hỷ rồi từ chỗ ngồi đứng dậy và ra đi.

21. And soon after the Blessed One had eaten the meal provided by Cunda the metalworker, a dire sickness fell upon him, even dysentery, and he suffered sharp and deadly pains. But the Blessed One endured them mindfully, clearly comprehending and unperturbed.

21. Sau khi dùng cơm của thợ sắt Cunda, Thế Tôn bị nhiễm bệnh nặng, bệnh lỵ huyết, đau đớn gần như đến chết, và Thế Tôn chánh niệm tĩnh giác, nhẫn nại, chịu đựng cơn bệnh.

22. Then the Blessed One spoke to the Venerable Ananda, saying: "Come, Ananda, let us go to Kusinara." And the Venerable Ananda answered: "So be it, Lord."

22. Rồi Thế Tôn nói với tôn giả Ananda: - Này Ananda, chúng ta hãy đi đến Kusinàra. - Xin vâng, bạch Thế Tôn! Tôn giả Ananda vâng lời Thế Tôn.

23. When he had eaten Cunda's food, I heard,
With fortitude the deadly pains he bore.
From the sukara-maddava a sore
And dreadful sickness came upon the Lord.
But nature's pangs he endured. "Come, let us go
To Kusinara," was his dauntless word. 39

23. Tôi nghe: Sau khi dùng cơm tại nhà thợ sắt Cunda.
Cơn bệnh khốc liệt bỗng khởi lên, gần như chết đến nơi.
Sau khi cùng món ăn loại mộc nhĩ.
Kịch bệnh khởi lên nơi bậc Đạo Sư.
Điều phục bệnh hoạn, Thế Tôn dạy rằng:
"Ta đi đến thành Kusinàra".39 >

The Clearing of the Waters

The Clearing of the Waters

24. Now on the way the Blessed One went aside from the highway and stopped at the foot of a tree. And he said to the Venerable Ananda: "Please fold my upper robe in four, Ananda, and lay it down. I am weary and want to rest awhile."

24.. Rồi Thế Tôn bước xuống đường, đến một gốc cây và nói với Tôn giả Ananda: - Này Ananda, hãy xếp tư áo Sanghàti. Ta cảm thấy mệt mỏi và muốn ngồi nghỉ, này Ananda

"So be it, Lord." And the Venerable Ananda folded the robe in four and laid it down.

- Xin vâng, bạch Thế Tôn! Tôn giả Ananda vâng lời Thế Tôn và xếp tư áo Sanghàti lại.

25. And the Blessed One sat down on the seat prepared for him and said to the Venerable Ananda: "Please bring me some water, Ananda. I am thirsty and want to drink."

25.. Thế Tôn ngồi trên chỗ đã soạn sẵn, và nói với Tôn giả Ananda: - Này Ananda, hãy đem nước cho Ta. Này Ananda, Ta nay đang khát và muốn uống nước.

26. And the Venerable Ananda answered the Blessed One: "But just now, Lord, a great number of carts, five hundred carts, have passed over, and the shallow water has been cut through by the wheels, so that it flows turbid and muddy. But the Kakuttha River, Lord, is quite close by, and its waters are clear, pleasant, cool, and translucent. It is easily approachable and delightfully placed. There the Blessed One can quench his thirst and refresh his limbs."

26. Khi được nói vậy, tôn giả Ananda bạch Thế Tôn: - Bạch Thế Tôn, vừa mới có khoảng năm trăm cỗ xe chạy qua. Do bánh xe khuấy lên, nước trở thành nông cạn, khuấy động và vẩn đục. Bạch Thế Tôn, sông Kakutthà không xa ở đây, nước thuần tịnh, dễ chịu, mát mẻ, trong sáng, dễ đến và khả ái. Tại đó, Thế Tôn có thể uống nước và làm dịu mát chân tay.

27-29. But a second time the Blessed One made his request, and the Venerable Ananda answered him as before. And then for a third time the Blessed One said: "Please bring me some water, Ananda. I am thirsty and want to drink."

27-29.. Lần thứ hai, Thế Tôn nói với tôn giả Ananda: - Này Ananda, hãy đem nước uống cho Ta. Này Ananda, Ta nay đang khát và muốn uống nước. Lần thứ hai tôn giả Ananda bạch Thế Tôn: - Bạch Thế Tôn, vừa mới có khoảng năm trăm cỗ xe chạy qua. Do bánh xe khuấy lên, nước trở thành nông cạn, khuấy động và vẩn đục. Bạch Thế Tôn, sông Kakutthà không xa ở đây, nước thuần tịnh, dễ chịu, mát mẻ, trong sáng, dễ đến và khả ái. Tại đó, Thế Tôn có thể uống nước và làm dịu mát chân tay. Lần thứ ba, Thế Tôn nói với tôn giả Ananda: - Này Ananda, hãy đem nước uống cho Ta. Này Ananda, Ta nay đang khát và muốn uống nước.

30. Then the Venerable Ananda answered, saying: "So be it, Lord." And he took the bowl and went to the stream. And the shallow water, which had been cut through by the wheels so that it flowed turbid and muddy, became clear and settled down, pure and pleasant as the Venerable Ananda drew near.

30.. Xin vâng, bạch Thế Tôn! Tôn giả Ananda vâng lời Thế Tôn, lấy bát và đi đến con sông nhỏ. Con sông đang chảy nông cạn, khuấy động và vẩn đục, khi tôn giả Ananda đến, liền trở thành trong trẻo, sáng lặng, không vẩn đục.

31. Then the Venerable Ananda thought: "Marvellous and most wonderful indeed is the power and glory of the Tathagata!"

31. Tôn giả Ananda tự nghĩ: "Thật kỳ diệu thay, thật hy hữu thay thần túc và uy lực của Như Lai. Con sông nhỏ đang chảy nông cạn, khuấy động và vẩn đục này, khi ta đến, liền trở thành trong trẻo, sáng lặng và không vẩn đục".

32. And he took up water in the bowl and carried it to the Blessed One, and said: "Marvellous and most wonderful indeed is the power and glory of the Tathagata! For this shallow water, which had been cut through by the wheels so that it flowed turbid and muddy, became clear and settled down, pure and pleasant as I drew near. Now let the Blessed One drink the water. Let the Happy One drink." And the Blessed One drank the water.

32. Sau khi dùng bát lấy nước, tôn giả Ananda đến chỗ Thế Tôn và bạch với Ngài: - Bạch Thế Tôn, thật là kỳ diệu! Bạch Thế Tôn thật là hy hữu. Bạch Thế Tôn, con sông nhỏ đang chảy nông cạn, khuấy động và vẩn đục này, khi con đến, liền trở thành trong trẻo, sáng lặng và không vẩn đục. Xin thỉnh Thế Tôn dùng nước. Xin thỉnh Thiện Thệ dùng nước! Và Thế Tôn uống nước.

Pukkusa the Malla

Pukkusa the Malla

33. Now it so happened that one Pukkusa of the Malla clan, who was a disciple of Alara Kalama, was passing by on his way from Kusinara to Pava.40

33.. Lúc bấy giờ, Pukkusa, dòng họ Mallà, đệ tử của ngài Alàra Kàlàma đang đi trên con đường từ Kusinàra đến Pàvà.40

34. And when he saw the Blessed One seated at the foot of a tree, he approached him, respectfully greeted him, and sat down at one side. And he spoke to the Blessed One, saying: "Marvellous it is, Lord, most wonderful it is, O Lord, the state of calmness wherein abide those who have gone forth from the world.

34. Pukkusa, dòng họ Mallà thấy Thế Tôn ngồi dưới gốc cây, liền đến chỗ Thế Tôn, đảnh lễ Ngài và ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, Pukkusa, dòng họ Mallà, bạch Thế Tôn: - Bạch Thế Tôn, thật là kỳ diệu, bạch Thế Tôn thật là hy hữu, trạng thái trầm tĩnh của một vị xuất gia!

35. "For at one time, Lord, Alara Kalama was on a journey, and he went aside from the highway and sat down by the wayside at the foot of a tree to pass the heat of the day. And it came about, Lord, that a great number of carts, even five hundred carts, passed by him, one by one. And then, Lord, a certain man who was following behind that train of carts, approached and spoke to him, saying: 'Did you, sir, see a great number of carts that passed you by?' And Alara Kalama answered him: 'I did not see them, brother.' 'But the noise, sir, surely you heard?' 'I did not hear it, brother.' Then that man asked him: 'Then, sir, perhaps you slept?' 'No, brother, I was not sleeping.' 'Then, sir, were you conscious?' 'I was, brother.' Then that man said: 'Then, sir, while conscious and awake you still did not see the great number of carts, even five hundred carts, that passed you by one after another, nor heard the noise? Why, sir, your very robe is covered with their dust!' And Alara Kalama replied, saying: 'So it is, brother.'

35.. Bạch Thế Tôn, thuở xưa, ngài Alàra Kàlàma đang đi trên đường. Rồi ngài bước xuống đường và ngồi xuống một gốc cây, không xa con đường để nghỉ trưa. Bạch Thế Tôn, lúc ấy có khoảng năm trăm cỗ xe đi ngang qua gần ngài Alàra Kàlàma. Bạch Thế Tôn, có một người đi theo sau lưng đoàn xe ấy, đễn chỗ ngài Alàra Kàlàma và nói với ngài: "Tôn giả có thấy khoảng năm trăm cỗ xe vừa đi qua không?" - "Này Hiền giả, ta không thấy". - "Tôn giả có nghe tiếng không?" - "Này Hiền giả, ta không nghe tiếng". - "Có phải Tôn giả đang ngủ không?" - "Này Hiền giả, không phải ta đang ngủ". - "Vậy có phải Tôn giả đang thức tỉnh?" - "Này Hiển giả, ta đang thức tỉnh". - "Tôn giả đang thức tỉnh nhưng không thấy khoảng năm trăm cỗ xe vừa đi ngang qua gần một bên, cũng không nghe thấy tiếng. Bạch Tôn giả, cái áo của Tôn giả cũng bị lấm bụi". - "Này Hiền giả, phải, áo ta bị lấm bụi".

36. "And to that man, O Lord, came the thought: 'Marvellous it is, most wonderful indeed it is, the state of calmness wherein abide those who have gone forth from the world!' And there arose in him great faith in Alara Kalama, and he went his way."

36. Bạch Thế Tôn, người ấy liền tự nghĩ: "Thật là kỳ diệu, thật là hy hữu sự trầm tĩnh của vị xuất gia. Trong khi giác tỉnh, còn thức nhưng không thấy năm trăm cỗ xe vừa đi ngang qua gần một bên, cũng không nghe tiếng". Sau khi tỏ sự thâm tín đối với ngài Alàra Kàlàma, vị ấy từ biệt.

37. "Now what do you think, Pukkusa? What is more difficult to do, more difficult to meet with — that a man, while conscious and awake, should not see a great number of carts, even five hundred carts, that passed him by one after another, nor hear the noise, or that one conscious and awake, in the midst of a heavy rain, with thunder rolling, lightning flashing, and thunderbolts crashing, should neither see it nor hear the noise?"

37. - Này Pukkusa, nhà ngươi nghĩ thế nào? Cái gì khó làm hơn, cái gì khó thực hiện hơn? Một người trong khi giác tỉnh, còn thức mà không thấy năm trăm cỗ xe vừa đi ngang qua gần một bên, cũng không nghe tiếng. Hay một người đang giác tỉnh, còn thức, trong khi trời đang mưa, mưa tầm tả ào ào, trong khi điện quang chớp lòa, sấm sét vang động, mà không thấy, cũng không nghe tiếng?

38. "What, O Lord, are five hundred carts — nay, six, seven, eight, nine hundred, or a thousand or even hundreds of thousands of carts — compared with this?"

38. - Bạch Thế Tôn, nói gì đến năm trăm cỗ xe này, cho đến hoặc sáu trăm, hoặc bảy trăm, hoặc tám trăm, hoặc chín trăm, hoặc một ngàn, cho đến trăm ngàn cỗ xe, cũng không thể so sánh được. Thật khó làm hơn, khó thực hiện hơn, một người đang giác tỉnh, còn thức, trong khi trời đang mưa, mưa tầm tả ào ào, trong khi điện quang chớp lòa, sấm sét vang động, mà không thấy cũng không nghe tiếng.

39. "Now one time, Pukkusa, I was staying at Atuma, and had my abode in a barn there. And at that time there was a heavy rain, with thunder rolling, lightning flashing, and thunderbolts crashing. And two farmers who were brothers were killed close to the barn, together with four oxen, and a great crowd came forth from Atuma to the spot where they were killed.

39. - Này Pukkusa, một thời, Ta ở Atumà, tại nhà đập lúa. Lúc bấy giờ trời mưa, mưa tầm tả ào ào, điện quang chớp lòa, sấm sét vang động, có hai anh em nông phu, và bốn con bò đực bị sét đánh chết. Này Pukkusa, một số đông người từ Atumà đi ra đến tại chỗ hai anh em nông phu và bốn con bò đực bị sét đánh chết.

40. "Now at that time, Pukkusa, I had come out of the barn and was walking up and down in thought before the door. And a certain man from the great crowd approached me, respectfully greeted me, and stood at one side.

40. Này Pukkusa, lúc bấy giờ Ta từ nhà đập lúa đi ra và đi qua đi lại ngoài trời, trước cửa nhà đập lúa, Này Pukkusa, có một người từ nơi đám đông ấy đi ra, đến chờ Ta, đảnh lễ và đứng một bên.

41. "And I asked him: 'Why, brother, has this great crowd gathered together?' And he answered me: 'Just now, Lord, there was a heavy rain, with thunder rolling, lightning flashing, and thunderbolts crashing. And two farmers who were brothers were killed close by, together with four oxen. It is because of this that the great crowd has gathered. But where, Lord, were you?'

41.. Và Ta nói với người ấy đang đứng một bên: "Này Hiền giả, vì sao có số đông người tụ họp như vậy?" - Bạch Thế Tôn vừa rồi trời đang mưa, mưa tầm tả ào ào, điện quang chớp lòa, sấm sét vang động, có hai anh em nông phu, và bốn con bò đực bị sét đánh chết. Do vậy mà có số đông người ấy tụ họp tại đây. Bạch Thế Tôn, lúc ấy Ngài ở tại chỗ nào?"

"'I was here, brother.' 'Yet, Lord, did you not see it?' 'I did not see it, brother.' 'But the noise, Lord, you surely heard?' 'I did not hear it, brother.' Then that man asked me: 'Then, Lord, perhaps you slept?' 'No, brother, I was not sleeping.' 'Then, Lord, you were conscious?' 'I was, brother.' Then that man said: 'Then, Lord, while conscious and awake, in the midst of a heavy rain, with thunder rolling, lightning flashing, and thunderbolts crashing, you neither saw it nor heard the noise?' And I answered him, saying: 'I did not, brother.'

- "Này Hiền giả, lúc ấy Ta ở tại đây". "Bạch Thế Tôn, Ngài không thấy gì cả sao?" - "Này Hiền giả, Ta không thấy gì". - "Bạch Thế Tôn, Ngài không nghe tiếng gì cả sao?" - "Này Hiền giả, Ta không nghe tiếng gì?" - "Bạch Thế Tôn, có phải Ngài đang ngủ, phải không?" - "Này Hiền giả, không phải ta đang ngủ". - "Bạch Thế Tôn, có phải Ngài đang tỉnh thức phải không?" - "Này Hiền giả, phải". - "Bạch Thế Tôn, Ngài đang tỉnh thức, nhưng trong khi trời mưa, mưa tầm tả ào ào, điện quang chớp lòa, sấm sét vang động, có hai anh em nông phu và bốn con bò đực bị sét đánh chết, nhưng Ngài không thấy, cũng không nghe gì". - Này Hiền giả, phải như vậy".

42. "And to that man, Pukkusa, came the thought: 'Marvellous it is, most wonderful indeed it is, the state of calmness wherein abide those who have gone forth from the world!' And there arose in him great faith in me, and he respectfully saluted me, and keeping his right side towards me, he went his way."

42. Này Pukkusa, người ấy liền tự nghĩ: "Thật là kỳ diệu, thật là hy hữu sự trầm lặng của vị xuất gia, khi thức tỉnh, dầu có mưa tầm tả ào ào, điện quang chói lòa, sấm sét vang động, có hai anh em nông phu và bốn con bò đực bị sét đánh chết mà không thấy gì, không nghe gì hết". Sau khi nói lên lòng tin tưởng ở nơi Ta, người ấy đảnh lễ Ta, thân phía hữu hướng về phía Ta và từ biệt.

43. When this had been said, Pukkusa of the Malla clan said to the Blessed One: "The faith, Lord, that I had in Alara Kalama I now scatter to the mighty wind, I let it be carried away as by a flowing stream! Excellent, O Lord, most excellent, O Lord! It is as if, Lord, one were to set upright what had been overthrown, or to reveal what had been hidden, or to show the path to one who had gone astray, or to light a lamp in the darkness so that those having eyes might see — even so has the Blessed One set forth the Dhamma in many ways. And so, O Lord, I take my refuge in the Blessed One, the Dhamma, and the Community of Bhikkhus. May the Blessed One accept me as his disciple, one who has taken refuge until the end of life."

43. Khi được nói vậy, Pukkusa, dòng họ Mallà bạch Thế Tôn: - Bạch Thế Tôn, sự tin tưởng của con đối với ngài Alàra, Kàlàma, nay con đem rải rắc trước luồng gió lớn, nay con đem thả trôi vào dòng nước cuốn. Kỳ diệu thay, bạch Thế Tôn! Hy hữu thay bạch Thế Tôn! Bạch Thế Tôn, như người dựng đứng lại những gì bị quăng xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho người bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy, Chánh pháp đã được Thế Tôn dùng nhiều phương tiện trình bày. Bạch Thế Tôn, con xin quy y Thế Tôn, quy y Pháp và Tỷ-kheo Tăng. Mong Thế Tôn nhận con làm đệ tử, từ nay trở đi cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng.

44. Then Pukkusa of the Malla clan spoke to a certain man, saying: "Bring me at once, friend, two sets of golden-hued robes, burnished and ready for wear." And the man answered him: "So be it, sir."

44. Rồi Pukkusa, dòng họ Mallà nói với một người khác: "Này bạn, hãy đem đến một cặp áo màu kim sắc, vàng chói và sẵn sàng để mặc". - "Tôn giả, xin vâng". Người ấy vâng lời Pukkusa, dòng họ Mallà và đem đến một cặp áo màu kim sắc, vàng chói và sẵn sàng để mặc.

45. And when the robes were brought, Pukkusa of the Malla clan offered them to the Blessed One, saying: "May the Blessed One, O Lord, out of compassion, accept this from me." And the Blessed One said: "Robe me, then in one, Pukkusa, and in the other robe Ananda."

45. Rồi Pukkusa, dòng họ Mallà đem dâng một cặp áo màu kim sắc, vàng chói và sẵn sàng để mặc ấy cho Thế Tôn và nói: - Bạch Thế Tôn, cặp áo màu kim sắc, vàng chói và sẵn sàng để mặc. Mong Thế Tôn vì thương xót con mà thâu nhận cho. - Này Pukkusa, hãy đắp cho Ta một áo và đắp cho Ananda một áo. >

"So be it, Lord." And he thereupon robed the Blessed One in one, and in the other he robed the Venerable Ananda.

- Xin vâng, bạch Thế Tôn! Pukkusa, dòng họ Mallà vân lời Thế Tôn, đắp một áo cho Ngài và đắp một áo cho tôn giả Ananda.

46. And then the Blessed One instructed Pukkusa of the Malla clan in the Dhamma, and roused, edified, and gladdened him. And after that, Pukkusa rose from his seat, respectfully saluted the Blessed One, and keeping his right side towards him, went his way.

46.. Rồi Thế Tôn thuyết pháp cho Pukkusa, người dòng họ Mallà, khích lệ, làm cho phấn khởi, khiến tâm hoan hỷ. Và Pukkusa, người dòng họ Mallà, sau khi được Thế Tôn thuyết pháp, khích lệ, làm cho phấn khởi, khiến tâm hoan hỷ, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn, thân phía hữu hướng về Thế Tôn và từ biệt.

47. And soon after Pukkusa of the Malla clan had departed, the Venerable Ananda arranged the set of golden-hued robes, burnished and ready for wear, about the body of the Blessed One. But when the set of robes was arranged upon the body of the Blessed One, it became as though faded, and its splendor dimmed.

47. Khi Pukkusa, dòng họ Mallà đi chưa được bao lâu, tôn giả Ananda đem cặp áo màu kim sắc, vàng chói và sẵn sàng để mặc này đặt trên thân Thế Tôn, và khi cặp áo này được đặt trên thân Thế Tôn, màu sắc sáng chói của áo như bị lu mờ đi.

48. And the Venerable Ananda said to the Blessed One: "Marvellous it is, O Lord, most wonderful indeed it is, how clear and radiant the skin of the Tathagata appears! This set of golden-hued robes, burnished and ready for wear, Lord, now that it is arranged upon the body of the Blessed One seems to have become faded, its splendor dimmed."

48. Và Tôn giả Ananda bạch Thế Tôn: - Bạch Thế Tôn, thật là kỳ diệu, bạch Thế Tôn thật là hy hữu, sự thanh tịnh và sáng chói màu da của Như Lai! Bạch Thế Tôn, khi con đặt trên thân Thế Tôn, cặp áo màu kim sắc vàng chói và sẵn sàng để mặc này, màu sắc sáng chói của áo như bị lu mờ đi.

49. "It is so, Ananda. There are two occasions, Ananda, when the skin of the Tathagata appears exceedingly clear and radiant. Which are these two? The night, Ananda, when the Tathagata becomes fully enlightened in unsurpassed, supreme Enlightenment, and the night when the Tathagata comes to his final passing away into the state of Nibbana in which no element of clinging remains. These, Ananda, are the two occasions on which the skin of the Tathagata appears exceedingly clear and radiant.

49. - Thật vậy, này Ananda. Này Ananda, có hai trường hợp, màu da của Như Lai hết sức thanh tịnh và sáng chói. Thế nào là hai? Này Ananda, trong đêm Như Lai chứng vô thượng Chánh Đẳng Giác và trong đêm Như Lai sắp diệt độ, nhập Niết-bàn giới, không còn dư y sanh tử nữa. Này Ananda, đó là hai trường hợp, màu da của Như Lai hết sức thanh tịnh và sáng chói.

50. "And now today, in the last watch of this very night, Ananda, in the Mallas' Sala Grove, in the vicinity of Kusinara, between two sala trees, the Tathagata will come to his Parinibbana. So now, Ananda, let us go to the Kakuttha River."

50. Này Ananda, hôm nay khi canh cuối cùng đã mãn, tại Upavattana ở Kusinàrà, trong rừng Sàla của dòng họ Mallà, giữa hai cây sàla song thọ, Như Lai sẽ diệt độ. Này Ananda, chúng ta hãy đi đến sông Kakutthà.

51. Clad in Pukkusa's gift, the robes of gold,
The Master's form was radiant to behold.

51.Cặp áo kim sắc này.
Pukkusa mang đến.
Đắp áo kim sắc này,
Da Đạo Sư sáng chói.

At the Kakuttha River

At the Kakuttha River

52. Then the Blessed One went to the Kakuttha River together with a great community of bhikkhus.

52.. Rồi Thế Tôn cùng với đại chúng Tỷ-kheo đi đến con sông Kakutthà.

53. And he went down into the water and bathed and drank. And coming forth from the water again, he went to the Mango Grove, and there spoke to the Venerable Cundaka, saying: "Please fold my upper robe in four, Cundaka, and lay it down. I am weary and would rest awhile."

53. Thế Tôn xuống sông tắm và uống nước rồi lội qua bờ bên kia, đi đến rừng xoài và tại đây, nói với đại đức Cundaka: - Này Cundaka, hãy xếp áo Sanghàti làm bốn cho Ta. Này Cundaka, Ta nay mệt mỏi, muốn nằm nghỉ.

"So be it, Lord." And Cundaka folded the robe in four and laid it down.

- Xin vâng, bạch Thế Tôn! Đại đức Cundaka vâng lời Thế Tôn và xếp áo Sanghàti làm bốn.

54. And the Blessed One lay down on his right side, in the lion's posture, resting one foot upon the other, and so disposed himself, mindfully and clearly comprehending, with the time for rising held in mind. And the Venerable Cundaka sat down right in front of the Blessed One.

54. Rồi Thế Tôn nằm xuống phía hông bên mặt như dáng điệu con sư tử, hai chân để trên nhau, chánh niệm, tỉnh giác, suy tư, với ý niệm ngồi dậy lại khi phải thời. Và đại đức Cundaka ngồi phía trước Thế Tôn.

55. The Buddha to Kakuttha's river came,
Where cool and limpid flows the pleasant stream;
There washed in water clear his weary frame
The Buddha — he in all the world supreme!
And having bathed and drank, the Teacher straight
Crossed over, the bhikkhus thronging in his wake. Discoursing holy truths, the Master great
Towards the Mango Grove his path did take.
There to the elder Cundaka he spoke:
"Lay down my robe, please, folded into four."
Then the elder, swift as lightning stroke,
Hastened the Teacher's bidding to obey.
Weary, the Lord then lay down on the mat,
And Cunda on the ground before him sat.

55. Đức Phật tự đi đến
Con sông Kakutthà.
Con sông chảy trong sáng.
Mát lạnh và thanh tịnh.
Vị Đạo Sư mỏi mệt
Đi dần xuống mé sông.
Như Lai đấng Vô Thương
Ngự trị ở trên đời
Tắm xong, uống nước xong,
Lội qua bên kia sông.
Bậc Đạo Sư đi trước,
Giữa Tăng chúng Tỷ-kheo,
Vừa đi vừa diễn giảng.
Chánh pháp thật vi diệu.
Rồi bậc Đại Sĩ đến,
Tại khu vực rừng xoài.
Cho gọi vị Tỷ-kheo,
Tên họ Cundaka:
"Hãy gấp tư áo lại,
Trải áo cho ta nằm.
Nghe dạy, Cundaka
Lập tức vâng lời dạy,
Gấp tư và trải áo,
Một cách thật mau lẹ.
Bậc Đạo Sư nằm xuống
Thân mình thật mệt mỏi.
Tại đây Cundaka,
Ngồi ngay phía trước mặt.

Relieving Cunda's Remorse

Relieving Cunda's Remorse

56. Then the Blessed One spoke to the Venerable Ananda, saying: "It may come to pass, Ananda, that someone will cause remorse to Cunda the metalworker, saying: 'It is no gain to you, friend Cunda, but a loss, that it was from you the Tathagata took his last alms meal, and then came to his end.' Then, Ananda, the remorse of Cunda should be dispelled after this manner: 'It is a gain to you, friend Cunda, a blessing that the Tathagata took his last alms meal from you, and then came to his end. For, friend, face to face with the Blessed One I have heard and learned: "There are two offerings of food which are of equal fruition, of equal outcome, exceeding in grandeur the fruition and result of any other offerings of food. Which two? The one partaken of by the Tathagata before becoming fully enlightened in unsurpassed, supreme Enlightenment; and the one partaken of by the Tathagata before passing into the state of Nibbana in which no element of clinging remains. By his deed the worthy Cunda has accumulated merit which makes for long life, beauty, well being, glory, heavenly rebirth, and sovereignty."' Thus, Ananda, the remorse of Cunda the metalworker should be dispelled."

56. Rồi Thế Tôn nói với Tôn giả Ananda: - Này Ananda, rất có thể có người làm cho thợ sắt Cunda hối hận: "Này Hiền giả Cunda, thật không lợi ích gì cho Ngươi, thật là tai hại cho Ngươi, vì Như Lai dùng bữa ăn cuối cùng từ Ngươi cúng dường, và nhập diệt". Này Ananda, cần phải làm tiêu tan sự hối hận ấy của thợ sắt Cunda: "Này Hiền giả, thật là công đức cho bạn, vì được Như Lai dùng bữa ăn cuối cùng từ bạn cúng dường, và nhập diệt. Này Hiền giả Cunda, tôi tự thân nghe, tự thân lãnh thọ lời nói này của Thế Tôn: "Có hai sự cúng dường ăn uống đồng một quả báo, đồng một dị thục quả, quả báo lớn hơn, lợi ích hơn các sự cúng dường ăn uống khác? Thế nào là hai? Một là bữa ăn trước khi Như Lai chứng vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, hai là bữa ăn trước khi Như Lai diệt độ Niết-bàn giới, không còn di hưởng sanh tử. Hai bữa ăn này đồng một quả báo, đồng một dị thực quả, quả báo lớn hơn, lợi ích hơn các sự cúng dường ăn uống khác. Nhờ hành động này, đại đức Cunda sẽ được hưởng tuổi thọ; nhờ hành động này, đại đức Cunda sẽ được hưởng sắc đẹp; nhờ hành động này, đại đức Cunda sẽ được hưởng an lạc; nhờ hành động này, đại đức Cunda sẽ được hưởng danh tiếng; nhờ hành động này, đại đức Cunda sẽ đợưc hưởng cõi trời, nhờ hành động này, đại đức Cunda sẽ được hưởng uy quyền". Này Ananda, cần phải làm cho thợ sắt Cunda tiêu tan hối hận.

57. Then the Blessed One, understanding that matter, breathed forth the solemn utterance:

57. Rồi Thế Tôn, sau khi hiểu ý nghĩa này, liền thốt lời cảm khái như sau:

Who gives, his virtues shall increase;
Who is self-curbed, no hatred bears;
Whoso is skilled in virtue, evil shuns,
And by the rooting out of lust and hate
And all delusion, comes to be at peace.

Công đức người bố thí,
Luôn luôn được tăng trưởng,
Trừ được tâm hận thù.
Không chất chứa, chế ngựa,
Kẻ chí thiện từ bỏ.
Mọi ác hạnh bất thiện,
Diệt trừ tham, sân, si.
Tâm giải thoát thanh tịnh.

 Chủ biên và điều hành: TT Thích Giác Đẳng.

 Những đóng góp dịch thuật xin gửi về TT Thích Giác Đẳng tại phamdang0308@gmail.com
Cập nhập ngày: Chủ Nhật 26-7-2015

Kỹ thuật trình bày: Minh Hạnh & Thiện Pháp

Trang trước|Trang kế | trở về đầu trang | Home page |