I have heard that:
On one occasion the Blessed One was staying near Savatthi in Jeta's Grove, Anathapindika's monastery. Now on that occasion Uggahamana, a follower of Mundika the contemplative,1 together with a large following of about 500 wanderers, had taken up residence in the debating hall near the Tinduka tree in the single-pavilion park of Queen Mallika. Then Pañcakanga the carpenter left Savatthi in the middle of the day to see the Blessed One, but the thought occurred to him, "Now is not the right time to see the Blessed One, for he is in seclusion. And it is not the right time to see the mind-developing monks, for they too are in seclusion. Why don't I go to the debating hall near the Tinduka tree in the single-pavilion park of Queen Mallika to see Uggahamana, a follower of Mundika the contemplative?" So he headed to the debating hall near the Tinduka tree in the single-pavilion park of Queen Mallika.


Như vầy tôi nghe:
Một thời Thế Tôn trú ở Savatthi (Xá-vệ), Jetavana (Kỳ Viên), tại tinh xá Anathapindika (Cấp Cô Độc). Lúc bấy giờ du sĩ Uggahamana, con của Samanamundika, trú ở tinh xá của Mallika tại Ekasalaka, có hàng cây tinduka bao quanh, được xây dựng để tranh luận cùng với đại chúng du sĩ khoảng ba trăm vị. Rồi thợ mộc Pancakanga vào buổi sáng sớm, đi ra khỏi Savatthi để yết kiến Thế Tôn. Thợ mộc Pancakanga suy nghĩ: "Nay không phải thời để yết kiến Thế Tôn, Thế Tôn đang an tịnh Thiền tọa; cũng không phải thời để yết kiến các vị Tỷ-kheo đang tu dưỡng tâm ư, các vị Tỷ-kheo đang an tịnh Thiền tọa. Ta hăy đi đến tinh xá của Mallika, tại Ekasalaka, có hàng cây tinduka bao quanh, được xây dựng để tranh luận, đi đến du sĩ Uggahamana con của Samanamundika". Rồi thợ mộc Pancakanga đi đến tinh xá của Mallika, tại Ekasalaka, có hàng cây tinduka bao quanh, được xây dựng để tranh luận.

 

Now on that occasion Uggahamana was sitting with his large following of wanderers, all making a great noise & racket, discussing many kinds of bestial topics of conversation: conversation about kings, robbers, & ministers of state; armies, alarms, & battles; food & drink; clothing, furniture, garlands, & scents; relatives; vehicles; villages, towns, cities, the countryside; women & heroes; the gossip of the street & the well; tales of the dead; tales of diversity, the creation of the world & of the sea; talk of whether things exist or not. Then Uggahamana saw Pañcakanga the carpenter coming from afar, and on seeing him, hushed his following: "Be quiet, good sirs. Don't make any noise. Here comes Pañcakanga the carpenter, a disciple of the contemplative Gotama. He is one of those disciples of the contemplative Gotama, clad in white, who lives in Savatthi. These people are fond of quietude, trained in quietude, and speak in praise of quietude. Maybe, if he perceives our group as quiet, he will consider it worth his while to come our way." So the wanderers fell silent.



Lúc bấy giờ du sĩ Uggahamana, con của Samanamundika đang ngồi với đại chúng du sĩ, đang lớn tiếng, cao tiếng, to tiếng, bàn luận nhiều vấn đề phù phiếm như vương luận, tặc luận, đại thần luận, binh luận, bố uư luận, chiến đấu luận, thực luận, ẩm luận, y luận, sàng luận, hoa man luận, hương liệu luận, thân tộc luận, xa thừa luận, thôn luận, trấn luận, thị luận, quốc độ luận, phụ nữ luận, anh hùng luận, câu chuyện bên lề đường, câu chuyện tại chỗ lấy nước, câu chuyện về người đă chết, tạp thoại luận, thế giới luận, hải dương luận, hiện hữu vô biện hữu luận. Du sĩ Uggahamana, con của Samanamandika thấy thợ mộc Pancakanga từ xa đi đến, thấy vậy liền khuyến cáo chúng của ḿnh:
– Các Tôn giả hăy nhỏ tiếng ! Các Tôn giả hăy lặng tiếng ! Nay thợ mộc Pancakanga, đệ tử của Sa-môn Gotama đang đến. Khi nào các đệ tử gia chủ mặc áo trắng của Sa-môn Gotama trú ở Savatthi, thời thợ mộc Pancakanga là một trong những vị ấy. Các vị Tôn giả ấy ưa mến an tịnh, được tu tập về an tịnh, tán thán an tịnh, nếu biết chúng này an tịnh, có thể ghé tại đây.
Rồi các du sĩ ấy đều im lặng.

 

Then Pañcakanga went to Uggahamana and, on arrival, greeted him courteously. After an exchange of friendly greetings & courtesies, he sat down to one side. As he was sitting there, Uggahamana said to him, "I describe an individual endowed with four qualities as being consummate in what is skillful, foremost in what is skillful, an invincible contemplative attained to the highest attainments. Which four? There is the case where he does no evil action with his body, speaks no evil speech, resolves on no evil resolve, and maintains himself with no evil means of livelihood. An individual endowed with these four qualities I describe as being consummate in what is skillful, foremost in what is skillful, an invincible contemplative attained to the highest attainments."


Thợ mộc Pancakanga đi đến du sĩ Uggahamana, con của Samanamundika; sau khi đến, nói lên những lời chào đón hỏi thăm với du sĩ Uggahamana, con của Samanamundika; sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, liền ngồi xuống một bên. Du sĩ Uggahamana nói với thợ mộc Pancakanga đang ngồi một bên:
– Này Thợ mộc, ta chủ trương rằng một người thành tựu bốn pháp, người ấy sẽ được thiện cụ túc, thiện tối thắng, là bậc Sa-môn thành đạt tối thượng, vô năng thắng. Thế nào là bốn ? Ở đây, này Thợ mộc, không làm ác nghiệp về thân, không nói lời ác, không tư duy ác tư duy, không sinh sống (bằng) nếp sống ác. Này Thợ mộc, ta chủ trương rằng một người nào thành tựu bốn pháp này, người ấy sẽ được thiện cụ túc, thiện tối thắng, là Sa-môn thành đạt tối thượng, vô năng thắng.

 

Then Pañcakanga neither delighted in Uggahamana's words nor did he scorn them. Expressing neither delight nor scorn, he got up from his seat & left, thinking, "I will learn the meaning of this statement in the Blessed One's presence."


Rồi thợ mộc Pancakanga không hoan hỷ, không kích bác lời nói của du sĩ Uggahamana, con của Samanamandika; không hoan hỷ, không kích bác, từ chỗ ngồi đứng dậy ra đi, với ư nghĩ: "Từ Thế Tôn, ta sẽ biết ư nghĩa lời nói này".

 

Then he went to the Blessed One and, on arrival, after bowing down to him, sat to one side. As he was sitting there, he told the Blessed One the entire conversation he had had with Uggahamana.


Rồi thợ mộc Pancakanga đến chỗ Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, thợ mộc Pancakanga thưa lại với Thế Tôn tất cả câu chuyện giữa ḿnh với du sĩ Uggahamana, con của Samanamundika.

 

When this was said, the Blessed One said to Pañcakanga: "In that case, carpenter, then according to Uggahamana's words a stupid baby boy, lying on its back, is consummate in what is skillful, foremost in what is skillful, an invincible contemplative attained to the highest attainments. For even the thought 'body' does not occur to a stupid baby boy lying on its back, so from where would it do any evil action with its body, aside from a little kicking? Even the thought 'speech' does not occur to it, so from where would it speak any evil speech, aside from a little crying? Even the thought 'resolve' does not occur to it, so from where would it resolve on any evil resolve, aside from a little bad temper? Even the thought 'livelihood' does not occur to it, so from where would it maintain itself with any evil means of livelihood, aside from its mother's milk? So, according to Uggahamana's words, a stupid baby boy, lying on its back is consummate in what is skillful, foremost in what is skillful, an invincible contemplative attained to the highest attainments.



Khi nghe nói vậy, Thế Tôn nói với thợ mộc Pancakanga:
– Nếu sự t́nh là như vậy thời một đứa con nít c̣n bé nhỏ, vô trí, nằm ngửa sẽ được thiện cụ túc, thiện tối thắng, là bậc Sa-môn, thành đạt tối thượng, là bậc vô năng thắng đúng như lời du sĩ Uggahamana, con của Samanamundika. Này Thợ mộc, đối với đứa con nít nhỏ bé, vô trí, nằm ngửa, không có nghĩ: "Đây là thân", từ đâu nó có thể làm ác nghiệp về thân, trừ ra chỉ biết quơ tay quơ chân ? Này Thợ mộc, đối với đứa con nít, nhỏ bé, vô trí, nằm ngửa, không có nghĩ: "Đây là lời nói", từ đâu nó có thể làm ác nghiệp về lời nói, trừ ra chỉ biết khóc ? Này Thợ mộc, đối với đứa con nít, nhỏ bé, vô trí, nằm ngửa, không có nghĩ: "Đây là tư duy", từ đâu nó có thể tư duy ác tư duy, trừ ra chỉ biết bập bẹ ? Này Thợ mộc, đối với đứa con nít, nhỏ bé, vô trí, nằm ngửa, không có nghĩ: "Đây là nghề sinh sống", từ đâu nó có thể sinh sống bằng nếp sống ác, trừ ra chỉ biết bú sữa mẹ ? Nếu sự t́nh là vậy này Thợ mộc, thời một đứa con nít c̣n bé nhỏ, vô trí, nằm ngửa, sẽ được thiện cụ thúc, thiện tối thắng, là bậc Sa-môn thành đạt tối thượng, vô năng thắng, đúng như lời du sĩ Uggahamana, con của Samanamundika.

 

"If an individual is endowed with these four qualities, I do not describe him as consummate in what is skillful, foremost in what is skillful, an invincible contemplative attained to the highest attainments. Rather, he stands on the same level as a stupid baby boy lying on its back. Which four? There is the case where he does no evil action with his body, speaks no evil speech, resolves on no evil resolve, and maintains himself with no evil means of livelihood. If an individual is endowed with these four qualities, I do not describe him as consummate in what is skillful, foremost in what is skillful, an invincible contemplative attained to the highest attainments. Rather, he stands on the same level as a stupid baby boy lying on its back.



Này Thợ mộc, Ta chủ trương rằng một người thành tựu bốn pháp, người ấy sẽ không được thiện cụ túc, thiện tối thắng, không là bậc Sa-môn thành đạt tối thượng, vô năng thắng, và như vậy để xác chứng đứa con nít bé nhỏ, vô trí, nằm ngửa này. Thế nào là bốn ? Ở đây, này Thợ mộc, không làm ác nghiệp về thân, không nói lời ác ngữ, không tư duy ác tư duy, không sinh sống (bằng) nếp sống ác. Này Thợ mộc, Ta chủ trương rằng một người thành tựu bốn pháp này, người ấy sẽ không được thiện cụ túc, thiện tối thắng, không là bậc Sa-môn thành đạt tối thượng, vô năng thắng.

 

"An individual endowed with ten qualities is one whom I describe as being consummate in what is skillful, foremost in what is skillful, an invincible contemplative attained to the highest attainments. With regard to that point, one should know that 'These are unskillful habits,' I say. With regard to that point, one should know that 'That is the cause of unskillful habits'...'Here unskillful habits cease without trace'...'This sort of practice is the practice leading to the cessation of unskillful habits,' I say.


Này thợ mộc, Ta chủ trương rằng một người thành tựu mười pháp, người ấy sẽ được thiện cụ túc, thiện tối thắng, là bậc Sa-môn thành đạt tối thượng, vô năng thắng. Ta nói rằng, những pháp này, này Thợ mộc, cần phải được người ấy hiểu là những bất thiện giới, Ta nói rằng, này Thợ mộc, những bất thiện giới cần phải được người ấy hiểu là từ đây sanh (Itosamutthana). Ta nói rằng, này Thợ mộc, ở đây cần phải được người ấy hiểu là những bất thiện giới được diệt trừ không có dư tàn. Ta nói rằng, này Thợ mộc, cần phải được người ấy hiểu là thực hành như vậy là sự thực hành đưa đến diệt trừ các bất thiện giới. Ta nói rằng, này Thợ mộc, những pháp này cần phải được người ấy hiểu là những thiện giới. Ta nói rằng, này Thợ mộc, những thiện giới cần phải được người ấy hiểu là từ đây sanh. Ta nói rằng, này Thợ mộc, ở đây, cần phải được người ấy hiểu là những thiện giới được diệt trừ không có dư tàn. Ta nói rằng, này Thợ mộc, cần phải được người ấy hiểu là thực hành như vậy là sự thực hành đưa đến diệt trừ các thiện giới. Ta nói rằng, này Thợ mộc, những (pháp) này cần phải được người ấy hiểu là những bất thiện tư duy. Ta nói rằng, này Thợ mộc, cần phải được người ấy hiểu là những bất thiện tư duy từ nơi đây sanh. Ta nói rằng, này Thợ mộc, ở đây, cần phải được người ấy hiểu các bất thiện tư duy được diệt trừ không có dư tàn. Ta nói rằng, này Thợ mộc, cần phải được người ấy hiểu là thực hành như vậy là sự thực hành đưa đến diệt trừ các bất thiện tư duy.

 

"With regard to that point, one should know that 'These are skillful habits'...'That is the cause of skillful habits'...'Here skillful habits cease without trace'...'This sort of practice is the practice leading to the cessation of skillful habits,' I say.


Ta nói rằng, này Thợ mộc, những pháp này cần phải được người ấy hiểu là những thiện tư duy. Ta nói rằng, này Thợ mộc, cần phải được người ấy hiểu là những thiện tư duy từ nơi đây sanh. Ta nói rằng, này Thợ mộc, ở đây, cần phải được người ấy hiểu là các thiện tư duy được trừ diệt không có dư tàn. Ta nói rằng, này Thợ mộc, cần phải được người ấy hiểu là thực hành như vậy là sự thực hành đưa đến diệt trừ các thiện tư duy.

 

"With regard to that point, one should know that 'These are unskillful resolves'... 'That is the cause of unskillful resolves'...'Here unskillful resolves cease without trace'...'This sort of practice is the practice leading to the cessation of unskillful resolves' I say.


Ta nói rằng, này Thợ mộc, những (pháp) này cần phải được người ấy hiểu là những bất thiện tư duy. Ta nói rằng, này Thợ mộc, cần phải được người ấy hiểu là những bất thiện tư duy từ nơi đây sanh. Ta nói rằng, này Thợ mộc, ở đây, cần phải được người ấy hiểu các bất thiện tư duy được diệt trừ không có dư tàn. Ta nói rằng, này Thợ mộc, cần phải được người ấy hiểu là thực hành như vậy là sự thực hành đưa đến diệt trừ các bất thiện tư duy. Ta nói rằng, này Thợ mộc, những pháp này cần phải được người ấy hiểu là những thiện tư duy. Ta nói rằng, này Thợ mộc, cần phải được người ấy hiểu là những thiện tư duy từ nơi đây sanh. Ta nói rằng, này Thợ mộc, ở đây, cần phải được người ấy hiểu là các thiện tư duy được trừ diệt không có dư tàn. Ta nói rằng, này Thợ mộc, cần phải được người ấy hiểu là thực hành như vậy là sự thực hành đưa đến diệt trừ các thiện tư duy.

 

"With regard to that point, one should know that 'These are skillful resolves'...'That is the cause of skillful resolves'...'Here skillful resolves cease without trace'...'This sort of practice is the practice leading to the cessation of skillful resolves,' I say.


Ta nói rằng, này Thợ mộc, những (pháp) này cần phải được người ấy hiểu là những thiện tư duy. Ta nói rằng, này Thợ mộc, cần phải được người ấy hiểu là những thiện tư duy từ nơi đây sanh. Ta nói rằng, này Thợ mộc, ở đây, cần phải được người ấy hiểu các thiện tư duy được diệt trừ không có dư tàn. Ta nói rằng, này Thợ mộc, cần phải được người ấy hiểu là thực hành như vậy là sự thực hành đưa đến diệt trừ các thiện tư duy. Ta nói rằng, này Thợ mộc, những pháp này cần phải được người ấy hiểu là những thiện tư duy. Ta nói rằng, này Thợ mộc, cần phải được người ấy hiểu là những thiện tư duy từ nơi đây sanh. Ta nói rằng, này Thợ mộc, ở đây, cần phải được người ấy hiểu là các thiện tư duy được trừ diệt không có dư tàn. Ta nói rằng, này Thợ mộc, cần phải được người ấy hiểu là thực hành như vậy là sự thực hành đưa đến diệt trừ các thiện tư duy.

 

"Now what are unskillful habits? Unskillful bodily actions, unskillful verbal actions, evil means of livelihood. These are called unskillful habits. What is the cause of unskillful habits? Their cause is stated, and they are said to be mind-caused. Which mind? — for the mind has many modes & permutations. Any mind with passion, aversion or delusion: That is the cause of unskillful habits. Now where do unskillful habits cease without trace? Their cessation has been stated: There is the case where a monk abandons wrong bodily conduct & develops right bodily conduct, abandons wrong verbal conduct & develops right verbal conduct, abandons wrong livelihood & maintains his life with right livelihood. This is where unskillful habits cease without trace. And what sort of practice is the practice leading to the cessation of unskillful habits? There is the case where a monk generates desire, endeavors, arouses persistence, upholds & exerts his intent for the sake of the non-arising of evil, unskillful qualities that have not yet arisen...for the sake of the abandoning of evil, unskillful qualities that have arisen...for the sake of the arising of skillful qualities that have not yet arisen...(and) for the maintenance, non-confusion, increase, plenitude, development & culmination of skillful qualities that have arisen. This sort of practice is the practice leading to the cessation of unskillful habits.


Và này Thợ mộc, thế nào là bất thiện giới ? Thân nghiệp bất thiện, khẩu nghiệp bất thiện, nếp sống ác. Những pháp này, này Thợ mộc, được gọi là bất thiện giới. Và này Thợ mộc, những bất thiện giới này sanh khởi như thế nào ? Sự sanh khởi của chúng cũng được nói đến, cần phải trả lời từ tâm sanh khởi. Thế nào là tâm ? Tâm có nhiều loại, đa chủng, sai biệt. Tâm có tham, có sân, có si, từ đây những bất thiện giới sanh khởi. Và này Thợ mộc, những bất thiện giới này từ đâu được trừ diệt, không có dư tàn ? Sự trừ diệt của chúng cũng được nói đến. Ở đây, này Thợ mộc, một Tỷ-kheo, sau khi đoạn trừ thân ác hạnh, tu tập thân thiện hạnh; sau khi đoạn trừ khẩu ác hạnh, tu tập khẩu thiện hạnh; sau khi đoạn trừ ư ác hạnh, tu tập ư thiện hạnh; sau khi đoạn trừ nếp sống ác sinh sống với nếp sống chánh. Ở đây, những bất thiện giới ấy được trừ diệt không có tàn dư. Thực hành như thế nào, này Thợ mộc, là sự thực hành đưa đến diệt trừ các bất thiện giới ? Ở đây, này Thợ mộc, vị Tỷ-kheo khởi lên ư muốn, nỗ lực, tinh tấn, quyết tâm, sách tấn tâm; khiến cho các ác, bất thiện pháp từ trước chưa sanh không được sanh khởi; khởi lên ư muốn nỗ lực, tinh tấn, quyết tâm, sách tấn tâm khiến cho các ác, bất thiện pháp đă sanh được trừ diệt; khởi lên ư muốn nỗ lực, tinh tấn, quyết tâm, sách tấn tâm khiến cho các thiện pháp chưa sanh nay được sanh khởi; khởi lên ư muốn nỗ lực, tinh tấn, quyết tâm, sách tấn tâm khiến cho các thiện pháp đă sanh có thể duy tŕ, không có mơ hồ, được tăng trưởng, được quảng đại, được tu tập, được viên măn. Sự thực hành như vậy, này Thợ mộc, là sự thực hành đưa đến diệt trừ các bất thiện giới.

 

"And what are skillful habits? Skillful bodily actions, skillful verbal actions, purity of livelihood. These are called skillful habits. What is the cause of skillful habits? Their cause, too, has been stated, and they are said to be mind-caused. Which mind? — for the mind has many modes & permutations. Any mind without passion, without aversion, without delusion: That is the cause of skillful habits. Now where do skillful habits cease without trace? Their cessation, too, has been stated: There is the case where a monk is virtuous, but not fashioned of virtue.2 He discerns, as it actually is, the awareness-release & discernment-release where his skillful habits cease without trace. And what sort of practice is the practice leading to the cessation of skillful habits? There is the case where a monk generates desire...for the sake of the non-arising of evil, unskillful qualities that have not yet arisen...for the sake of the abandoning of evil, unskillful qualities that have arisen...for the sake of the arising of skillful qualities that have not yet arisen...(and) for the...development & culmination of skillful qualities that have arisen. This sort of practice is the practice leading to the cessation of skillful habits.


Và này Thợ mộc, thế nào là thiện giới ? Thân nghiệp thiện, khẩu nghiệp thiện, nếp sống thanh tịnh mạng; những pháp này, này Thợ mộc, được gọi là thiện giới. Và này Thợ mộc, những thiện giới này sanh khởi như thế nào ? Sự sanh khởi của chúng cũng được nói đến, cần phải trả lời là tự tâm sinh khởi. Thế nào là tâm ? Tâm có nhiều loại, đa chủng, sai biệt. Tâm không tham, không sân, không si, từ đây những thiện giới sanh khởi. Và này Thợ mộc, những thiện giới này từ đâu được trừ diệt, không có dư tàn,. Sự trừ diệt của chúng cũng được nói đến. Ở đây, vị Tỷ-kheo có giới hạnh, và không chấp trước giới (silamayo), và vị này như thật tuệ tri tâm giải thoát, tuệ giải thoát. Ở đây, những thiện giới ấy được trừ diệt, không có dư tàn. Thực hành như thế nào, này Thợ mộc, là sự thực hành đưa đến trừ diệt các thiện giới ? Ở đây, này Thợ mộc, vị Tỷ-kheo khởi lên ư muốn, nỗ lực, tinh tấn, quyết tâm, sách tấn tâm, khiến cho các ác, bất thiện pháp, chưa sanh không được sanh khởi; khiến cho các ác, bất thiện pháp đă sanh được trừ diệt; khiến cho các thiện pháp chưa sanh nay được sanh khởi; khởi lên ư muốn nỗ lực, tinh tấn, quyết tâm, sách tấn tâm, khiến cho các thiện pháp đă sanh có thể duy tŕ, không có mơ hồ, được tăng trưởng, được quảng đại, được tu tập, được viên măn. Sự thực hành như vậy là sự thực hành đưa đến diệt trừ các thiện giới.

 

"And what are unskillful resolves? Being resolved on sensuality, on ill will, on harmfulness. These are called unskillful resolves. What is the cause of unskillful resolves? Their cause, too, has been stated, and they are said to be perception-caused. Which perception? — for perception has many modes & permutations. Any sensuality-perception, ill will-perception or harmfulness-perception: That is the cause of unskillful resolves. Now where do unskillful resolves cease without trace? Their cessation, too, has been stated: There is the case where a monk, quite withdrawn from sensuality, withdrawn from unskillful mental qualities, enters & remains in the first jhana: rapture & pleasure born from withdrawal, accompanied by directed thought & evaluation. This is where unskillful resolves cease without trace. And what sort of practice is the practice leading to the cessation of unskillful resolves? There is the case where a monk generates desire...for the sake of the non-arising of evil, unskillful qualities that have not yet arisen...for the sake of the abandoning of evil, unskillful qualities that have arisen...for the sake of the arising of skillful qualities that have not yet arisen...(and) for the...development & culmination of skillful qualities that have arisen. This sort of practice is the practice leading to the cessation of unskillful resolves.


Và này Thợ mộc, thế nào là bất thiện tư duy ? Dục tư duy, sân tư duy, hại tư duy. Pháp này, này Thợ mộc, được gọi là bất thiện tư duy. Và này Thợ mộc, những bất thiện tư duy này sanh khởi như thế nào ? Sự sanh khởi của chúng cũng được nói đến. Cần phải trả lời là từ tưởng sanh khởi. Thế nào là tưởng ? Tưởng có nhiều loại, đa chủng, sai biệt: dục tưởng, sân tưởng, hại tưởng, từ đấy những bất thiện tư duy sanh khởi. Và này Thợ mộc, những bất thiện tư duy này từ đâu được trừ diệt, không có dư tàn ? Sự trừ diệt của chúng cũng được nói đến. Ở đây, này Thợ mộc, vị Tỷ-kheo ly dục, ly bất thiện pháp chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, với tầm, với tứ. Ở đây, những bất thiện tư duy được trừ diệt, không có dư tàn. Và sự thực hành như thế nào, này Thợ mộc, là sự thực hành đưa đến diệt trừ các bất thiện tư duy ? Ở đây, vị Tỷ-kheo khởi lên ư muốn nỗ lực, tinh tấn, quyết tâm, sách tấn tâm khiến cho các ác, bất thiện pháp chưa sanh không được sanh khởi... khiến cho các ác, bất thiện pháp đă sanh được trừ diệt; khiến cho các thiện pháp chưa sanh nay được sanh khởi; khởi lên ư muốn nỗ lực, tinh tấn, quyết tâm, sách tấn tâm; khiến cho các thiện pháp đă sanh có thể duy tŕ, không có mơ hồ, được tăng trưởng, được quảng đại, được tu tập, được viên măn. Sự thực hành như vậy là sự thực hành đưa đến diệt trừ các bất thiện tư duy.

 

"And what are skillful resolves? Being resolved on renunciation (freedom from sensuality), on non-ill will, on harmlessness. These are called skillful resolves. What is the cause of skillful resolves? Their cause, too, has been stated, and they are said to be perception-caused. Which perception? — for perception has many modes & permutations. Any renunciation-perception, non-ill will-perception or harmlessness-perception: That is the cause of skillful resolves. Now where do skillful resolves cease without trace? Their cessation, too, has been stated: There is the case where a monk, with the stilling of directed thought & evaluation, enters & remains in the second jhana: rapture & pleasure born of composure, unification of awareness free from directed thought & evaluation — internal assurance. This is where skillful resolves cease without trace. And what sort of practice is the practice leading to the cessation of skillful resolves? There is the case where a monk generates desire...for the sake of the non-arising of evil, unskillful qualities that have not yet arisen...for the sake of the abandoning of evil, unskillful qualities that have arisen...for the sake of the arising of skillful qualities that have not yet arisen...(and) for the... development & culmination of skillful qualities that have arisen. This sort of practice is the practice leading to the cessation of skillful resolves.


Này Thợ mộc, thế nào là thiện tư duy ? Ly dục tư duy, vô sân tư duy, bất hại tư duy; những pháp này, này Thợ mộc, được gọi là thiện tư duy. Và này Thợ mộc, những thiện tư duy này sanh khởi như thế nào ? Sự sanh khởi của chúng cũng được nói đến. Cần phải trả lời là từ tưởng sanh khởi. Thế nào là tưởng ? Tưởng có nhiều loại, đa chủng, sai biệt: ly dục tưởng, vô sân tưởng, bất hại tưởng, từ đấy sanh khởi là những thiện tư duy. Và này Thợ mộc, những thiện tư duy này từ đâu được diệt, không có dư tàn ? Sự trừ diệt của chúng cũng được nói đến. Ở đây, này Thợ mộc, vị Tỷ-kheo diệt tầm và tứ, chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm, không tứ, nội tĩnh nhất tâm. Ở đây, những thiện tư duy ấy được trừ diệt không có dư tàn. Và sự thực hành như thế nào, này Thợ mộc, là sự thực hành đưa đến diệt trừ các thiện tư duy ? Ở đây, Tỷ-kheo khởi lên ư muốn nỗ lực, tinh tấn, quyết tâm, sách tấn tâm khiến cho các ác, bất thiện pháp chưa sanh không có sanh khởi... (như trên)...; khiến cho các ác, bất thiện pháp đă sanh được trừ diệt... (như trên)...; khiến cho các thiện pháp chưa sanh nay được sanh khởi; khởi lên ư muốn nỗ lực, tinh tấn, quyết tâm, sách tấn tâm, khiến cho các thiện pháp đă sanh, có thể duy tŕ, không có mơ hồ, được tăng trưởng, được quảng đại, được tu tập, được viên măn. Sự thực hành như vậy là sự thực hành đưa đến diệt trừ các thiện tư duy.

 

"Now, an individual endowed with which ten qualities is one whom I describe as being consummate in what is skillful, foremost in what is skillful, an invincible contemplative attained to the highest attainments? One endowed with the right view of one beyond training, the right resolve of one beyond training, the right speech... the right action... the right livelihood... the right effort... the right mindfulness... the right concentration... the right knowledge... the right release of one beyond training. An individual endowed with these ten qualities is one whom I describe as being consummate in what is skillful, foremost in what is skillful, an invincible contemplative attained to the highest attainments."


Và này Thợ mộc, Ta chủ trương rằng một người thành tựu mười pháp này, người ấy được thiện cụ túc, thiện tối thắng, là bậc Sa-môn thành đạt tối thượng, vô năng thắng. Ở đây, này Thợ mộc, vị Tỷ-kheo thành tựu vô học chánh tri kiến, thành tựu vô học chánh tư duy, thành tựu vô học chánh ngữ, thành tựu vô học chánh mạng, thành tựu vô học chánh tinh tấn, thành tựu vô học chánh niệm, thành tựu vô học chánh định, thành tựu vô học chánh trí, thành tựu vô học chánh giải thoát. Này Thợ mộc, Ta chủ trương rằng một người thành tựu mười pháp này sẽ được thiện cụ túc, thiện tối thắng, là bậc Sa-môn thành đạt tối thượng, vô năng thắng.

 

That is what the Blessed One said. Gratified, Pañcakanga the carpenter delighted in the Blessed One's words.


Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Thợ mộc Pancakanga hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy.

 

Notes

1. This can also mean "the shaven-headed contemplative," in which case Uggahamana might have belonged to one of the Jain sects.

2. The Pali here is: no ca sila-mayo. According to the Commentary, this means that he does not regard virtue as the consummation of the path. It may also mean that he does not define himself by his virtue. This term is apparently related to the state called atammayata, or non-fashioning. On this topic, see The Wings to Awakening, especially the introduction to section II/B and passage §179.

 Chủ biên và điều hành: TT Thích Giác Đẳng.

 Những đóng góp dịch thuật xin gửi về TT Thích Giác Đẳng tại giacdang@phapluan.com
Cập nhập ngày: Thứ Sáu 08-11-2006

Kỹ thuật tŕnh bày: Minh Hạnh & Thiện Pháp

| | trở về đầu trang | Home page |