so i have heard. At one time the Buddha was staying near Nālandā in Pāvārika’s mango grove.

Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở tại Nalanda, trong rừng Pavarikamba.

At that time Nigaṇṭha Nāṭaputta was residing at Nāḷandā together with a large assembly of Jain ascetics. Then the Jain ascetic Dīgha Tapassī wandered for alms in Nāḷandā. After the meal, on his return from alms-round, he went to Pāvārika’s mango grove. There he approached the Buddha, and exchanged greetings with him.

Lúc bấy giờ, Nigantha Nataputta trú tại Nalanda cùng với đại chúng Nigantha (Ly Hệ Phái). Rồi Nigantha Dighatapassi (Trường Khổ Hạnh Giả), sau khi đi khất thực ở Nalanda, ăn xong, trên con đường khất thực trở về, đi đến rừng Pavarikamba, chỗ Thế Tôn ở, sau khi đến, nói lên những lời hỏi thăm Thế Tôn. Sau khi nói lên những lời hỏi thăm thân hữu, vị này đứng một bên.

When the greetings and polite conversation were over, he stood to one side. The Buddha said to him, “There are seats, Tapassī. Please sit if you wish.”

Thế Tôn nói với Nigantha Dighatapassi đang đứng một bên: -- Này Tapassi, có những ghế ngồi. Nếu ông muốn, hãy ngồi xuống.

When he said this, Dīgha Tapassī took a low seat and sat to one side. The Buddha said to him, “Tapassī, how many kinds of deed does Nigaṇṭha Nātaputta describe for performing bad deeds?”

Khi nghe nói vậy, Nigantha Dighatapassi lấy một ghế thấp, rồi ngồi xuống một bên. Và Thế Tôn nói với Nigantha Dighatapassi đang ngồi một bên:-- Này Tapassi, Nigantha Nataputta chủ trương có bao nhiêu nghiệp để tác thành ác nghiệp, để diễn tiến ác nghiệp?

“Reverend Gotama, Nigaṇṭha Nātaputta doesn’t usually speak in terms of ‘deeds’. He usually speaks in terms of ‘rods’.”

-- Hiền giả Gotama, Nigantha Nataputta không có thông lệ chủ trương 'nghiệp, nghiệp'. Hiền giả Gotama, Nigantha Nataputta có thông lệ chủ trương 'phạt, phạt'.

“Then how many kinds of rod does Nigaṇṭha Nātaputta describe for performing bad deeds?”

-- Này Tapassi, Nigantha Nataputta chủ trương có bao nhiêu loại phạt để tác thành ác nghiệp, để diễn tiến ác nghiệp?

“Nigaṇṭha Nātaputta describes three kinds of rod for performing bad deeds: the physical rod, the verbal rod, and the mental rod.”

-- Này Hiền giả Gotama, Nigantha Nataputta chủ trương có ba loại phạt để tác thành ác nghiệp, để diễn tiến ác nghiệp, tức là thân phạt, khẩu phạt, ý phạt.

“But are these kinds of rod all distinct from each other?”

-- Này Tapassi, nhưng có phải thân phạt khác, khẩu phạt khác, ý phạt khác?

“Yes, each is quite distinct.”

-- Hiền giả Gotama, thân phạt khác, khẩu phạt khác, ý phạt khác.

“Of the three rods thus analyzed and differentiated, which rod does Nigaṇṭha Nātaputta describe as being the most blameworthy for performing bad deeds: the physical rod, the verbal rod, or the mental rod?”

-- Này Tapassi, ba loại phạt này, được chia chẻ như vậy, được phân biệt như vậy, Nigantha Nataputta chủ trương loại phạt nào tối trọng để tác thành ác nghiệp, để diễn tiến ác nghiệp, thân phạt chăng, khẩu phạt chăng, ý phạt chăng?

“Nigaṇṭha Nātaputta describes the physical rod as being the most blameworthy for performing bad deeds, not so much the verbal rod or the mental rod.”

-- Hiền giả Gotama, ba loại phạt này được chia chẻ như vậy, được phân biệt như vậy, Nigantha Nataputta chủ trương thân phạt là tối trọng để tác thành ác nghiệp, để diễn tiến ác nghiệp, khẩu phạt không bằng được, ý phạt không bằng được.

“Do you say the physical rod, Tapassī?”

-- Này Tapassi, có phải Ông nói thân phạt?

“I say the physical rod, Reverend Gotama.”

-- Hiền giả Gotama, tôi nói thân phạt.

“Do you say the physical rod, Tapassī?”

-- Này Tapassi, có phải Ông nói thân phạt?

“I say the physical rod, Reverend Gotama.”

-- Hiền giả Gotama, tôi nói thân phạt.

“Do you say the physical rod, Tapassī?”

-- Này Tapassi, có phải Ông nói thân phạt?

“I say the physical rod, Reverend Gotama.”

-- Hiền giả Gotama, tôi nói thân phạt.

Thus the Buddha made Dīgha Tapassī stand by this point up to the third time.

Như vậy Thế Tôn trong cuộc đàm thoại này đã làm Nigantha Dighatapassi xác nhận cho đến lần thứ ba quan điểm (của mình).

When this was said, Dīgha Tapassī said to the Buddha, “But Reverend Gotama, how many kinds of rod do you describe for performing bad deeds?”

Khi nghe nói vậy, Nigantha Dighatapassi nói với Thế Tôn:-- Hiền giả Gotama, Hiền giả chủ trương có bao nhiêu loại phạt để tác thành ác nghiệp, để diễn tiến ác nghiệp?

“Tapassī, the Realized One doesn’t usually speak in terms of ‘rods’. He usually speaks in terms of ‘deeds’.”

-- Này Tapassi, Như Lai không có thông lệ chủ trương 'phạt, phạt'. Này Tapassi, Như Lai có thông lệ chủ trương 'nghiệp, nghiệp'.

“Then how many kinds of deed do you describe for performing bad deeds?”

-- Hiền giả Gotama, Hiền giả chủ trương có bao nhiêu loại nghiệp để tác thành ác nghiệp, để diễn tiến ác nghiệp?

“I describe three kinds of deed for performing bad deeds: physical deeds, verbal deeds, and mental deeds.”

-- Này Tapassi, Ta chủ trương có ba loại nghiệp để tác thành ác nghiệp, để diễn tiến ác nghiệp, tức là thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp.

“But are these kinds of deed all distinct from each other?”

-- Hiền giả Gotama, nhưng có phải thân nghiệp khác, khẩu nghiệp khác, ý nghiệp khác?

“Yes, each is quite distinct.”

-- Này Tapassi, thân nghiệp khác, khẩu nghiệp khác, ý nghiệp khác.

“Of the three deeds thus analyzed and differentiated, which deed do you describe as being the most blameworthy for performing bad deeds: physical deeds, verbal deeds, or mental deeds?”

-- Hiền giả Gotama, ba loại nghiệp này, được chia chẻ như vậy, được phân biệt như vậy, Hiền giả chủ trương loại nghiệp nào tối trọng để tác thành ác nghiệp, để diễn tiến ác nghiệp? Thân nghiệp chăng, khẩu nghiệp chăng, ý nghiệp chăng?

“I describe mental deeds as being the most blameworthy for performing bad deeds, not so much physical deeds or verbal deeds.”

-- Này Tapassi, ba loại nghiệp này, được chia chẻ như vậy, được phân biệt như vậy, Ta chủ trương ý nghiệp là tối trọng, để tác thành ác ý, để diễn tiến ác nghiệp, thân nghiệp không bằng được, khẩu nghiệp không bằng được.

“Do you say mental deeds, Reverend Gotama?”

-- Hiền giả Gotama, có phải Hiền giả nói ý nghiệp?

“I say mental deeds, Tapassī.”

-- Này Tapassi, Ta nói ý nghiệp.

“Do you say mental deeds, Reverend Gotama?”

-- Hiền giả Gotama, có phải Hiền giả nói ý nghiệp?

“I say mental deeds, Tapassī.”

-- Này Tapassi, Ta nói ý nghiệp.

“Do you say mental deeds, Reverend Gotama?”

-- Hiền giả Gotama, có phải Hiền giả nói ý nghiệp?

“I say mental deeds, Tapassī.”

-- Này Tapassi, Ta nói ý nghiệp.

Thus the Jain ascetic Dīgha Tapassī made the Buddha stand by this point up to the third time, after which he got up from his seat and went to see Nigaṇṭha Nātaputta.

Như vậy Nigantha Dighatapassi trong cuộc đàm thoại này, sau khi đã làm Thế Tôn xác nhận cho đến lần thứ ba quan điểm (của mình), liền từ chỗ ngồi đứng dậy và đi đến chỗ Nigantha Nataputta.

Now at that time Nigaṇṭha Nātaputta was sitting together with a large assembly of laypeople of Bālaka headed by Upāli. Nigaṇṭha Nātaputta saw Dīgha Tapassī coming off in the distance and said to him, “So, Tapassī, where are you coming from in the middle of the day?”

Lúc bấy giờ, Nigantha Nataputta đang ngồi với một đại chúng gia chủ rất đông, do Upali (Ưu-ba-ly) người thuộc làng Balaka cầm đầu. Nigantha Nataputta thấy Nigantha Dighatapassi từ xa đi đến, sau khi thấy, liền nói với Nigantha Dighatapassi:-- Này Tapassi, Ông từ đâu đi đến, trong ban ngày (nóng bức) như thế này?

“Just now, sir, I’ve come from the presence of the ascetic Gotama.”

-- Thưa Tôn giả, con từ Sa-môn Gotama đi đến đây.

“But did you have some discussion with him?”

-- Này Tapassi, Ông có đàm luận gì với Sa-môn Gotama không?

“I did.”

-- Thưa Tôn giả, con cùng với Sa-môn Gotama có cuộc đàm thoại.

“And what kind of discussion did you have with him?” Then Dīgha Tapassī informed Nigaṇṭha Nātaputta of all they had discussed. When he had spoken, Nigaṇṭha said to him, “Good, good, Tapassī! Dīgha Tapassī has answered the ascetic Gotama like an educated disciple who rightly understands their teacher’s instructions. For how impressive is the measly mental rod when compared with the substantial physical rod? Rather, the physical rod is the most blameworthy for performing bad deeds, not so much the verbal rod or the mental rod.”

-- Này Tapassi, cuộc đàm thoại của ông với Sa-môn Gotama như thế nào? Rồi Nigantha Dighatapassi kể lại cho Nigantha Nataputta nghe một cách đầy đủ cuộc đàm thoại với Sa-môn Gotama. Ðược nghe vậy, Nigantha Nataputta nói với Dighatapassi:-- Tốt lành thay, tốt lành thay, Tapassi! Sa-môn Gotama đã được Nigantha Dighatapassi trả lời, một đệ tử đa văn đã hiểu đúng đắn lời dạy bậc Ðạo sư. Làm sao một ý phạt hèn kém có thể sáng chói, so sánh với thân phạt cường đại này được? Thân phạt thật là tối trọng để tác thành ác nghiệp, để diễn tiến ác nghiệp, khẩu nghiệp không bằng được, ý nghiệp không bằng được.

When he said this, the householder Upāli said to him, “Good, sir! Well done, Dīgha Tapassī! The honorable Tapassī has answered the ascetic Gotama like an educated disciple who rightly understands their teacher’s instructions. For how impressive is the measly mental rod when compared with the substantial physical rod? Rather, the physical rod is the most blameworthy for performing bad deeds, not so much the verbal rod or the mental rod.

Khi được nói vậy, gia chủ Upali thưa với Nigantha Nataputta: -- Tốt lành thay, tốt lành thay, Tôn giả Tapassi! Sa-môn Gotama đã được Tôn giả Tapassi trả lời như vậy, một đệ tử đa văn đã hiểu đúng đắn lời dạy bậc Ðạo sư. Làm sao một ý phạt hèn kém có thể sáng chói, so sánh với thân phạt cường đại này được? Thân phạt thật tối trọng để tác thành ác nghiệp, để diễn tiến ác nghiệp, khẩu phạt không bằng được, ý phạt không bằng được.

I’d better go and refute the ascetic Gotama’s doctrine regarding this point. If he stands by the position that he stated to Dīgha Tapassī, I’ll take him on in debate and drag him to and fro and round about, like a strong man would drag a fleecy sheep to and fro and round about! Taking him on in debate, I’ll drag him to and fro and round about, like a strong brewer’s worker would toss a large brewer’s sieve into a deep lake, grab it by the corners, and drag it to and fro and round about! Taking him on in debate, I’ll shake him down and about and give him a beating, like a strong brewer’s mixer would grab a strainer by the corners and shake it down and about, and give it a beating! I’ll play a game of ear-washing with the ascetic Gotama, like a sixty-year-old elephant would plunge into a deep lotus pond and play a game of ear-washing! Sir, I’d better go and refute the ascetic Gotama’s doctrine on this point.”

Thưa Tôn giả, con sẽ đi và luận chiến với Sa-môn Gotama trong cuộc đàm thoại này. Nếu Sa-môn Gotama làm con xác nhận như đã làm Tôn giả Tapassi xác nhận thời cũng như một người lực sĩ tay nắm chặt lông một con cừu có lông dài, có thể kéo tới, giật lui, vần quanh; cũng vậy con sẽ dùng lời nói với lời nói, kéo tới, giật lui, vần quanh Sa-môn Gotama. Cũng như một người lực sĩ nấu rượu, sau khi nhận chìm một thùng rượu lớn xuống hồ nước sâu, nắm một góc thùng, có thể kéo tới, giật lui, vần quanh; cũng vậy, con dùng lời nói với lời nói, kéo tới, giật lui, vần quanh Sa-môn Gotama. Cũng như một lực sĩ nghiện rượu sống phóng đãng, sau khi nắm góc một cái sàng, lắc qua, lắc lại, lắc xoay quanh; cũng vậy, con sẽ dùng lời nói với lời nói, lắc qua, lắc lại, lắc xoay quanh Sa-môn Gotama. Và cũng như một con voi lớn sáu mươi tuổi, sau khi lặn xuống một hồ nước sâu, lại chơi trò phun nước; cũng vậy, con nghĩ, con sẽ chơi trò chơi phun nước với Sa-môn Gotama. Thưa Tôn giả, con sẽ đi và luận chiến với Sa-môn Gotama trong cuộc đàm thoại này.

“Go, householder, refute the ascetic Gotama’s doctrine on this point. For either I should do so, or Dīgha Tapassī, or you.”

-- Này Gia chủ, hãy đi và luận chiến với Sa-môn Gotama trong cuộc đàm thoại này. Vì rằng, này Gia chủ, chỉ có ta hay Nigantha Dighatapassi, hay Ông mới có thể luận chiến với Sa-môn Gotama.

When he said this, Dīgha Tapassī said to Nigaṇṭha Nātaputta, “Sir, I don’t believe it’s a good idea for the householder Upāli to rebut the ascetic Gotama’s doctrine. For the ascetic Gotama is a magician. He knows a conversion magic, and uses it to convert the disciples of those who follow other paths.”

Khi được nói vậy, Nigantha Dighatapassi nói với Nigantha Nataputta:-- Thưa Tôn giả, con không được hài lòng để Gia chủ Upali luận chiến với Sa-môn Gotama. Thưa Tôn giả, Sa-môn Gotama là một huyễn sư, Sa-môn Gotama biết được huyễn thuật lôi cuốn những đệ tử ngoại đạo.

“It is impossible, Tapassī, it cannot happen that Upāli could become Gotama’s disciple. But it is possible that Gotama could become Upāli’s disciple. Go, householder, refute the ascetic Gotama’s doctrine on this point. For either I should do so, or Dīgha Tapassī, or you.”

-- Này Tapassi, không thể có sự kiện, không thể có trường hợp Gia chủ Upali trở thành đệ tử của Sa-môn Gotama; có thể có sự kiện Sa-môn Gotama trở thành đệ tử của gia chủ Upali. Này Gia chủ, hãy đi luận chiến với Sa-môn Gotama trong cuộc đàm thoại này; chỉ có ta, Nigantha Dighatapassi, hay Ông mới có thể luận chiến với Sa-môn Gotama.

For a second time … and a third time, Dīgha Tapassī said to Nigaṇṭha Nātaputta, “Sir, I don’t believe it’s a good idea for the householder Upāli to rebut the ascetic Gotama’s doctrine. For the ascetic Gotama is a magician. He knows a conversion magic, and uses it to convert the disciples of those who follow other paths.”

Lần thứ hai... (như trên)... Lần thứ ba... Nigantha Dighatapassi nói với Nigantha Nataputta:-- Thưa Tôn giả, con không được hài lòng để gia chủ Upali luận chiến với Sa-môn Gotama. Thưa Tôn giả, Sa-môn Gotama là một huyễn sư, Sa-môn Gotama biết được huyễn thuật lôi cuốn những đệ tử ngoại đạo.

“It is impossible, Tapassī, it cannot happen that Upāli could become Gotama’s disciple. But it is possible that Gotama could become Upāli’s disciple. Go, householder, refute the ascetic Gotama’s doctrine on this point. For either I should do so, or Dīgha Tapassī, or you.”

-- Này Tapassi, không thể có sự kiện, không thể có trường hợp gia chủ Upali trở thành đệ tử của Sa-môn Gotama! Có thể có sự kiện Sa-môn Gotama trở thành đệ tử của gia chủ Upali. Này Gia chủ, hãy đi luận chiến với Sa-môn Gotama trong cuộc đàm thoại này; chỉ có ta, Nigantha Dighatapassi và Ông mới có thể luận chiến với Sa-môn Gotama!

“Yes, sir,” replied the householder Upāli to Nigaṇṭha Nāṭaputta. He got up from his seat, bowed, and respectfully circled him, keeping him on his right. Then he went to the Buddha, bowed, sat down to one side, and said to him, “Sir, did the Jain ascetic Dīgha Tapassī come here?”

-- Thưa vâng, Tôn giả.Gia chủ Upali vâng đáp Nigantha Nataputta, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Nigantha Nataputta, thân hữu hướng về Nigantha Nataputta, và đi đến rừng xoài Pavarika, chỗ Thế Tôn ở, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, gia chủ Upali bạch Thế Tôn:-- Bạch Thế Tôn, không biết Nigantha Dighatapassi có đến tại đây không?

“He did, householder.”

-- Này gia chủ, Nigantha Dighatapassi có đến tại đây.

“But did you have some discussion with him?”

-- Bạch Thế Tôn, Thế Tôn có đàm thoại với Nigantha Dighatapassi không?

“I did.”

-- Này Gia chủ, Ta có đàm thoại với Nigantha Dighatapassi.

“And what kind of discussion did you have with him?”

-- Bạch Thế Tôn, cuộc đàm thoại của Thế Tôn với Nigantha Dighatapassi như thế nào?

Then the Buddha informed Upāli of all they had discussed.

Rồi Thế Tôn kể lại cho gia chủ Upali một cách đầy đủ cuộc đàm thoại với Nigantha Dighatapassi,

When he said this, the householder Upāli said to him, “Good, sir, well done by Tapassī! The honorable Tapassī has answered the ascetic Gotama like an educated disciple who rightly understands their teacher’s instructions. For how impressive is the measly mental rod when compared with the substantial physical rod? Rather, the physical rod is the most blameworthy for performing bad deeds, not so much the verbal rod or the mental rod.”

Khi nghe nói vậy, gia chủ Upali bạch Thế Tôn: -- Tốt lành thay, tốt lành thay, Tôn giả Tapassi! Thế Tôn đã được Tôn giả Tapassi trả lời như vậy, một đệ tử đa văn đã hiểu đúng đắn lời dạy bậc Ðạo sư. Làm sao một ý phạt hèn kém có thể sáng chói, so sánh với thân phạt cường đại này được, vì thân phạt thật là tối trọng để tác thành ác nghiệp, để diễn tiến ác nghiệp? Khẩu nghiệp không bằng được, ý nghiệp không bằng được.

“Householder, so long as you debate on the basis of truth, we can have some discussion about this.”

-- Này Gia chủ, nếu Ông có thể đàm luận y cứ trên sự thật, thời ở đây, có thể có cuộc đàm thoại giữa chúng ta.

“I will debate on the basis of truth, sir. Let us have some discussion about this.”

- Bạch Thế Tôn, con sẽ đàm luận y cứ trên sự thật. Mong rằng ở đây có cuộc đàm thoại giữa chúng ta.

“What do you think, householder? Take a Jain ascetic who is sick, suffering, gravely ill. They reject cold water and use only hot water. Not getting cold water, they might die. Now, where does Nigaṇṭha Nātaputta say they would be reborn?”

-- Này Gia chủ, Ông nghĩ thế nào? Ở đây, có người Nigantha, bệnh hoạn, đau khổ, bạo bệnh, từ chối nước lạnh, chỉ uống nước nóng. Người này, vì không được nước lạnh nên mệnh chung. Này Gia chủ, theo Nigantha Nataputta, người ấy tái sanh chỗ nào?

“Sir, there are gods called ‘mind-bound’. They would be reborn there. Why is that? Because they died with mental attachment.”

-- Bạch Thế Tôn, có hàng chư Thiên được gọi là Manosatta (Ý Trước thiên). Ở đấy người ấy tái sanh. Vì sao vậy? Bạch Thế Tôn, vì người ấy chấp trước ý nên mệnh chung.

“Think about it, householder! You should think before answering. What you said before and what you said after don’t match up. But you said that you would debate on the basis of truth.”

-- Gia chủ, Gia chủ! Sau khi suy nghĩ kỹ. Ông hãy trả lời. Lời nói trước của Ông không phù hợp lời nói sau của Ông! Lời nói sau của Ông không phù hợp lời nói trước của Ông! Thế mà này Gia chủ, Ông đã nói như sau: "Bạch Thế Tôn, con sẽ đàm luận y cứ trên sự thật. Mong rằng ở đây sẽ có cuộc đàm thoại giữa chúng ta".

“Even though the Buddha says this, still the physical rod is the most blameworthy for performing bad deeds, not so much the verbal rod or the mental rod.”

-- Bạch Thế Tôn, dầu Thế Tôn có nói như vậy, nhưng chỉ có thân phạt mới là tối trọng để tác thành ác nghiệp, để diễn tiến ác nghiệp. Khẩu phạt không bằng được; ý phạt không bằng được.

“What do you think, householder? Take a Jain ascetic who is restrained in the fourfold restraint: obstructed by all water, devoted to all water, shaking off all water, pervaded by all water. When going out and coming back they accidentally injure many little creatures. Now, what result does Nigaṇṭha Nātaputta say they would incur?”

- Này Gia chủ, Ông nghĩ thế nào? Ở đây, có người Nigantha được phòng hộ với sự phòng hộ của bốn loại chế giới, hoàn toàn tự chế ngự đối với nước, hoàn toàn chú tâm (vào sự chế ngự) đối với nước, hoàn toàn loại trừ đối với nước, hoàn toàn thấm nhuần (với sự chế ngự) đối với nước. Vị này khi đi qua, khi đi lại, đã giết hại rất nhiều sinh vật nhỏ bé. Này Gia chủ, theo Nigantha Nataputta, người ấy thọ quả báo nào?

“Sir, Nigaṇṭha Nātaputta says that unintentional acts are not very blameworthy.”

-- Bạch Thế Tôn, vì không cố ý, nên Nigantha Nataputta xem không phải là một đại tội.

“But if they are intentional?”

-- Này Gia chủ, nếu người ấy có cố ý thời như thế nào?

“Then they are very blameworthy.”

-- Bạch Thế Tôn, là một đại tội.

“But where does Nigaṇṭha Nātaputta say that intention is classified?”

-- Này Gia chủ, ý thức (ấy), Nigantha Nataputta xem thuộc về loại gì?

“In the mental rod, sir.”

-- Bạch Thế Tôn thuộc về ý phạt.

“Think about it, householder! You should think before answering. What you said before and what you said after don’t match up. But you said that you would debate on the basis of truth.”

-- Gia chủ, Gia chủ! Sau khi suy nghĩ. Ông hãy trả lời. Lời nói trước của Ông không phù hợp với lời nói sau của Ông, lời nói sau của Ông không phù hợp lời nói trước của Ông. Thế mà này Gia chủ, Ông đã nói như sau: "Bạch Thế Tôn, con sẽ đàm luận, y cứ trên sự thật. Mong rằng ở đây sẽ có cuộc đàm thoại giữa chúng ta".

“Even though the Buddha says this, still the physical rod is the most blameworthy for performing bad deeds, not so much the verbal rod or the mental rod.”

-- Bạch Thế Tôn, dầu Thế Tôn có nói như vậy, nhưng chỉ có thân phạt mới là tối trọng để tác thành ác nghiệp, để diễn tiến ác nghiệp. Khẩu phạt không bằng được, ý phạt không bằng được.

“What do you think, householder? Is this Nāḷandā successful and prosperous and full of people?”

-- Này Gia chủ, Ông nghĩ thế nào? Có phải Nalanda này là phú cường và phồn thịnh, dân chúng đông đúc, nhân dân trù mật?

“Indeed it is, sir.”

-- Thưa vâng, bạch Thế Tôn. Nalanda này là phú cường và phồn thịnh, dân chúng đông đúc, nhân dân trù mật.

“What do you think, householder? Suppose a man were to come along with a drawn sword and say: ‘In one moment I will reduce all the living creatures within the bounds of Nāḷandā to one heap and mass of flesh!’ What do you think, householder? Could he do that?”

-- Này Gia chủ, Ông nghĩ thế nào? Ở đây, có người đi đến, với thanh kiếm đưa cao, người này nói: "Trong một sát na, trong một giây phút, ta sẽ làm cho tất cả mọi người ở tại Nalanda này thành một đống thịt, thành một khối thịt". Này Gia chủ, Ông nghĩ thế nào? Người ấy có thể trong một sát na, trong một giây phút, làm cho tất cả mọi người ở tại Nalanda này thành một đống thịt, thành một khối thịt không?

“Sir, even ten, twenty, thirty, forty, or fifty men couldn’t do that. How impressive is one measly man?”

-- Bạch Thế Tôn, cho đến mười người, hai mươi người, ba mươi người, bốn mươi người, năm mươi người cũng không có thể, trong một sát na, trong một giây phút, làm cho tất cả mọi người ở tại Nalanda này thành một đống thịt, thành một khối thịt, huống nữa là chỉ một người nhỏ bé sao có thể sáng chói (làm thành) được?

“What do you think, householder? Suppose an ascetic or brahmin with psychic power, who has achieved mastery of the mind, were to come along and say: ‘I will reduce Nāḷandā to ashes with a single malevolent act of will!’ What do you think, householder? Could he do that?”

-- Này Gia chủ, Ông nghĩ thế nào? Ở đây, có vị Sa-môn hay Bà-la-môn đến, có thần thông lực, có tâm tự tại. Vị này nói như sau. "Ta sẽ làm cho Nalanda này trở thành tro tàn với một tâm sân hận". Này Gia chủ, Ông nghĩ thế nào? Vị Sa-môn hay vị Bà-la-môn ấy, có thần thông lực, có tâm tự tại, có thể làm cho Nalanda này trở thành tro tàn với một tâm sân hận không?

“Sir, an ascetic or brahmin with psychic power, who has achieved mastery of the mind, could reduce ten, twenty, thirty, forty, or fifty Nāḷandās to ashes with a single malevolent act of will. How impressive is one measly Nāḷandā?”

-- Bạch Thế Tôn, cho đến mười Nalanda, hai mươi, ba mươi Nalanda, bốn mươi Nalanda, năm mươi Nalanda, vị Sa-môn hay vị Bà-la-môn ấy có thần thông lực, có tâm tự tại có thể làm cho các Nalanda ấy trở thành tro tàn với một tâm sân hận, huống nữa là một Nalanda nhỏ bé này, sao có thể chói sáng được (khỏi bị trở thành tro tàn được)?

“Think about it, householder! You should think before answering. What you said before and what you said after don’t match up. But you said that you would debate on the basis of truth.”

-- Gia chủ, Gia chủ! Sau khi suy nghĩ, Ông hãy trả lời. Lời nói trước của Ông không phù hợp lời nói sau của Ông! Lời nói sau của Ông không phù hợp lời nói trước của Ông! Thế mà này Gia chủ, Ông đã nói như sau: "Bạch Thế Tôn, con sẽ đàm luận y cứ trên sự thật. Mong rằng ở đây sẽ có cuộc đàm luận giữa chúng ta".

“Even though the Buddha says this, still the physical rod is the most blameworthy for performing bad deeds, not so much the verbal rod or the mental rod.”

-- Bạch Thế Tôn, dầu Thế Tôn có nói như vậy, nhưng chỉ có thân phạt mới là tối trọng để tác thành ác nghiệp, để diễn tiến ác nghiệp. Khẩu phạt không bằng được, ý phạt không bằng được.

“What do you think, householder? Have you heard how the wildernesses of Daṇḍaka, Kāliṅga, Mejjha, and Mātaṅga came to be that way?”

-- Này Gia chủ. Ông nghĩ thế nào? Ông có nghe các rừng Dandaka, Kalinga, Mejjha, Matanga đã trở lại thành rừng như trước?

“I have, sir.”

-- Bạch Thế Tôn con có nghe: Các rừng Dandaka, Kalinga, Mejjha, Matanga đã trở lại thành rừng (như trước).

“What have you heard?”

-- Này Gia chủ, Ông nghĩ thế nào? Có thể Ông được nghe vì sao các rừng Dandaka, Kalinga, Mejjha, Matanga trở thành rừng như trước?

“I heard that it was because of a malevolent act of will by hermits that the wildernesses of Daṇḍaka, Kāliṅga, Mejjha, and Mātaṅga came to be that way.”

-- Bạch Thế Tôn, con có nghe, các rừng Dandaka, Kalinga, Mejjha, Matanga trở lại thành rừng (như trước) vì tâm sân hận các vị ẩn sĩ.

“Think about it, householder! You should think before answering. What you said before and what you said after don’t match up. But you said that you would debate on the basis of truth.”

-- Gia chủ, Gia chủ! Sau khi suy nghĩ Ông hãy trả lời. Lời nói trước của Ông không phù hợp lời nói sau của Ông, lời nói sau của Ông không phù hợp lời nói trước của Ông. Thế mà này Gia chủ, Ông đã nói như sau: "Bạch Thế Tôn, con sẽ đàm luận y cứ trên sự thật. Mong rằng ở đây sẽ có cuộc đàm luận giữa chúng ta".

“Sir, I was already delighted and satisfied by the Buddha’s very first simile. Nevertheless, I wanted to hear the Buddha’s various solutions to the problem, so I thought I’d oppose you in this way.

-- Bạch Thế Tôn, với ví dụ đầu tiên, con đã hoan hỷ, con đã thỏa mãn. Những gì con muốn nghe các vấn đáp sai biệt của Thế Tôn, nên con mới nghĩ đóng vai trò đối lập với Thế Tôn.

Excellent, sir! Excellent! As if he were righting the overturned, or revealing the hidden, or pointing out the path to the lost, or lighting a lamp in the dark so people with good eyes can see what’s there, the Buddha has made the teaching clear in many ways. I go for refuge to the Buddha, to the teaching, and to the mendicant Saṅgha. From this day forth, may the Buddha remember me as a lay follower who has gone for refuge for life.”

Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn! Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn! Như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho kẻ bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy, Chánh pháp đã được Tôn giả Gotama dùng nhiều phương tiện, trình bày, giải thích. Vậy nay con quy y Thế Tôn, quy y Pháp, quy y chúng Tỷ-kheo Tăng. Mong Thế Tôn nhận con làm cư sĩ, từ nay cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng.

“Householder, you should act after careful consideration. It’s good for well-known people such as yourself to act after careful consideration.”

-- Này Gia chủ, hãy chín chắn suy tư. Chín chắn suy tư là tốt đẹp với những người trứ danh như Ông.

“Now I’m even more delighted and satisfied with the Buddha, since he tells me to act after careful consideration. For if the followers of other paths were to gain me as a disciple, they’d carry a banner all over Nāḷandā, saying: ‘The householder Upāli has become our disciple!’ And yet the Buddha says: ‘Householder, you should act after careful consideration. It’s good for well-known people such as yourself to act after careful consideration.’

-- Bạch Thế Tôn, con càng bội phần hoan hỷ, bội phần thỏa mãn với những lời Thế Tôn nói với con: "Này Gia chủ, hãy chín chắn suy tư. Chín chắn suy tư là tốt đẹp với những người trứ danh như Ông". Bạch Thế Tôn, nếu các ngoại đạo được con làm đệ tử, họ sẽ trương cờ lên và tuyên bố: "Gia chủ Upali đã trở thành đệ tử chúng tôi". Nhưng Thế Tôn lại nói với con: "Này Gia chủ, hãy chín chắn suy tư. Chín chắn suy tư là tốt đẹp với những người trứ danh như Ông".

For a second time, I go for refuge to the Buddha, to the teaching, and to the mendicant Saṅgha. From this day forth, may the Buddha remember me as a lay follower who has gone for refuge for life.”

Bạch Thế Tôn, lần thứ hai, con xin quy y Thế Tôn, quy y Pháp và quy y chúng Tỷ-kheo Tăng. Mong Thế Tôn nhận con làm cư sĩ, từ nay cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng.

“For a long time now, householder, your family has been a well-spring of support for the Jain ascetics. You should consider giving to them when they come.”

-- Này Gia chủ, đã từ lâu gia đình Ông như là giếng nước mưa nguồn cho các người Nigantha. Hãy cúng dường các món ăn cho những ai đến với Ông!

“Now I’m even more delighted and satisfied with the Buddha, since he tells me to consider giving to the Jain ascetics when they come. I have heard, sir, that the ascetic Gotama says this: ‘Gifts should only be given to me, not to others. Gifts should only be given to my disciples, not to the disciples of others. Only what is given to me is very fruitful, not what is given to others. Only what is given to my disciples is very fruitful, not what is given to the disciples of others.’ Yet the Buddha encourages me to give to the Jain ascetics. Well, sir, we’ll know the proper time for that.

^- Bạch Thế Tôn, con lại bội phần hoan hỷ, bội phần thỏa mãn với những lời Thế Tôn nói với con: "Này Gia chủ, đã từ lâu gia đình của Ông như là giếng nước mưa nguồn cho các người Nigantha. Hãy cúng dường các món ăn cho những ai đến với các Ông". Bạch Thế Tôn, con nghe như sau: "Sa-môn Gotama đã nói: "Chỉ bố thí cho Ta, chớ bố thí cho các người khác. Chỉ bố thí cho các đệ tử Ta, chớ bố thí cho đệ tử những người khác. Chỉ bố thí cho Ta mới có phước lớn, bố thí những người khác không được phước lớn. Chỉ bố thí cho những đệ tử của Ta mới có phước lớn, bố thí cho những đệ tử của những người khác không có phước lớn". Nhưng Thế Tôn lại khuyến khích con bố thí cho các vị Nigantha. Bạch Thế Tôn, và chúng con ở đây sẽ biết thời nên làm.

For a third time, I go for refuge to the Buddha, to the teaching, and to the mendicant Saṅgha. From this day forth, may the Buddha remember me as a lay follower who has gone for refuge for life.”

Bạch Thế Tôn, lần thứ ba, con xin quy y Thế Tôn, quy y Pháp và quy y chúng Tỷ-kheo Tăng. Mong Thế Tôn nhận con làm cư sĩ, từ nay cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng.

Then the Buddha taught the householder Upāli step by step, with a talk on giving, ethical conduct, and heaven. He explained the drawbacks of sensual pleasures, so sordid and corrupt, and the benefit of renunciation. And when he knew that Upāli’s mind was ready, pliable, rid of hindrances, joyful, and confident he explained the special teaching of the Buddhas: suffering, its origin, its cessation, and the path. Just as a clean cloth rid of stains would properly absorb dye, in that very seat the stainless, immaculate vision of the Dhamma arose in Upāli: “Everything that has a beginning has an end.” Then Upāli saw, attained, understood, and fathomed the Dhamma. He went beyond doubt, got rid of indecision, and became self-assured and independent of others regarding the Teacher’s instructions.

Rồi Thế Tôn thuận thứ thuyết pháp cho gia chủ Upali, tức là thuyết về bố thí, thuyết về giới, thuyết về các cõi trời, trình bày sự nguy hiểm, sự hạ liệt, sự nhiễm ô các dục lạc, những lợi ích của xuất ly. Khi Thế Tôn biết gia chủ Upali tâm đã sẵn sàng, tâm đã nhu thuận, tâm không triền cái, tâm được phấn khởi, tâm được hoan hỷ, Ngài mới thuyết những pháp được chư Phật tán dương đề cao: Khổ, Tập, Diệt, Ðạo. Cũng như một tấm vải thuần bạch, các chấm đen được gột rửa rất dễ thấm màu nhuộm, cũng vậy, chính tại chỗ ngồi ấy, pháp nhãn xa trần ly cấu khởi lên với gia chủ Upali: "Phàm pháp gì được khởi lên, tất cả pháp ấy đều bị tiêu diệt". Rồi gia chủ Upali, thấy pháp, chứng pháp, ngộ pháp, thể nhập vào pháp, nghi ngờ tiêu trừ, do dự diệt tận, đạt được vô sở úy, không y cứ người khác đối với các pháp bậc Ðạo sư.

He said to the Buddha, “Well, now, sir, I must go. I have many duties, and much to do.”

Gia chủ Upali bạch Thế Tôn:-- Bạch Thế Tôn, nay chúng con phải đi, chúng con có nhiều công việc, có nhiều phận sự phải làm.

“Please, householder, go at your convenience.”

-- Này Gia chủ, Ông hãy làm những gì Ông nghĩ là hợp thời.

And then the householder Upāli approved and agreed with what the Buddha said. He got up from his seat, bowed, and respectfully circled the Buddha, keeping him on his right. Then he went back to his own home, where he addressed the gatekeeper, “My good gatekeeper, from this day forth close the gate to Jain monks and nuns, and open it for the Buddha’s monks, nuns, laymen, and laywomen. If any Jain ascetics come, say this to them: ‘Wait, sir, do not enter. From now on the householder Upāli has become a disciple of the ascetic Gotama. His gate is closed to Jain monks and nuns, and opened for the Buddha’s monks, nuns, laymen, and laywomen. If you require alms-food, wait here, they will bring it to you.’”

Rồi Gia chủ Upali hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn, thân bên hữu hướng về Ngài, rồi đi về trú xá của mình, sau khi đến bèn nói với người giữ cửa như sau:-- Từ nay trở đi, này người gác cửa, ta sẽ đóng cửa đối với các nam Nigantha, các nữ Nigantha. Cửa sẽ không đóng đối với các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni, Nam cư sĩ, Nữ cư sĩ của Thế Tôn. Nếu có vị Nigantha nào đến, Ông hãy nói vị ấy như sau: "Tôn giả hãy đứng lại, chớ bước vào! Từ nay trở đi, Gia chủ Upali đã trở thành đệ tử của Sa-môn Gotama. Cửa sẽ đóng đối với nam Nigantha, nữ Nigantha. Cửa sẽ không đóng đối với các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni, nam cư sĩ, nữ cư sĩ của Thế Tôn. Nếu Tôn giả cần đồ ăn, hãy đứng ở đây. Và có người sẽ đem ra ở đây cho Tôn giả".

“Yes, sir,” replied the gatekeeper.

-- Thưa vâng, Tôn giả

Dīgha Tapassī heard that Upāli had become a disciple of the ascetic Gotama. He went to Nigaṇṭha Nātaputta and said to him, “Sir, they say that the householder Upāli has become a disciple of the ascetic Gotama.”

Người giữ cửa vâng đáp gia chủ Upali. Nigantha Dighatapassi nghe như sau: "Gia chủ Upali đã trở thành đệ tử của Sa-môn Gotama". Rồi Nigantha Dighatapassi đi đến chỗ Nigantha Nataputta ở, sau khi đến liền nói với Nigantha Nataputta:-- Thưa Tôn giả, tôi có nghe gia chủ Upali đã trở thành đệ tử của Sa-môn Gotama.

“It is impossible, Tapassī, it cannot happen that Upāli could become Gotama’s disciple. But it is possible that Gotama could become Upāli’s disciple.”

-- Này Tapassi, không thể có sự kiện, không thể có trường hợp gia chủ Upali trở thành đệ tử của Sa-môn Gotama. Và có thể có sự kiện Sa-môn Gotama trở thành đệ tử của gia chủ Upali.

For a second time … and a third time, Dīgha Tapassī said to Nigaṇṭha Nātaputta, “Sir, they say that the householder Upāli has become a disciple of the ascetic Gotama.”

Lần thứ hai... (như trên)... Lần thứ ba Nigantha Dighatapassi nói với Nigantha Nataputta:-- Thưa Tôn giả, tôi có nghe gia chủ Upali đã trở thành đệ tử của Sa-môn Gotama.

“It is impossible, Tapassī, it cannot happen that Upāli could become Gotama’s disciple. But it is possible that Gotama could become Upāli’s disciple.”

-- Này Tapassi, không thể có sự kiện, không thể có trường hợp gia chủ Upali trở thành đệ tử của Sa-môn Gotama. Có thể có sự kiện Sa-môn Gotama trở thành đệ tử của gia chủ Upali.

“Well, sir, I’d better go and find out whether or not Upāli has become Gotama’s disciple.”

-- Thưa Tôn giả, tôi sẽ đi và tìm biết gia chủ Upali có trở thành đệ tử của Sa-môn Gotama hay không.

“Go, Tapassī, and find out whether or not Upāli has become Gotama’s disciple.”

-- Này Tapassi, hãy đi và tìm biết gia chủ Upali có trở thành đệ tử của Sa-môn Gotama hay không.

Then Dīgha Tapassī went to Upāli’s home. The gatekeeper saw him coming off in the distance and said to him, “Wait, sir, do not enter. From now on the householder Upāli has become a disciple of the ascetic Gotama. His gate is closed to Jain monks and nuns, and opened for the Buddha’s monks, nuns, laymen, and laywomen. If you require alms-food, wait here, they will bring it to you.”

Rồi Nigantha Dighatapassi đi đến trú xá của gia chủ Upali. Người giữ cửa thấy Nigantha Dighatapassi ở đường xa đi đến, khi thấy vậy liền nói với Nigantha Dighatapassi:-- Thưa Tôn giả, hãy đứng ở đây, chớ có bước vào! Từ nay trở đi, gia chủ Upali đã trở thành đệ tử của Sa-môn Gotama. Cửa sẽ đóng đối với nam Nigantha, nữ Nigantha. Cửa sẽ không đóng đối với các vị Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni, nam cư sĩ, nữ cư sĩ của Thế Tôn. Nếu Tôn giả cần đồ ăn, hãy đứng ở đây. Có người sẽ đem ra ở đây cho Tôn giả.

Saying, “No, mister, I do not require alms-food,” he turned back and went to Nigaṇṭha Nātaputta and said to him, “Sir, it’s really true that Upāli has become Gotama’s disciple. Sir, I couldn’t get you to accept that it wasn’t a good idea for the householder Upāli to rebut the ascetic Gotama’s doctrine. For the ascetic Gotama is a magician. He knows a conversion magic, and uses it to convert the disciples of those who follow other paths. The householder Upāli has been converted by the ascetic Gotama’s conversion magic!”

-- Này Hiền giả, ta không cần đồ ăn.Nói xong, Nigantha Dighatapassi đi trở lui, đến chỗ Nigantha Nataputta ở, sau khi đến, liền thưa với Nigantha Nataputta: -- Thưa Tôn giả, sự thật là gia chủ Upali đã trở thành đệ tử của Sa-môn Gotama. Về vấn đề này, tôi đã không đồng ý với Tôn giả và đã nói: "Thưa Tôn giả, tôi không được hài lòng để gia chủ Upali luận chiến với Sa-môn Gotama. Thưa Tôn giả, Sa-môn Gotama là một huyễn thuật sư, Sa-môn Gotama biết được huyễn thuật lôi cuốn những đệ tử các ngoại đạo". Thưa Tôn giả, nay gia chủ Upali của Tôn giả đã bị huyễn thuật của Sa-môn Gotama lôi cuốn rồi.

“It is impossible, Tapassī, it cannot happen that Upāli could become Gotama’s disciple. But it is possible that Gotama could become Upāli’s disciple.”

-- Này Tapassi, không thể có sự kiện, không thể có trường hợp gia chủ Upali trở thành đệ tử của Sa-môn Gotama. Có thể có sự kiện Sa-môn Gotama trở thành đệ tử của gia chủ Upali.

For a second time … and a third time, Dīgha Tapassī told Nigaṇṭha Nātaputta that it was really true.

Lần thứ hai... (như trên)... Lần thứ ba, Nigantha Dighatapassi nói với Nigantha Nataputta:

“It is impossible …

-- Thưa Tôn giả, sự thật là gia chủ Upali đã trở thành đệ tử của Sa-môn Gotama. Về vấn đề này, tôi đã không đồng ý với Tôn giả và đã nói: "Thưa Tôn giả, tôi không được yên lòng để gia chủ Upali luận chiến với Sa-môn Gotama. Thưa Tôn giả, Sa-môn Gotama là một huyễn thuật sư. Sa-môn Gotama biết được huyễn thuật lôi cuốn những đệ tử các ngoại đạo. Thưa Tôn giả, nay gia chủ Upali của Tôn giả đã bị huyễn thuật của Sa-môn Gotama lôi cuốn".

Well, Tapassī, I’d better go and find out for myself whether or not Upāli has become Gotama’s disciple.”

- Này Tapassi, không thể có sự kiện, không thể có trường hợp gia chủ Upali trở thành đệ tử của Sa-môn Gotama. Có thể có sự kiện Sa-môn Gotama trở thành đệ tử của gia chủ Upali.

Then Nigaṇṭha Nātaputta went to Upāli’s home together with a large following of Jain ascetics. The gatekeeper saw him coming off in the distance and said to him: ‘Wait, sir, do not enter. From now on the householder Upāli has become a disciple of the ascetic Gotama. His gate is closed to Jain monks and nuns, and opened for the Buddha’s monks, nuns, laymen, and laywomen. If you require alms-food, wait here, they will bring it to you.”

Rồi Nigantha Nataputta cùng với đại chúng Nigantha đi đến trú xá của gia chủ Upali. Người giữ cửa thấy Nigantha Nataputta từ xa đi đến, khi thấy vậy liền nói với Nigantha Nataputta: -- Thưa Tôn giả, hãy đứng ở đây, chớ có bước vào! Từ nay trở đi, gia chủ Upali đã trở thành đệ tử của Sa-môn Gotama. Cửa sẽ đóng đối với các nam Nigantha, các nữ Nigantha. Cửa sẽ không đóng đối với các vị Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni, nam cư sĩ, nữ cư sĩ của Thế Tôn. Thưa Tôn giả, nếu Tôn giả cần các món ăn, hãy đứng ở đây. Có người sẽ đem ra ở đây cho Tôn giả.

“Well then, my good gatekeeper, go to Upāli and say: ‘Sir, Nigaṇṭha Nātaputta is waiting outside the gates together with a large following of Jain ascetics. He wishes to see you.’”

^-- Này người giữ cửa, hãy đi đến gia chủ Upali, sau khi đến, hãy thưa với gia chủ như sau: "Thưa Tôn giả, Nigantha Nataputta cùng với đại chúng Nigantha đang đứng ở ngoài ngưỡng cửa và muốn yết kiến Tôn giả".

“Yes, sir,” replied the gatekeeper. He went to Upāli and relayed what was said. Upāli said to him, “Well, then, my good gatekeeper, prepare seats in the hall of the middle gate.”

- Thưa vâng, Tôn giả. Người giữ cửa vâng đáp Nigantha Nataputta, đi đến gia chủ Upali, sau khi đến liền thưa với gia chủ Upali: -- Thưa Tôn giả, có Nigantha Nataputta cùng với đại chúng Nigantha đang đứng ở ngoài ngưỡng cửa và muốn yết kiến Tôn giả.

“Yes, sir,” replied the gatekeeper. He did as he was asked, then returned to Upāli and said, “Sir, seats have been prepared in the hall of the middle gate. Please go at your convenience.”

-- Này Người giữ cửa, hãy vào soạn các chỗ ngồi trong căn phòng chính giữa có cửa. -- Thưa vâng, Tôn giả. Người giữ cửa vâng đáp gia chủ Upali, sau khi cho vào soạn các chỗ ngồi trong căn phòng chính giữa có cửa, đi đến gia chủ Upali, sau khi đến, liền nói với gia chủ Upali: -- Thưa Tôn giả, các chỗ ngồi trong căn phòng chính giữa có cửa đã được sửa soạn. Tôn giả hãy làm những gì Tôn giả nghĩ là phải thời.

Then Upāli went to the hall of the middle gate, where he sat on the highest and finest seat. He addressed the gatekeeper, “Well then, my good gatekeeper, go to Nigaṇṭha Nātaputta and say to him: ‘Sir, Upāli says you may enter if you wish.’”

Rồi gia chủ Upali đi đến căn phòng chính giữa có cửa, sau khi đến tại chỗ ngồi nào là tối thượng, tối tôn, tối cao và tối thắng, sau khi ngồi trên chỗ ấy, liền bảo người gác cửa: -- Này Người giữ cửa, hãy đi đến Nigantha Nataputta: "Thưa Tôn giả, gia chủ Upali có nói: "Thưa Tôn giả, nếu muốn, Tôn giả hãy vào".

“Yes, sir,” replied the gatekeeper. He went to Nigaṇṭha Nātaputta and relayed what was said.

-- Thưa vâng, Tôn giả. Người giữ cửa vâng đáp gia chủ Upali, đi đến Nigantha Nataputta, sau khi đến, liền nói với Nigantha Nataputta:-- Thưa Tôn giả, Gia chủ Upali có nói: "Thưa Tôn giả, nếu muốn, Tôn giả hãy vào".

Then Nigaṇṭha Nātaputta went to the hall of the middle gate together with a large following of Jain ascetics. Previously, when Upāli saw Nigaṇṭha Nātaputta coming, he would go out to greet him and, having wiped off the highest and finest seat with his upper robe, he would put his arms around him and sit him down. But today, having seated himself on the highest and finest seat, he said to Nigaṇṭha Nātaputta, “There are seats, sir. Please sit if you wish.”

Rồi Nigantha Nataputta với đại chúng Nigantha đi đến căn phòng ở giữa, có cửa. Gia chủ Upali lúc trước mỗi khi thấy Nigantha Nataputta từ xa đi đến, sau khi thấy liền đi ra nghinh tiếp vào tại chỗ nào có chỗ ngồi tối thượng, tối tôn, tối cao và tối thắng, liền lấy thượng y lau chỗ ngồi ấy, giữ lấy và mời Nigantha Nataputta ngồi trên chỗ ngồi ấy. Nhưng tại chỗ có chỗ ngồi tối thượng, tối tôn, tối cao và tối thắng, gia chủ Upali lại ngồi trên chỗ ngồi ấy và nói với Nigantha Nataputta: -- Thưa Tôn giả, có những chỗ ngồi. Nếu muốn, Tôn giả hãy ngồi.

When he said this, Nigaṇṭha Nātaputta said to him: “You’re mad, householder! You’re a moron! You said: ‘I’ll go and refute the ascetic Gotama’s doctrine.’ But you come back caught in the vast net of his doctrine. Suppose a man went to deliver a pair of balls, but came back castrated. Or they went to deliver eyes, but came back blinded. In the same way, you said: ‘I’ll go and refute the ascetic Gotama’s doctrine.’ But you come back caught in the vast net of his doctrine. You’ve been converted by the ascetic Gotama’s conversion magic!”

Khi nghe nói vậy, Nigantha Nataputta nói với gia chủ Upali: -- Này Gia chủ, Ông thật là điên cuồng. Này Gia chủ, Ông thật là ngu si. Ông nói: "Thưa Tôn giả, tôi sẽ đi luận chiến với Sa-môn Gotama". Sau khi đi, Ông đã trở về bị trói buộc trong lưới lớn luận nghị. Này Gia chủ, ví như người đi với hai cao hoàn, đi về với cao hoàn bị thiến. Này Gia chủ, như người đi với hai con mắt, đi về với hai con mắt bị khoét. Cũng vậy, này Gia chủ, Ông nói: "Thưa Tôn giả, con sẽ đi luận chiến với Sa-môn Gotama, sau khi đi đã trở về bị trói buộc trong lưới lớn luận nghị". Này Gia chủ, Ông đã bị huyễn thuật của Sa-môn Gotama lôi cuốn rồi.

“Sir, this conversion magic is excellent. This conversion magic is lovely! If my loved ones—relatives and kin—were to be converted by this, it would be for their lasting welfare and happiness. If all the aristocrats, brahmins, merchants, and workers were to be converted by this, it would be for their lasting welfare and happiness. If the whole world—with its gods, Māras and Brahmās, this population with its ascetics and brahmins, gods and humans—were to be converted by this, it would be for their lasting welfare and happiness. Well then, sir, I shall give you a simile. For by means of a simile some sensible people understand the meaning of what is said.

-- Thưa Tôn giả, vi diệu thay, huyễn thuật lôi cuốn này! Tốt lành thay, huyễn thuật lôi cuốn này! Thưa Tôn giả, nếu bà con huyết thống thân yêu của tôi được huyễn thuật này lôi cuốn, thời thật là an lạc, hạnh phúc lâu dài cho các bà con huyết thống của tôi. Thưa Tôn giả, nếu tất cả các người Sát đế ly được huyễn thuật này lôi cuốn, thời thật là an lạc hạnh phúc lâu dài cho tất cả các vị Sát-đế-lị. Thưa Tôn giả, nếu tất cả các người Bà-la-môn... nếu tất cả các người Vessa (Phệ-xá)... nếu tất cả các người Sudda (Thủ-đà) được huyễn thuật này lôi cuốn, thời thật là an lạc, và hạnh phúc lâu dài cho tất cả các người Sudda. Thưa Tôn giả, nếu thế giới với chư Thiên, chư Ma, chư Phạm thiên, với chúng Sa-môn và Bà-la-môn với chư Thiên và loài Người được huyễn thuật này lôi cuốn, thời như vậy là an lạc, hạnh phúc lâu dài cho thế giới với chư Thiên, chư Ma, chư Phạm thiên, với chúng Sa-môn và Bà-la-môn, với chư Thiên và loài Người. Thưa Tôn giả, tôi sẽ nói cho Tôn giả ví dụ này. Ở đây, những người có trí nhờ ví dụ sẽ biết rõ ý nghĩa của lời nói.

Once upon a time there was an old brahmin, elderly and senior. His wife was a young brahmin lady who was pregnant and approaching the time for giving birth. Then she said to the brahmin, ‘Go, brahmin, buy a baby monkey from the market and bring it back so it can be a playmate for my child.’

hưa Tôn giả, thuở xưa có người Bà-la-môn đã về già, tuổi đã lớn, bậc trưởng lão, có người vợ còn trẻ, trong tuổi thanh xuân, (người vợ này) đang mang thai, sắp đến kỳ sinh nở. Thưa Tôn giả, người vợ trẻ nói với người Bà-la-môn: "Này Bà-la-môn, hãy đi phố mua một con khỉ con đực để cùng chơi với con tôi".

When she said this, the brahmin said to her, ‘Wait, my dear, until you give birth. If your child is a boy, I’ll buy you a male monkey, but if it’s a girl, I’ll buy a female monkey.’

Thưa Tôn giả, được nói vậy, người Bà-la-môn nói với cô vợ trẻ: "Này mình, hãy chờ cho đến khi mình sanh. Nếu mình sanh con trai, tôi sẽ đi chợ mua một con khỉ con đực mang về để cùng chơi với đứa con trai của mình. Còn nếu mình sanh con gái, tôi sẽ đi chợ mua một con khỉ con cái và mang về để cùng chơi với đứa con gái của mình".

For a second time, and a third time she said to the brahmin, ‘Go, brahmin, buy a baby monkey from the market and bring it back so it can be a playmate for my child.’

Thưa Tôn giả, lần thứ hai, người vợ trẻ nói với người Bà-la-môn ấy: "Này Bà-la-môn, hãy đi phố mua một con khỉ con đực để cùng chơi với con tôi". Thưa Tôn giả, lần thứ hai, người Bà-la-môn ấy nói với cô vợ trẻ: "Này mình, hãy chờ cho đến khi mình sanh. Nếu mình sanh con trai, tôi sẽ đi chợ mua một con khỉ con đực mang về để cùng chơi với đứa con trai của mình. Còn nếu mình sanh con gái, tôi sẽ đi chợ mua một con khỉ con cái và mang về để cùng chơi với đứa con gái của mình" Thưa Tôn giả, lần thứ ba, người vợ trẻ nói với người Bà-la-môn ấy: "Này Bà-la-môn, hãy đi phố mua một con khỉ con đực để cùng chơi với con tôi".

Then that brahmin, because of his love for the brahmin lady, bought a male baby monkey at the market, brought it to her, and said, ‘I’ve bought this male baby monkey for you so it can be a playmate for your child.’

Thưa Tôn giả, người Bà-la-môn ấy vì quá yêu thương, quá ái luyến cô vợ trẻ của mình nên đi chợ mua một con khỉ đực, đem về và nói với cô vợ trẻ: "Này mình, đây là con khỉ con đực, tôi mua ở chợ và mang về, hãy để nó cùng chơi với con của mình".

When he said this, she said to him, ‘Go, brahmin, take this monkey to Rattapāṇi the dyer and say, “Mister Rattapāṇi, I wish to have this monkey dyed the color of yellow greasepaint, pounded and re-pounded, and pressed on both sides.”

Thưa Tôn giả, khi nghe nói vậy cô vợ trẻ ấy nói với người Bà-la-môn: "Này Bà-la-môn hãy đi, đem con khỉ con đực này đến Rattapani con người thợ nhuộm, sau khi đến hãy nói với Rattapani con người thợ nhuộm: "Này bạn Rattapani, tôi muốn con khỉ đực này được nhuộm với màu vàng, được khéo đập, khéo ủi xung quanh và cả hai phía được làm thành mềm dịu"

Then that brahmin, because of his love for the brahmin lady, took the monkey to Rattapāṇi the dyer and said, ‘Mister Rattapāṇi, I wish to have this monkey dyed the color of yellow greasepaint, pounded and re-pounded, and pressed on both sides.’

Thưa Tôn giả, người Bà-la-môn ấy vì quá yêu thương, quá ái luyến cô vợ trẻ của mình đem con khỉ con đực này đi đến Rattapani, con người thợ nhuộm, khi đến xong liền nói với Rattapani, con người thợ nhuộm: "Này bạn Rattapani, tôi muốn con khỉ đực này được nhuộm màu vàng, được khéo đập, khéo ủi xung quanh, và cả hai phía được làm thành mềm dịu".

In the same way, the doctrine of the foolish Jains looks fine initially—for fools, not for the astute—but can’t withstand being scrutinized or pressed.

Cũng vậy, thưa Tôn giả, là lý thuyết của những Nigantha ngu si, lý thuyết này có thể ăn nhuộm đối với những người ngu si, chớ không ăn nhuộm đối với người có trí.

Then some time later that brahmin took a new pair of garments to Rattapāṇi the dyer and said, ‘Mister Rattapāṇi, I wish to have this new pair of garments dyed the color of yellow greasepaint, pounded and re-pounded, and pressed on both sides.’

Thưa Tôn giả, người Bà-la-môn ấy, sau một thời gian, lấy một cặp áo mới, đi đến chỗ Rattapani, con người thợ nhuộm, sau khi đến, nói với Rattapani, con người thợ nhuộm: "Này Rattapani, tôi muốn nhuộm cặp áo mới này với màu nhuộm màu vàng, được đập và ủi xung quanh, và cả hai phía được làm thành mềm dịu".

When he said this, Rattapāṇi said to him, ‘Sir, this pair of garments can withstand a dying, a pounding, and a pressing.’

Thưa Tôn giả, được nói vậy, Rattapani, con người thợ nhuộm, nói với người Bà-la-môn ấy: "Thưa Tôn giả, cặp áo mới này của Tôn giả có thể nhuộm được, có thể đập và ủi xung quanh và có thể làm thành mềm dịu"

In the same way, the doctrine of the Buddha looks fine initially—for the astute, not for fools—and it can withstand being scrutinized and pressed.”

Cũng vậy, thưa Tôn giả, là lý thuyết của Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, có thể ăn nhuộm đối với người có trí, không phải đối với người ngu si, có thể đập được, ủi được, và có thể khiến trở thành mềm dịu".

“Householder, the king and his retinue know you as a disciple of Nigaṇṭha Nātaputta. Whose disciple should we remember you as?”

-- Này Gia chủ, quần chúng này gồm cả các vua chưa được biết như sau: "Gia chủ Upali là đệ tử của Nigantha Nataputta". Này Gia chủ, nay chúng tôi xem Gia chủ là đệ tử của ai?

When he had spoken, the householder Upāli got up from his seat, arranged his robe over one shoulder, raised his joined palms in the direction of the Buddha, and said to Nigaṇṭha Nātaputta, “Well then, sir, hear whose disciple I am:

Ðược nói vậy, gia chủ Upali từ chỗ ngồi đứng dậy, đắp thượng y qua một bên vai, chắp tay vái chào về hướng Thế Tôn và nói với Nigantha Nataputta: -- Thưa Tôn giả, hãy nghe, tôi là đệ tử của ai:

The wise one, free of delusion,
rid of barrenness, victor in battle;
he’s untroubled and so even-minded,
with the virtue of an elder and the wisdom of a saint,
immaculate in the midst of it all:
he is the Buddha, and I am his disciple.

Bậc Trí sáng suốt,
Ðoạn trừ si ám.
Phá tan hoang vu,
Chiến thắng địch quân.
Ðau khổ đoạn diệt,
Tâm an bình tĩnh.
Giới đức trưởng thành,
Tuệ đức viên minh.
Phiền não nội tịnh,
Rời trần ly cấu.
Tôi thật chính là,
Ðệ tử Thế Tôn.

He has no indecision, he’s content,
joyful, he has spat out the world’s bait;
he has completed the ascetic’s task as a human,
a man who bears his final body;
he’s beyond compare, he’s stainless:
he is the Buddha, and I am his disciple.

Do dự đoạn trừ,
Biết vừa, biết đủ,
Thế lợi tuyệt không,
Tâm tư hoan hỷ,
Làm Sa-môn hạnh,
Sanh ở nhân gian,
Thân này sau cùng,
Làm người nhân thế.
Bậc Thánh cao nhất,
Rời trần ly cấu.
Tôi thật chính là,
Ðệ tử Thế Tôn.

He’s free of doubt, he’s skillful,
he’s a trainer, an excellent charioteer;
supreme, with brilliant qualities,
confident, his light shines forth;
he has cut off conceit, he’s a hero:
he is the Buddha, and I am his disciple.”

Không tâm do dự,
Khéo hành thiện xảo.
Bậc trì giới luật,
Ðiều ngự tối thượng.
Là Vô Thượng Sĩ,
Sáng chói hào quang,
Nghi hoặc đoạn trừ,
Soi sáng mọi nơi.
Kiêu mạn đoạn tận,
Vô nhân anh hùng.
Tôi thật chính là
Ðệ tử Thế Tôn.

The chief bull, immeasurable,
profound, sagacious;
he is the builder of sanctuary, knowledgeable,
firm in principle and restrained;
he has got over clinging and is liberated:
he is the Buddha, and I am his disciple..

Ngài bậc Ngưu Vương,
Tâm tư vô lượng,
Thâm sâu khôn lường
Bậc thánh Mâu ni,
Tác thành an ổn,
Bậc có Trí tuệ,
An trú Pháp vị,
Tự phòng hộ thân,
Vượt qua tham ái,
Bậc Giải Thoát Trí.
Tôi thật chính là,
Ðệ tử Thế Tôn.

He’s a giant, living remotely,
he’s ended the fetters and is liberated;
he’s skilled in dialogue and cleansed,
with banner put down, desireless;
he’s tamed, and doesn’t proliferate:
he is the Buddha, and I am his disciple.

Ngài bậc Long Vương,
Sống xa thế tục.
Kiết sử đoạn trừ,
Siêu đẳng giải thoát.
Biện tài từ tốn,
Trong sạch thanh tịnh,
Cờ xí triệt hạ,
Tham ái đoạn trừ,
Ðiều ngự nhiếp phục,
Hý luận diệt tận.
Tôi thật chính là,
Ðệ tử Thế Tôn,

He is the seventh sage, free of deceit,
with three knowledges, he has attained to holiness,
he has bathed, he knows philology,
he’s tranquil, he understands what is known;
he crushes resistance, he is the lord:
he is the Buddha, and I am his disciple.

Ðệ nhất tiên nhân.
Không tin lời đồn.
Ba minh thành tựu,
Ðạt quả Phạm thiên.
Tắm sạch thân tâm,
Văn cú thông đạt.
Khinh an yên ổn,
Chánh trí chứng đắc.
Công phá thành trì,
Thiên chủ Ðế thích.
Tôi chính thật là,
Ðệ tử Thế Tôn.

The noble one, self-developed,
he has attained the goal and explains it;
he is mindful, discerning,
neither leaning forward nor pulling back,
he’s unstirred, attained to mastery:
he is the Buddha, and I am his disciple.

Ngài bậc Thánh Giả,
Tự tu tự tập.
Chứng điều phải chứng,
Thuyết giảng hiện tại,
Chánh niệm tỉnh giác,
Thiền quán tinh tế
Không thiên tà dục,
Không nuôi tâm hận.
Giao động không còn,
Thân tâm tự tại.
Tôi chính thật là
Ðệ tử Thế Tôn.

He has risen up, he practices absorption,
not following inner thoughts, he is pure,
independent, and fearless;
secluded, he has reached the peak,
crossed over, he helps others across:
he is the Buddha, and I am his disciple.

Sống theo chánh đạo,
Trầm tư Thiền tưởng,
Nội tâm không nhiễm,
Thanh tịnh trong sạch,
Không trước không chấp,
Không nguyện không cầu,
Ðộc cư độc tọa,
Chứng tối thượng vị,
Ðã vượt qua dòng,
Giúp người vượt qua.
Tôi thật chính là
Ðệ tử Thế Tôn,

He’s peaceful, his wisdom is vast,
with great wisdom, he’s free of greed;
he is the Realized One, the Holy One,
unrivaled, unequaled,
assured, and subtle:
he is the Buddha, and I am his disciple.

Bậc chứng tịch tịnh,
Trí tuệ vô biên,
Trí tuệ quảng đại,
Tham ái đoạn tận.
Ngài là Như Lai,
Ngài là Thiện Thệ,
Không người sánh bằng,
Không ai đồng đẳng,
Giàu đức tự tin,
Viên mãn thành tựu.
Tôi thật chính là,
Ðệ tử Thế Tôn.

He has cut off craving and is awakened,
free of fuming, unsullied;
a mighty spirit worthy of offerings,
best of men, inestimable,
grand, he has reached the peak of glory:
he is the Buddha, and I am his disciple.”

Tham ái đoạn tận,
Giác ngộ chánh giác,
Khói mù tiêu tan,
Ô uế trừ sạch
Xứng đáng cúng dường,
Dạ xoa thanh tịnh.
Vô thượng Thánh nhân,
Không thể cân lường
Ðại nhân Ðại giác
Ðạt đến danh xưng.
Tôi thật chính là,
Ðệ tử Thế Tôn.

“But when did you compose these praises of the ascetic Gotama’s beautiful qualities, householder?”

-- Này Gia chủ, Ông chất chứa những ưu điểm này về Sa-môn Gotama từ bao giờ?

“Sir, suppose there was a large heap of many different flowers. A deft garland-maker or their apprentice could tie them into a colorful garland. In the same way, the Buddha has many beautiful qualities to praise, many hundreds of such qualities. Who, sir, would not praise the praiseworthy?”

-- Thưa Tôn giả, ví như một đống hoa, có nhiều loại khác nhau; người làm vòng hoa thiện xảo hay người đệ tử làm vòng hoa có thể kết thành một vòng hoa có những loại hoa sai biệt. Cũng vậy, thưa Tôn giả, Thế Tôn có nhiều đức tánh, có hàng trăm đức tánh. Thưa Tôn giả, và ai lại không tán thán những bậc đáng tán thán!

Unable to bear this honor paid to the Buddha, Nigaṇṭha Nātaputta spewed hot blood from his mouth there and then.

Vì Nigantha Nataputta không thể nghe lời tán thán Thế Tôn, nên ngay tại chỗ ấy đã thổ ra huyết nóng.

 Chủ biên và điều hành: TT Thích Giác Đẳng.

  Những đóng góp dịch thuật xin gửi về TT Thích Giác Đẳng tại phamdang0308@gmail.com
Cập nhập ngày: Thứ Năm 29-10-2020

Kỹ thuật trình bày: Minh Hạnh & Thiện Pháp

 | | trở về đầu trang | Home page |