I have heard that on one occasion the Blessed One was staying near Vesālī, at the Gabled Hall in the Great Forest. And on that occasion Saccaka the Nigaṇṭha-son was dwelling in Vesālī — a debater, a sophist, [1] well-regarded by people at large. He made this statement before the assembly in Vesālī: "I see no contemplative or brahman, the head of an order, the head of a group, or even one who claims to be an arahant, rightly self-awakened, who — engaged in debate with me — would not shiver, quiver, shake, & break out in sweat under the armpits. Even if I were to engage a senseless stump in debate, it — engaged with me in debate — would shiver, quiver, & shake, to say nothing of a human being."

Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở tại Vesali, rừng Ðại Lâm, tại giảng đường Trùng Các.
Lúc bấy giờ Niganthaputta Saccaka ở tại Vesali tánh ưa luận chiến, biện luận thiện xảo, được số đông tôn kính. Vị này thường tuyên bố cho hội chúng ở Vesali: "Ta không thấy một Sa-môn hay một Bà-la-môn nào, là vị Hội chủ, là vị Giáo trưởng, vị Sư trưởng Giáo hội, dầu tự cho là bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, khi đối thoại với ta, không ai là không run sợ, không hoảng sợ, không khiếp sợ, không ai là không toát mồ hôi nách. Dầu ta có đối thoại với một cột trụ vô tình, cột trụ ấy khi đối thoại với ta cũng run sợ, cũng hoảng sợ, cũng khiếp sợ, huống nữa là một người thường".

Then early in the morning Ven. Assaji [2] adjusted his under robe and — carrying his bowl & robes — went into Vesālī for alms. Saccaka the Nigaṇṭha-son, walking & wandering around Vesālī to exercise his legs, saw Ven. Assaji coming from afar. On seeing him, he went up to him and exchanged courteous greetings with him. After an exchange of friendly greetings & courtesies, he stood to one side. As he was standing there, he said to him,
"Master Assaji, how does Gotama the contemplative discipline his disciples? Or what part of his instruction is generally presented to his disciples?"

Rồi Tôn giả Assaji vào buổi sáng đắp y, cầm bát vào Vesali để khất thực. Niganthaputta Saccaka, thường hay ngao du thiên hạ, thấy Tôn giả Assaji từ xa đi lại. Sau khi thấy, Niganthaputta Saccaka liền đến gần Tôn giả Assaji, nói lên những lời hỏi thăm, chào đón, xã giao rồi đứng một bên. Sau khi đứng một bên, Niganthaputta Saccaka nói với Tôn giả Assaji:
-- Này Tôn giả Assaji, Sa-môn Gotama huấn luyện đệ tử như thế nào? Và có những bộ môn nào mà phần lớn Sa-môn Gotama giảng dạy được dành cho đệ tử?

"Aggivessana, [3] the Blessed One disciplines his disciples in this way; this part of the Blessed One's instruction is generally presented to his disciples: 'Form is inconstant. Feeling is inconstant. Perception is inconstant. Fabrications are inconstant. Consciousness is inconstant. Form is not-self. Feeling is not-self. Perception is not-self. Fabrications are not-self. Consciousness is not-self. All fabrications are inconstant. All phenomena are not-self.' This, Aggivessana, is the way in which the Blessed One disciplines his disciples; this part of the Blessed One's instruction is generally presented to his disciples."

-- Này Aggivessana, như thế này, Thế Tôn huấn luyện đệ tử. Với những bộ môn như thế này, phần lớn Sa-môn Gotama giảng dạy được dành cho đệ tử: "Này các Tỷ-kheo, sắc là vô thường, thọ là vô thường, tưởng là vô thường, hành là vô thường, thức là vô thường. Này các Tỷ-kheo, sắc là vô ngã, thọ là vô ngã, tưởng là vô ngã, hành là vô ngã, thức là vô ngã. Tất cả hành là vô thường, tất cả pháp là vô ngã". Như vậy này Aggivessana, Thế Tôn huấn luyện các đệ tử. Như vậy là các bộ môn mà phần lớn Thế Tôn giảng dạy được dành cho đệ tử.

"What a bad thing to hear we have heard, Master Assaji, when we have heard that Gotama the contemplative teaches this sort of thing. Perhaps sooner or later we might go to meet with Gotama the contemplative. Perhaps there might be some discussion. Perhaps we might pry him away from that evil viewpoint."

-- Này Tôn giả Assaji, thật sự chúng tôi đã thất vọng khi nghe Sa-môn Gotama thuyết giảng như vậy. Rất có thể chúng tôi sẽ gặp Tôn giả Gotama một thời nào đó và tại một chỗ nào đó. Rất có thể sẽ có một cuộc thảo luận. Rất có thể chúng tôi sẽ đoạn trừ ác tà kiến ấy.

Now on that occasion, five hundred Licchavis had gathered at a meeting hall on some business or other.
So Saccaka the Nigaṇṭha-son went to those Licchavis and, on arrival, said to them, "Come out, good Licchavis! Come out, good Licchavis! Today will be my discussion with Gotama the contemplative! If he takes the position with me that was taken with me by his famous disciples, the monk named Assaji, then just as a strong man, seizing a long-haired ram by the hair, would drag him to and drag him fro and drag him all around, in the same way I, statement by statement, will drag Gotama the contemplative to and drag him fro and drag him all around. Just as a strong distillery worker, throwing a large distiller's strainer into a deep water tank and grabbing it by the corners, would drag it to and drag it fro and drag it all around, in the same way I, statement by statement, will drag Gotama the contemplative to and drag him fro and drag him all around. Just as a strong distillery ruffian, grabbing a horse-hair strainer by the corners, would shake it down and shake it out and thump it, in the same way I, statement by statement, will shake Gotama the contemplative down and shake him out and thump him. Just as a sixty-year old elephant, plunging into a deep pond, would amuse itself playing the game of hemp-washing, in the same way I will amuse myself playing the game of hemp-washing Gotama the contemplative, as it were. Come on out, good Licchavis! Come on out, good Licchavis! Today will be my discussion with Gotama the contemplative!"

Lúc bấy giờ, có khoảng độ năm trăm vị Licchavi tập hợp tai giảng đường vì một vài công vụ. Rồi Niganthaputta Saccaka đến chỗ các Licchavi ấy, sau khi đến, liền nói các vị ấy như sau:
-- Hãy đến, các Tôn giả Licchavi; hãy đến các Tôn giả Licchavi. Hôm nay sẽ có cuộc đàm luận giữa Sa-môn Gotama với ta. Nếu Sa-môn Gotama đứng đối thoại với ta như Tỷ-kheo Assaji, một vị đệ tử danh tiếng của ông ta đã làm, thì như một lực sĩ tay nắm chặt lông một con cừu có lông dài, có thể kéo tới, giật lui, vần quanh; cũng vậy, ta dùng lời nói, kéo tới, giật lui, vần quanh Sa-môn Gotama. Cũng như một người lực sĩ nấu rượu, sau khi nhận chìm một thùng rượu lớn xuống hồ nước sâu, nắm một góc thùng có thể kéo tới, giật lui, vần quanh; cũng vậy, ta dùng lời nói, kéo tới, giật lui, vần quanh Sa-môn Gotama. Và cũng như một lực sĩ nghiện rượu, sống phóng đãng, sau khi nắm góc một cái sàng, lắc qua lắc lại, lắc xoay quanh. Cũng vậy, ta sẽ dùng lời nói, lắc qua lắc lại, lắc xoay quanh Sa-môn Gotama. Và cũng như một con voi lớn sáu mươi tuổi, sau khi lặn xuống một hồ nước sâu, lại chơi trò phun nước; cũng vậy, ta nghĩ ta sẽ chơi trò chơi phun nước với Sa-môn Gotama. Hãy đến, các Tôn giả Licchavi. Hãy đến các Tôn giả Licchavi. Hôm nay sẽ có cuộc đàm luận giữa Sa-môn Gotama với ta.

Then some of the Licchavis said,
"Who is Gotama the contemplative that he will refute the statement of Saccaka the Nigaṇṭha-son? It's Saccaka the Nigaṇṭha-son who will refute the statement of Gotama the contemplative."
Some of the Licchavis said,
"Who is Saccaka the Nigaṇṭha-son that he will refute the statement of Gotama the contemplative? It's Gotama the contemplative who will refute the statement of Saccaka the Nigaṇṭha-son."

Một số Licchavi nói như sau:
-- Làm sao Sa-môn Gotama có thể luận thắng Niganthaputta Saccaka? Niganthaputta Saccaka sẽ luận thắng Sa-môn Gotama.
Một số Licchavi lại nói như sau:
-- Làm sao chỉ là Niganthaputta Saccaka lại có thể luận thắng Thế Tôn? Thế Tôn sẽ luận thắng Niganthaputta Saccaka.

So Saccaka the Nigaṇṭha-son, surrounded by five hundred Licchavis, went to the Gabled Hall in the Great Forest.

Rồi Niganthaputta Saccaka với khoảng năm trăm Licchavi vây quanh, cùng đi đến Ðại Lâm, giảng đường Trùng Các.

Now on that occasion a large number of monks were doing walking meditation in the open air. So Saccaka the Nigaṇṭha-son went up to the monks and said, "Where, masters, is Master Gotama now? We want to see Master Gotama."

Lúc bấy giờ một số đông các Tỷ-kheo đang đi qua lại giữa trời. Niganthaputta Saccaka đến các Tỷ-kheo, sau khi đến, liền nói với các vị ấy: -- Chư Tôn giả, nay Tôn giả Gotama ở đâu? Chúng tôi muốn yết kiến Tôn giả Gotama.

"The Blessed One, Aggivessana, having plunged into the Great Forest, is sitting under a certain tree for the day's abiding."

-- Này Aggivessana, Thế Tôn sau khi đi sâu vào rừng Ðại Lâm, đang ngồi dưới một gốc cây để nghỉ trưa.

Then Saccaka the Nigaṇṭha-son together with a large group of Licchavis plunged into the Great Forest and went to the Blessed One. On arrival, he exchanged courteous greetings with the Blessed One. After an exchange of friendly greetings & courtesies, he sat to one side. Some of the Licchavis, having bowed down to the Blessed One, sat to one side. Some of the Licchavis exchanged courteous greetings with the Blessed One and, after an exchange of friendly greetings & courtesies, sat to one side. Some of the Licchavis, having raised their hands palm-to-palm in front of the chest, sat to one side. Some of the Licchavis, after announcing their name and clan, sat to one side. Some of the Licchavis, staying silent, sat to one side.

Rồi Niganthaputta Saccaka cùng với đại chúng Licchavi, sau khi đi sâu vào rừng Ðại Lâm, đến tại chỗ Thế Tôn. Sau khi đến Niganthaputta Saccaka nói lên với Thế Tôn những lời chúc tụng, hỏi thăm xã giao rồi ngồi xuống một bên. Một số Licchavi đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên; một số Licchavi nói lên với Thế Tôn những lời chúc tụng, hỏi thăm xã giao rồi ngồi xuống một bên; một số Licchavi chấp tay vái Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên; một số Licchavi xưng tên họ của mình rồi ngồi xuống một bên; một số Licchavi im lặng ngồi xuống một bên.

As he was sitting there, he said to the Blessed One,
"I would like to question Master Gotama on a certain point, if Master Gotama would grant me the favor of an answer to the question."

Niganthaputta Saccaka sau khi ngồi xuống một bên nói với Thế Tôn:
-- Tôi muốn hỏi Tôn giả Gotama một vấn đề, nếu Tôn giả Gotama cho phép tôi được hỏi.

"Ask, Aggivessana, as you see fit."

-- Này Aggivessana, hãy hỏi như Ông muốn

"How does Master Gotama discipline his disciples? Or what part of his instruction is generally presented to his disciples?"

-- Tôn giả Gotama huấn luyện đệ tử như thế nào? Những bộ môn nào mà phần lớn Sa-môn Gotama giảng dạy được dành cho đệ tử?

"Aggivessana, I discipline my disciples in this way; this part of my instruction is generally presented to my disciples: 'Form is inconstant. Feeling is inconstant. Perception is inconstant. Fabrications are inconstant. Consciousness is inconstant. Form is not-self. Feeling is not-self. Perception is not-self. Fabrications are not-self. Consciousness is not-self. All fabrications are inconstant. All phenomena are not-self.' This, Aggivessana, is the way in which I discipline my disciples; this part of my instruction is generally presented to my disciples."

-- Này Aggivessana, như thế này Ta huấn luyện đệ tử. Với những bộ môn này, phần lớn Ta giảng dạy được dành cho đệ tử: "Này các Tỷ-kheo, sắc là vô thường, thọ là vô thường, tưởng là vô thường, hành là vô thường, thức là vô thường. Này các Tỷ-kheo, sắc là vô ngã, thọ là vô ngã, tưởng là vô ngã, hành là vô ngã, thức là vô ngã. Tất cả hành là vô thường, tất cả pháp là vô ngã". Như vậy, này Aggivessana, Ta huấn luyện các đệ tử. Các bộ môn như vậy, phần lớn ta giảng dạy được dành cho đệ tử.

"A simile occurs to me, Master Gotama."

-- Này Tôn giả Gotama, tôi có một ví dụ.

"Let it occur to you, Aggivessana."

Thế Tôn nói: -- Này Aggivessana, hãy nói lên ví dụ ấy.

"Just as any seeds that exhibit growth, increase, & proliferation, all do so in dependence on the earth; or just as any activities requiring strength that are done, all are done in dependence on the earth; in the same way, Master Gotama, an individual with form as self, taking a stance on form, produces merit or demerit. An individual with feeling as self... with perception as self... with fabrications as self... with consciousness as self, taking a stance on consciousness, produces merit or demerit."

-- Như các hột giống, các cây cỏ này được lớn lên, được trưởng thành, được hưng thịnh là vì tất cả chúng đều y cứ vào đất, nương tựa vào đất. Nhờ vậy các hột giống, các cây cỏ này được lớn lên, được trưởng thành, được hưng thịnh. Tôn giả Gotama, như các công nghiệp nặng nhọc này được tạo tác, tất cả chúng đều y cứ vào đất, nương tựa vào đất. Nhờ vậy, các công nghiệp nặng nhọc này được tạo tác. Cũng vậy, này Tôn giả Gotama, như người này mà tự ngã là sắc, nhờ nương tựa sắc làm thiện sự hay ác sự; như người này mà tự ngã là thọ, nhờ nương tựa thọ làm thiện sự hay ác sự; như người này mà tự ngã là tưởng, nhờ nương tựa tưởng làm thiện sự hay ác sự; như người này mà tự ngã là các hành, nhờ nương tựa các hành làm thiện sự hay ác sự; như người này mà tự ngã là thức, nhờ nương tựa thức làm thiện sự hay ác sự.

"Then, Aggivessana, are you saying, 'Form is my self, feeling is my self, perception is my self, fabrications are my self, consciousness is my self'?"

-- Này Aggivessana, như vậy có phải ông nói: "Sắc là tự ngã của ta, thọ là tự ngã của ta, tưởng là tự ngã của ta, hành là tự ngã của ta, thức là tự ngã của ta"?

"Yes, Master Gotama, I'm saying that 'Form is my self, feeling is my self, perception is my self, fabrications are my self, consciousness is my self.' As does this great multitude." [4]

-- Tôn giả Gotama, như vậy tôi nói: "Sắc là tự ngã của ta, thọ là tự ngã của ta, tưởng là tự ngã của ta, hành là tự ngã của ta, thức là tự ngã của ta". Và như đại chúng này cũng vậy.

"What does this great multitude have to do with you? Please focus just on your own assertion."

-- Này Aggivessana, đại chúng này có quan hệ gì với Ông? Này Aggivessana, hãy giải thích lời nói của Ông.

"Yes, Master Gotama, I'm saying that 'Form is my self, feeling is my self, perception is my self, fabrications are my self, consciousness is my self.'"

-- Tôn giả Gotama, như vậy tôi nói: "Sắc là tự ngã của ta, thọ là tự ngã của ta, tưởng là tự ngã của ta, hành là tự ngã của ta, thức là tự ngã của ta".

"Very well then, Aggivessana, I will cross-question you on this matter. Answer as you see fit. What do you think? Would a consecrated, noble-warrior king — such as King Pasenadi of Kosala or King Ajātasattu Vedehiputta of Magadha — wield the power in his own domain to execute those who deserve execution, to fine those who deserve to be fined, and to banish those who deserve to be banished?"

-- Này Aggivessana, Ta sẽ hỏi Ông trở lại về vấn đề này. Ông có thể trả lời nếu Ông muốn. Này Aggivessana, Ông nghĩ thế nào? Một vị vua Sát-đế-lị đã làm lễ quán đảnh, như vua Pasenadi nước Kosala, vua Ajatasattu, con bà Vedehi nước Magadha, vua này có quyền hành trong quốc gia của mình, muốn giết những ai đáng bị giết, muốn tước đoạt những ai đáng bị tước đoạt, muốn tẩn xuất những ai đáng bị tẩn xuất không?

"Yes, Master Gotama, he would wield the power in his own domain to execute those who deserve execution, to fine those who deserve to be fined, and to banish those who deserve to be banished. Even these oligarchic groups, such as the Vajjians & Mallans, wield the power in their own domains to execute those who deserve execution, to fine those who deserve to be fined, and to banish those who deserve to be banished, [5] to say nothing of a consecrated, noble-warrior king such as King Pasenadi of Kosala, or King Ajātasattu Vedehiputta of Magadha. He would wield it, and he would deserve to wield it."

-- Tôn giả Gotama, một vua Sát-đế-lị đã làm lễ quán đảnh, như vua Pasenadi nước Kosala, vua Ajatasattu, con bà Vedehi nước Magadha, vua này có quyền hành trong quốc gia của mình, muốn giết những ai đáng bị giết, muốn tước đoạt những ai đáng bị tước đoạt, muốn tẩn xuất những ai đáng bị tẩn xuất. Này Tôn giả Gotama, cho đến các giáo đoàn, các đoàn thể, như các Vajji, các Malla, vẫn có quyền hành trong quốc gia của mình, muốn giết những ai đáng bị giết, muốn tước đoạt những ai đáng bị tước đoạt, muốn tẩn xuất những ai đáng bị tẩn xuất, còn nói gì một vua Sát-đế-lị đã làm lễ quán đảnh, như vua Pasenadi nước Kosala, vua Ajatasattu, con bà Vedehi nước Magadha. Này Tôn giả Gotama, vị ấy có quyền hành ấy và xứng đáng có quyền hành ấy.

"What do you think, Aggivessana? When you say, 'Form is my self,' do you wield power over that form: 'May my form be thus, may my form not be thus'?"

-- Này Aggivessana, Ông nghĩ thế nào? Như Ông nói: "Sắc là tự ngã của ta", Ông có quyền hành gì đối với sắc ấy và có nói được rằng: "Sắc của tôi như thế này, sắc của tôi không phải như thế này" không?

When this was said, Saccaka the Nigaṇṭha-son was silent.

Ðược nói vậy Niganthaputta Saccaka giữ im lặng. Lần thứ hai, Thế Tôn nói với Niganthaputta Saccaka:

A second time, the Blessed One said to Saccaka the Nigaṇṭha-son: "What do you think, Aggivessana? When you say, 'Form is my self,' do you wield power over that form: 'May my form be thus, may my form not be thus'?"

-- Này Aggivessana, Ông nghĩ thế nào? Như Ông nói: "Sắc là tự ngã của ta", Ông có quyền hành gì đối với sắc ấy và có nói được rằng: "Sắc của tôi phải như thế này, sắc của tôi không phải như thế này" không?

When this was said, Saccaka the Nigaṇṭha-son was silent a second time.

Lần thứ hai, Niganthaputta Saccaka vẫn giữ im lặng.

Then the Blessed One said to him, "Answer now, Aggivessana. This is not the time to be silent. When anyone doesn't answer when asked a legitimate question by the Tathāgata up to three times, his head splits into seven pieces right here."

Rồi Thế Tôn nói với Niganthaputta Saccaka: -- Này Aggivessana, nay Ông phải trả lời. Nay không phải lúc Ông giữ im lặng nữa. Này Aggivessana, ai được Như Lai hỏi đến lần thứ ba một câu hỏi hợp lý mà không trả lời, thời đầu của người ấy sẽ bị bể ra làm bảy mảnh tại chỗ.

Now on that occasion the spirit (yakkha) Vajirapāṇin [Thunderbolt-in-Hand], carrying an iron thunderbolt, was poised in the air above Saccaka the Nigaṇṭha-son, (thinking,) "If Saccaka the Nigaṇṭha-son doesn't answer when asked a legitimate question by the Blessed One up to three times, I will split his head into seven pieces right here."

Lúc bấy giờ thần Dạ xoa Vajirapani (Kim Cang Thủ) đang cầm một chùy sắt to lớn, cháy đỏ, sáng chói, đứng trên không trên đầu Niganthaputta Saccaka với ý định: "Nếu Thế Tôn hỏi đến câu hỏi thứ ba, một câu hỏi hợp lý mà Niganthaputta Saccaka không trả lời, thì ta sẽ đánh bể đầu nó ra làm bảy mảnh".

The Blessed One saw the spirit Vajirapāṇin, as did Saccaka the Nigaṇṭha-son. So Saccaka — afraid, terrified, his hair standing on end — seeking shelter in the Blessed One, seeking a cave/asylum in the Blessed One, seeking refuge in the Blessed One — said to the Blessed One, "Let Master Gotama ask me. I will answer."

Chỉ có Thế Tôn và Niganthaputta Saccaka mới thấy thần Dạ xoa Vajirapani. Niganthaputta Saccaka sợ hãi, hoảng hốt, lông tóc dựng, ngược, chỉ tìm thấy sự che chở nơi Thế Tôn, chỉ tìm thấy sự an ổn nơi Thế Tôn, chỉ tìm thấy sự nương tựa nơi Thế Tôn, liền bạch Thế Tôn: -- Tôn giả Gotama hãy hỏi tôi, tôi sẽ trả lời.

"What do you think, Aggivessana? When you say, 'Form is my self,' do you wield power over that form: 'May my form be thus, may my form not be thus'?"

-- Này Aggivessana, Ông nghĩ thế nào? Như Ông nói: "Sắc là tự ngã của ta", thì Ông có quyền hành gì đối với sắc ấy và có nói được rằng: "Sắc của tôi phải như thế này, sắc của tôi không phải như thế này" không?

"No, Master Gotama."

-- Thưa không, Tôn giả Gotama.

"Pay attention, Aggivessana, and answer (only) after having paid attention! What you said after isn't consistent with what you said before, nor is what you said before consistent with what you said after.

-- Hãy suy nghiệm kỹ, này Aggivessana. Sau khi suy nghiệm kỹ, này Aggivessana, Ông hãy trả lời. Lời nói cuối của Ông không phù hợp lời nói đầu của Ông, lời nói đầu của Ông không phù hợp lời nói cuối của Ông.

"What do you think, Aggivessana? When you say, 'Feeling is my self... Perception is my self... Fabrications are my self... Consciousness is my self,' do you wield power over that consciousness: 'May my consciousness be thus, may my consciousness not be thus'?"

Này Aggivessana, Ông nghĩ thế nào? Như Ông nói: "Thọ là tự ngã của ta", Ông có quyền hành gì đối với thọ ấy và có nói được, rằng: "Thọ của tôi phải như thế này, thọ của tôi không phải như thế này" không?

"No, Master Gotama."

-- Thưa không, Tôn giả Gotama.

"Pay attention, Aggivessana, and answer (only) after having paid attention! What you said after isn't consistent with what you said before, nor is what you said before consistent with what you said after.

-- Hãy suy nghiệm kỹ, này Aggivessana. Sau khi suy nghiệm kỹ, này Aggivessana, Ông hãy trả lời. Lời nói cuối của Ông không phù hợp lời nói đầu của Ông, lời nói đầu của Ông không phù hợp lời nói cuối của Ông.

"What do you think, Aggivessana? Is form constant or inconstant?"

"Inconstant, Master Gotama."

Này Aggivessana, Sắc là thường hay vô thường ?
-- Là thường, Tôn giả Gotama.

"And is that which is inconstant easeful or stressful?"

"Stressful, Master Gotama."

-- Cái gì vô thường thì cái ấy là khổ hay lạc?

-- Là khổ, Tôn giả Gotama.

"And is it fitting to regard what is inconstant, stressful, subject to change as: 'This is mine. This is my self. This is what I am'?"

"No, Master Gotama."

-- Cái gì vô thường, khổ, biến hoại; có hợp lý chăng khi chánh quán cái ấy là: "Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi"?

-- Thưa không, Tôn giả Gotama.

"...Is feeling constant or inconstant?."

"Inconstant, Master Gotama."...

" ... Thọ là thường hay vô thường?

"Vô thường, Tôn giả Gotama

"...Is perception constant or inconstant?"

"Inconstant, Master Gotama."...

...Tưởng là thường hay vô thường?

"...Vô thường, Tôn giả Gotama"

"...Are fabrications constant or inconstant?"

"Inconstant, Master Gotama."...

"...Hành là thường hay vô thường

"Vô thường, Tôn giả Gotama"

"What do you think, Aggivessana? Is consciousness constant or inconstant?"

"Inconstant, Master Gotama."

-- Này Aggivessana, Ông nghĩ thế nào? Thức là thường hay vô thường?

"Vô thường, Tôn giả Gotama".

""And is that which is inconstant easeful or stressful?"

"Stressful, Master Gotama."

-- Cái gì vô thường là khổ hay lạc?

-- Là khổ, Tôn giả Gotama.

"And is it fitting to regard what is inconstant, stressful, subject to change as: 'This is mine. This is my self. This is what I am'?"

"No, Master Gotama."

-- Cái gì vô thường, khổ, biến hoại; có hợp lý chăng khi chánh quán cái ấy là: "Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi"?

-- Thưa không, Tôn giả Gotama.

"What do you think, Aggivessana? When one adheres to stress, holds to stress, is attached to stress, and envisions of stress that 'This is mine; this is my self; this is what I am,' would he comprehend stress or dwell having totally destroyed stress?"

"How could that be, Master Gotama? No, Master Gotama."

-- Này Aggivessana, Ông nghĩ thế nào? Ai ái luyến khổ, chấp trước khổ, tham đắm khổ, quán khổ và nói: "Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi". Người ấy có thể liễu tri cái khổ của tự mình hay có thể sống trừ diệt khổ không?

-- Làm sao có thể được, Tôn giả Gotama? Không thể như vậy, Tôn giả Gotama.

"That being the case, Aggivessana, don't you adhere to stress, hold to stress, aren't you attached to stress, and don't you envision of stress that 'This is mine. This is my self. This is what I am'?"

"How could that not be the case, Master Gotama? Yes, Master Gotama."

"Trong trường hợp đó, Này Aggivessana, ông không ái luyến khổ, chấp trước khổ, ông không tham đắm khổ, và ông không chấp thủ đây là tôi. " Đây là của tôi. Đây là tự ngã của tôi. Đây là những gì tôi '?

"Làm sao có thể có trường hợp như vậy, Tôn giả Gotama? "

"Suppose a man — in need of heartwood, seeking heartwood, wandering in search of heartwood — were to enter a forest taking a sharp ax. There he would see a large plantain trunk: straight, young, immature. He would cut it at the root and, having cut it at the root, cut off the crown. Having cut off the crown, he would unfurl the leaf sheaths. Unfurling the leaf sheaths, he wouldn't even find sapwood there, to say nothing of heartwood. In the same way, Aggivessana, when you are interrogated, rebuked, & pressed by me with regard to your own statement, you are empty, void, mistaken. But it was you who made this statement before the assembly in Vesālī: 'I see no contemplative or brahman, the head of an order, the head of a group, or even one who claims to be an arahant, rightly self-awakened, who — engaged in debate with me — would not shiver, quiver, shake, & break out in sweat under the armpits. Even if I were to engage a senseless stump in debate, it — engaged with me in debate — would shiver, quiver, & shake, to say nothing of a human being.' But now some drops of sweat coming out of your forehead, drenching your upper robe, are landing on the ground, whereas now I have no sweat on my body."

And the Blessed One uncovered his golden-colored body to the assembly. When this was said, Saccaka the Nigaṇṭha-son fell silent, abashed, sitting with his shoulders drooping, his head down, brooding, at a loss for words.

-- Này Aggivessana, như một người muốn được lõi cây, tìm cầu lõi cây, đi chỗ này chỗ kia tìm kiếm lõi cây. Người ấy cầm một cái búa sắc bén, đi vào rừng. Người ấy có thể thấy ở đây thân một cây chuối lớn thẳng đứng, còn trẻ, không có khúc đốt. Người ấy có thể chặt gốc cây ấy. Sau khi chặt gốc cây, người ấy chặt ngọn cây. Sau khi chặt ngọn cây, người ấy có thể lột ra các lá cuộn tròn. Nhưng khi lột ra các lá cuộn tròn, người ấy không tìm được giác cây, còn nói gì đến lõi cây. Cũng vậy này Aggivessana, khi được Ta hỏi, Ta cật vấn, Ta chất vấn về những lời của Ông, Ông đã tự tỏ ra trống rỗng, trống không, thất bại. Nhưng này Aggivessana, những lời nói mà Ông tuyên bố cho hội chúng ở Vesali: "Ta không thấy một Sa-môn hay Bà-la-môn nào, là vị Hội chủ, là vị Giáo trưởng, vị Sư trưởng Giáo hội, dầu có tự cho là bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, khi đối thoại với Ta, không ai là không run sợ, không hoảng sợ, không khiếp sợ, không ai là không bị toát mồ hôi nách. Dầu Ta có đối thoại với một cột trụ vô tình, cột trụ ấy khi đối thoại với ta cũng run sợ, cũng hoảng sợ, cũng khiếp sợ, huống nữa là một người thường". Nhưng chính từ nơi trán của Ông, này một người thường. Nhưng chính từ nơi trán của ông, này Aggivessana, những giọt mồ hôi đang chảy xuống, sau khi thấm qua thượng y, đang rơi xuống đất. Còn Ta, này Aggivessana, nay không có mồ hôi nào trên thân Ta.
Rồi Thế Tôn để lộ kim thân cho Hội chúng ấy thấy. Khi nghe nói vậy, Niganthaputta Saccaka im lặng, hổ thẹn, thụt vai, cúi đầu, ngồi bàng hoàng, không nói một lời.

Then Dummukha [BadMouth] the Licchavi-son — sensing that Saccaka the Nigaṇṭha-son was silent, abashed, sitting with his shoulders drooping, his head down, brooding, at a loss for words — said to the Blessed One, "Lord, a simile has occurred to me."

"Let it occur to you, Dummukha," the Blessed One said.

Rồi Dummukha, một người con Licchavi, biết được Niganthaputta Saccaka im lặng, hổ thẹn, thụt vai, cúi đầu, ngồi bàng hoàng, không nói một lời, liền bạch Thế Tôn: -- Bạch Thế Tôn, con có một ví dụ.

Thế Tôn nói: -- Này Dummukha, hãy nói lên ví dụ ấy.

"Suppose, lord, that not far from a village or town was a pond. There in it was a crab. Then a number of boys & girls, leaving the village or town, would go to the pond and, on arrival, would go down to bathe in it. Taking the crab out of the water, they would place it on the ground. And whenever the crab extended a leg, the boys or girls would cut it off, break it, and smash it with sticks or stones right there, so that the crab — with all its legs cut off, broken, & smashed — would be unable to get back in the water as before. In the same way, whatever Saccaka the Nigaṇṭha-son's writhings, capers, & contortions, the Blessed One has cut them off, broken them, and smashed them all, so that Saccaka the Nigaṇṭha-son is now unable to approach the Blessed One again for the purpose of debate."

-- Bạch Thế Tôn, như một hồ sen không xa làng hay thị trấn bao nhiêu, ở đây có con cua. Bạch Thế Tôn, rồi một số đông con trai hay con gái đi ra khỏi làng hay thị trấn ấy, đến tại hồ sen kia, sau khi đến, lặn xuống hồ nước ấy bắt con cua lên và đặt nó trên đất khô. Bạch Thế Tôn, khi con cua này thò ra cái càng nào, thì các đứa con trai hay con gái ấy, với cái gậy hay miếng sành, chặt, bẻ gãy và đập nát cái càng ấy. Như vậy, bạch Thế Tôn, con cua ấy bị chặt, bị bẻ gãy, bị đập nát tất cả càng, không thể lội xuống hồ sen ấy như trước. Cũng vậy, bạch Thế Tôn, mọi khúc thuyết, gian kế, tranh luận của Niganthaputta Saccaka đã bị Thế Tôn chặt đứt, bẻ gãy, đập tan. Và nay, bạch Thế Tôn, Niganthaputta Saccaka, không thể đến gặp Thế Tôn, chớ đừng nói là có ý định đàm luận.

When this was said, Saccaka the Nigaṇṭha-son said to Dummukha the Licchavi-son, "Just you wait, Dummukha. Just you wait, Dummukha. You're a big-mouth, Dummukha. [6] We're not taking counsel with you. We're here taking counsel with Master Gotama." [Then, turning to the Buddha,] "Let that be, Master Gotama, our words & those of other ordinary contemplatives & brahmans — prattled prattling, as it were.

Khi được nghe nói vậy, Niganthaputta Saccaka nói với Licchavi Dummukha: -- Ông hãy ngừng nói, Dummukha! Ông hãy ngừng nói, Dummukha! Chúng tôi không đàm luận với Ông. Chúng tôi đang đàm luận với Tôn giả Gotama. Tôn giả Gotama, hãy để yên những lời nói của chúng tôi và lời nói của các Sa-môn, Bà-la-môn khác.

"Now, Master Gotama, to what extent is a disciple of Master Gotama one who carries out his message, carries out his instruction, one who has crossed over & beyond doubt, one with no more questioning, one who has gained fearlessness and dwells independent of others with regard to the Teacher's message?"

Tôi nghĩ cuộc đàm luận vô bổ này thật đáng hối tiếc! Cho đến mức độ nào, một đệ tử Thanh văn của Tôn giả Gotama trở thành tuân phụng giáo điển, chấp nhận giảng huấn, nghi ngờ được đoạn trừ, do dự được diệt tận, thành tựu vô úy, sống trong giáo hội Bổn Sư, khỏi phải nương tựa vào ai?

"There is the case, Aggivessana, where a disciple of mine sees with right discernment any form whatsoever — past, future, or present; internal or external; blatant or subtle; common or sublime; far or near: every form as it has come to be — as 'This is not mine. This is not my self. This is not what I am.'

-- Ở đây, này Aggivessana, đệ tử Thanh văn của Ta, đối với mọi sắc pháp, quá khứ, tương lai, hiện tại, nội hay ngoại, thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần, thấy như thật với chánh trí tuệ là: "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi".

"He sees with right discernment any feeling... any perception... any fabrications... any consciousness whatsoever — past, future, or present; internal or external; blatant or subtle; common or sublime; far or near: every consciousness as it has come to be — as 'This is not mine. This is not my self. This is not what I am.'

Ðối với mọi cảm thọ... đối với mọi tưởng... đối với mọi hành... đối với mọi thức, quá khứ, tương lai, hiện tại, nội hay ngoại, thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần, thấy như thật với chánh trí tuệ là: "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi"

"It's to this extent, Aggivessana, that a disciple of mine is one who carries out my message, carries out my instruction, one who has crossed over & beyond doubt, one with no more questioning, one who has gained fearlessness and dwells independent of others with regard to the Teacher's message."

Cho đến mức độ như vậy, này Aggivessana, một đệ tử Thanh văn của Ta trở thành tuân phụng giáo điển, chấp nhận giảng huấn, nghi ngờ được đoạn trừ, do dự được diệt tân, thành tựu vô úy, sống trong giáo hội Bổn sư, khỏi phải nương tựa một ai.

"And to what extent, Master Gotama, is a monk an arahant, one whose mental effluents are ended, who has reached fulfillment, done the task, laid down the burden, attained the true goal, laid to waste the fetter of becoming, and is released through right gnosis?"

-- Cho đến mức độ nào, này Tôn giả Gotama, Tỷ-kheo là bậc A-la-hán, các lậu hoặc đã tận, tu hành thành mãn, các việc nên làm đã làm, đã đặt gánh nặng xuống, các mục tiêu đã đạt, hữu kiết sử đã đoạn trừ, được chánh trí giải thoát?

"There is the case, Aggivessana, where a monk — having seen with right discernment any form whatsoever — past, future, or present; internal or external; blatant or subtle; common or sublime; far or near: every form as it has come to be — as 'This is not mine. This is not my self. This is not what I am' is, through lack of clinging/sustenance, released.

-- Ở đây, này Aggivessana, Tỷ-kheo đối với bất cứ sắc pháp nào, quá khứ, tương lai, hiện tại, nội hay ngoại, thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần, tất cả các sắc pháp, sau khi như thật quán sát với chánh trí tuệ: "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi", chứng được vô chấp thủ giải thoát.

"Having seen with right discernment any feeling... any perception... any fabrications... any consciousness whatsoever — past, future, or present; internal or external; blatant or subtle; common or sublime; far or near: every consciousness as it has come to be — as 'This is not mine. This is not my self. This is not what I am,' he is, through lack of clinging/sustenance, released.

Ðối với bất cứ thọ nào... bất cứ tưởng nào... bất cứ hành nào... đối với bất cứ thức nào, quá khứ, tương lai, hiện tại, nội hay ngoại, thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần, tất cả các thức, sau khi như thật quán sát với chánh trí tuệ: "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi", chứng được vô chấp thủ giải thoát.

"It's to this extent, Aggivessana, that a monk is an arahant, one whose mental effluents are ended, who has reached fulfillment, done the task, laid down the burden, attained the true goal, laid to waste the fetter of becoming, and is released through right gnosis.

Cho đến mức độ này, này Aggivessana, Tỷ-kheo là bậc A-la-hán, các lậu hoặc đã tận, tu hành thành mãn, các việc nên làm đã làm, đã đặt gánh nặng xuống, các mục tiêu đã đạt, hữu kiết sử đã đoạn trừ, được chánh trí giải thoát.

"One thus released is endowed with three unsurpassables: unsurpassable vision, unsurpassable practice, unsurpassable release. And a monk whose mind is thus released still honors, respects, reveres, & worships the Tathāgata (in this way): "Awakened, the Blessed One teaches the Dhamma for awakening. Tamed, the Blessed One teaches the Dhamma for taming. Tranquil, the Blessed One teaches the Dhamma for tranquility. Having crossed over, the Blessed One teaches the Dhamma for crossing over. Totally unbound, the Blessed One teaches the Dhamma for total Unbinding."

Với tâm giải thoát như vậy, này Aggivessana, Tỷ-kheo thành tựu ba pháp vô thượng: Kiến vô thượng, Ðạo vô thượng, Giải thoát vô thượng. Ðược giải thoát như vậy, này Aggivessana, vị ấy chỉ kính lễ, tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường Như Lai: "Thế Tôn đã giác ngộ, Ngài thuyết pháp để giác ngộ. Thế Tôn đã điều phục, Ngài thuyết pháp để điều phục. Thế Tôn đã tịch tĩnh, Ngài thuyết pháp để tịch tĩnh. Thế Tôn đã vượt qua, Ngài thuyết pháp để vượt qua. Thế Tôn đã chứng Niết-bàn, Ngài thuyết pháp để chứng Niết-bàn".

When this was said, Saccaka the Nigaṇṭha-son said to the Blessed One, "It is we, Master Gotama, who were insolent, we who were reckless, in that we construed that Master Gotama could be attacked statement by statement. For there might be safety for a person who has attacked a rutting elephant, but there is no safety for a person who has attacked Master Gotama. There might be safety for a person who has attacked a mass of fire, but there is no safety for a person who has attacked Master Gotama. There might be safety for a person who has attacked a fanged snake, a poisonous snake, but there is no safety for a person who has attacked Master Gotama. It is we, Master Gotama, who were insolent, we who were reckless, in that we construed that Master Gotama could be attacked statement by statement.

Ðược nghe nói vậy, Niganthaputta bạch với Thế Tôn: -- Tôn giả Gotama, chúng tôi thật là lỗ mãng, chúng tôi thật là khinh suất. Chúng tôi đã dám nghĩ dùng lời nói để luận chiến với Tôn giả Gotama! Này Tôn giả Gotama, rất có thể còn có sự an toàn cho một người chiến đấu với con voi điên, nhưng không thể có sự an toàn cho một người chiến đấu chống Tôn giả Gotama! Này Tôn giả Gotama, rất có thể còn có sự an toàn cho một người chiến đấu chống đám lửa hừng, nhưng không thể có sự an toàn cho một người chiến đấu chống Tôn giả Gotama! Này Tôn giả Gotama, rất có thể còn có sự an toàn cho một người chiến đấu với con rắn độc dữ tợn, nhưng không thể có sự an toàn cho một người chiến đấu với Tôn giả Gotama! Tôn giả Gotama, chúng tôi thật lỗ mãng, chúng tôi thật là khinh xuất. Chúng tôi đã dám nghĩ, dùng lời nói để luận chiến với Tôn giả Gotama!

"May Master Gotama, together with the community of monks, acquiesce to my offer of tomorrow's meal."

The Blessed One acquiesced with silence.

Mong Tôn giả Gotama nhận lời, ngày mai dùng bữa ăn của tôi cùng với chúng Tỷ-kheo!

Thế Tôn im lặng nhận lời.

Then Saccaka the Nigaṇṭha-son, sensing the Blessed One's acquiescence, addressed the Licchavis, "Listen, Master Licchavis. Gotama the contemplative is invited for tomorrow together with the community of monks. Offer to me what you construe to be proper for him."

Rồi Niganthaputta Saccaka, sau khi biết Thế Tôn đã nhận lời, liền nói với các Licchavi: -- Các Tôn giả Licchavi hãy nghe tôi. Sa-môn Gotama ngày mai được mời ăn với chúng Tỷ-kheo. Hãy đem đến cho tôi những gì quý vị nghĩ là hợp thời.

Then, after the night had passed, the Licchavis offered to Saccaka the Nigaṇṭha-son a food offering of approximately five hundred oblation-dishes. Saccaka the Nigaṇṭha-son, after having exquisite staple & non-staple food prepared in his own monastery, announced the time to the Blessed One: "It's time, Master Gotama. The meal is ready."

Rồi những Licchavi ấy, sau khi đêm ấy đã mãn cho đem đến Niganthaputta Saccaka khoảng năm trăm phần cơm cúng dường nấu với sữa. Rồi Niganthaputta Saccaka, tại vườn của mình, cho soạn các món ăn thịnh soạn, loại cứng và loại mềm, rồi cho báo tin giờ cho Thế Tôn: -- Tôn giả Gotama, nay đã đến giờ. Cơm đã sửa soạn xong.

So the Blessed One early in the morning adjusted his under robe and — carrying his bowl & robes — went together with the community of monks to Saccaka the Nigaṇṭha-son's monastery. On arrival, he sat down on a seat laid out. Saccaka the Nigaṇṭha-son, with his own hand, served & satisfied the community of monks headed by the Blessed One with exquisite staple & non-staple food. Then, when the Blessed One had eaten and had removed his hand from his bowl, Saccaka the Nigaṇṭha-son, taking a lower seat, sat down to one side. As he was sitting there, he said to the Blessed One, "Master Gotama, may the merit and accoutrements of the merit of this gift be exclusively for the happiness of the donors."

Rồi Thế Tôn vào buổi sáng đắp y, cầm y bát, đi đến khu vườn của Niganthaputta Saccaka, sau khi đến, Ngài ngồi trên chỗ đã soạn sẵn cùng với chúng Tỷ-kheo. Rồi Niganthaputta Saccaka, tự tay hầu hạ các món ăn thịnh soạn loại cứng và loại mềm cho chúng Tỷ-kheo, cầm đầu là đức Phật. Rồi Niganthaputta sau khi biết Thế Tôn dùng bữa ăn đã xong, tay đã rời khỏi bát, liền lấy một chiếc ghế thấp khác và ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, Niganthaputta Saccaka bạch Thế Tôn: -- Này Tôn giả Gotama, trong cuộc bố thí này, nếu có công đức và công đức địa, mong rằng những vị bố thí sẽ được hưởng hạnh phúc.

"Aggivessana, whatever has come from (giving to) a recipient such as you — not without passion, not without aversion, not without delusion — that will be for the donors. Whatever has come from (giving to) a recipient such as me — without passion, without aversion, without delusion — that will be for you."

-- Này Aggivessana, sẽ có (công đức) cho những người bố thí, đối với người đáng được cúng dường như Ông, dầu Ông không phải là không có tham, không phải là không có sân, không phải là không có si; sẽ có (công đức) cho Ông, này Aggivessana, đối với người đáng được cúng dường như Ta, và Ta là người không có tham, không có sân, không có si.

Notes

1.
In Pali, paṇḍita-vādo, "one who teaches the teaching of the wise." Like the sophists ("wisdom-ists") of Greece who were near contemporaries of the Buddha, Saccaka claimed to be wise, but his wisdom was largely a matter of debater's tricks. Thus it seems appropriate to adopt the Greek label for him.
2.
One of the five brethren to whom the Buddha delivered his first sermon (SN 56.11). Ven. Assaji was also the person who taught Sāriputta the wanderer the brief gist of the Buddha's teaching that immediately inspired Sāriputta to attain the Dhamma eye. See Mv 1.23.1-10.
3.
Aggivessana is Saccaka's clan name.
4.
Saccaka is here attempting to appeal to the prejudices of his audience, a cheap debater's trick.
5.
Again, Saccaka is trying to appeal to the vanity of his audience. He doesn't realize, however, that he is setting himself up for a trap. By tying his audience's vanity to the Buddha's analogy, he cannot later deny that the analogy is valid.
6.
Following the Thai edition here, which reads, "Āgamehi tvaṃ Dummukha. Āgamehi tvaṃ Dummukha. Mukharo'si tvaṃ Dummukha." The Burmese edition here reads, "Just you wait, Dummukha. Just you wait, Dummukha." The Sri Lankan edition reads, "Just you wait, Dummukha. You're a big-mouth, Dummukha."

For more on the Buddha's approach to argument and debate, see Skill in Questions, chapters one and five.

^^^^

 Chủ biên và điều hành: TT Thích Giác Đẳng.

  Những đóng góp dịch thuật xin gửi về TT Thích Giác Đẳng tại phamdang0308@gmail.com
Cập nhập ngày: Thứ Hai 07-7-2014

Kỹ thuật trình bày: Minh Hạnh & Thiện Pháp

Trang trước | Trang kế| trở về đầu trang | Home page |