Evaü me sutaü, ekaü samayaü bhagavà ràjagahe viharati veluvane kalandakanivàpe. Atha kho abhayo ràjakumàro yena nigaõñho nàtaputto1 tenupasaïkami. Upasaïkamitvà nigaõñhaü nàtaputtaü abhivàdetvà ekamantaü nisãdi. Ekamantaü nisinnaü kho abhayaü ràjakumàraü nigaõñho nàtaputto1 etadavoca: ehi tvaü ràjakumàra, samaõassa gotamassa vàdaü àropehi. Evaü te kalyàõo kittisaddo ababhuggacchati2 abhayena ràjakumàrena samaõassa gotamassa evaü mahiddhikassa evaü mahànubhàvassa vàdo àropitoti. Yathà kathaü panà'haü bhante samaõassa gotamassa evaü mahiddhikassa evaü mànubhàvassa vàdaü àropessàmãti.
 

 

Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở tại Rajagaha (Vương Xá), Veluvana (Trúc Lâm), Kalandakanivapa (chỗ nuôi các con sóc). Rồi Vương tử Abhaya (Vô Úy) đi đến Nigantha Nataputta, sau khi đến đảnh lễ Nigantha Nataputta rồi ngồi xuống một bên. Nigantha Nataputta nói với Vương tử Abhaya đang ngồi một bên: -- Này Vương tử, Vương tử hãy đi đến luận chiến với Sa-môn Gotama, và nhờ vậy tiếng đồn tốt đẹp sau đây được truyền đi cho Vương tử: "Sa-môn Gotama có thần lực như vậy, có uy lực như vậy, đã bị Vương tử Abhaya luận chiến".

 

I have heard that on one occasion the Blessed One was staying near Rajagaha in the Bamboo Grove, the Squirrels' Sanctuary. Then Prince Abhaya went to Nigantha Nataputta and on arrival, having bowed down to him, sat to one side. As he was sitting there, Nigantha Nataputta said to him, "Come, now, prince. Refute the words of the contemplative Gotama, and this admirable report about you will spread afar: 'The words of the contemplative Gotama -- so mighty, so powerful -- were refuted by Prince Abhaya!'"

 

Ehi tvaü ràjakumàra, yena samaõo gotamo tenupasaïkama, upasaïkamitvà samaõaü gotamaü evaü vadehi: bhàseyya nu kho bhante tathàgato taü vàcaü yà sà vàcà paresaü appiyà amanàpàti. Sace te samaõo gotamo evaü puññho evaü byàkaroti: bhàseyya ràjakumàra, tathàgato taü vàcaü yà sà vàcà paresaü appiyà amanàpàti. Tamenaü tvaü evaü vadeyyàsi: atha ki¤carahi te bhante puthujjanena nànàkaraõaü, puthujjanopi hi taü vàcaü bhàseyya, yà sà vàcà paresaü appiyà amanàpàti. Sace pana te samaõo gotamo evaü puññho evaü byàkaroti: na ràjakumàra tathàgato taü vàcaü bhàseyya yà sà vàcà paresaü appiyà amanàpàti. Tamenaü tvaü evaü vadeyyàsi: atha ki¤carahi te bhante devadatto byàkato: àpàyiko devadatto, nerayiko devadatto, kappaññho devadatto, atekiccho devadattoti. Tàya ca pana te vàcàya devadatto kupito ahosi anattamanoti. Imaü kho te ràjakumàra, samaõo gotamo ubhato koñikaü pa¤haü puññho samàno neva sakkhiti uggilituü. Neva sakkhiti ogilituü3. Seyyathàpi nàma purisassa ayosiïghàñakaü4 kaõñhe vilaggaü, so neva sakkuõeyya uggilituü, neva sakuõeyya ogilituü. Evameva kho te ràjakumàra samaõo gotamo imaü ubhatokoñikaü pa¤haü puññho samàno neva sakkhiti uggilituü, neva sakkhiti ogilitunti.
 

 

-- Thưa Tôn giả, làm thế nào con có thể luận chiến Sa-môn Gotama có thần lực như vậy, có uy lực như vậy? -- Này Vương tử, hãy đi đến Sa-môn Gotama, sau khi đến hãy nói với Sa-môn Gotama, sau khi đến hãy nói với Sa-môn Gotama như sau: "Bạch Thế Tôn, Như Lai có thể nói lời nói, do lời nói ấy những người khác không ưa, không thích chăng?" Nếu Sa-môn Gotama được Vương tử hỏi như vậy và trả lời như sau: "Này Vương tử, Như Lai có thể nói lời nói, do lời nói ấy những người khác không ưa, không thích", thời Vương tử hãy nói với Sa-môn Gotama: "Bạch Thế Tôn, nếu xử sự như vậy thời có gì sai khác giữa kẻ phàm phu và Ngài? Kẻ phàm phu có thể nói lời nói, do lời nói ấy những người khác không ưa, không thích". Còn nếu Sa-môn Gotama được Vương tử hỏi như vậy và trả lời như sau: "Này Vương tử, Như Lai không có thể nói lời nói, do lời nói ấy những người khác không ưa, không thích", thời Vương tử hãy nói với Sa-môn Gotama: "Bạch Thế Tôn, nếu xử sự như vậy, thời vì sao Devadatta được Ngài trả lời như sau: 'Devadatta phải đọa vào đọa xứ, Devadatta phải đọa vào địa ngục, Devadatta phải đọa trong một kiếp, Devadatta không thể nào cứu chữa được?' Và do Ngài nói những lời như vậy, Devadatta phẫn nộ, không hoan hỷ". Này Vương tử, Sa-môn Gotama khi bị Vương tử hỏi câu hỏi hai móc như vậy, sẽ không có thể nhả ra, cũng không có thể nuốt vào. Ví như một móc sắt bị móc vào cổ họng một người nào, người ấy không có thể nhả ra, cũng không có thể nuốt vào được. Cũng vậy, này Vương tử, Sa-môn Gotama khi bị Vương tử hỏi câu hỏi hai móc như vậy, sẽ không có thể nhả ra, cũng không có thể nuốt vào

 

"But how, venerable sir, will I refute the words of the contemplative Gotama -- so mighty, so powerful?"
"Come now, prince. Go to the contemplative Gotama and on arrival say this: 'Venerable sir, would the Tathagata say words that are unendearing & disagreeable to others?' If the contemplative Gotama, thus asked, answers, 'The Tathagata would say words that are unendearing & disagreeable to others,' then you should say, 'Then how is there any difference between you, venerable sir, and run-of-the-mill people? For even run-of-the-mill people say words that are unendearing & disagreeable to others.' But if the contemplative Gotama, thus asked, answers, 'The Tathagata would not say words that are unendearing & disagreeable to others,' then you should say, 'Then how, venerable sir, did you say of Devadatta that "Devadatta is headed for destitution, Devadatta is headed for hell, Devadatta will boil for an eon, Devadatta is incurable"? For Devadatta was upset & disgruntled at those words of yours.' When the contemplative Gotama is asked this two-pronged question by you, he won't be able to swallow it down or spit it up. Just as if a two-horned chestnut [1] were stuck in a man's throat: he would not be able to swallow it down or spit it up. In the same way, when the contemplative Gotama is asked this two-pronged question by you, he won't be able to swallow it down or spit it up."

 

. Evaü bhanteti kho abhayo ràjakumàro nigaõñhassa nàtaputtassa pañissutvà uññhàyàsanà nigaõñhaü nàtaputtaü abhivàdetvà padakkhiõaü katvà yena bhagavà tenupasaïkami, upasaïkamitvà bhagavantaü abhivàdetvà ekamantaü nisãdi. Ekamantaü nisinnassa kho abhayassa ràjakumàrassa suriyaü oloketvà5 etadahosi. Akàlo kho ajja bhagavato vàdaü àropetuü, svedànàhaü sake nivesane bhagavato vàdaü àropessàmãti bhagavantaü etadavoca: adhivàsetu me bhante
 

 

-- Thưa vâng, Tôn giả. Vương tử Abhaya vâng đáp Nigantha Nataputta, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Nigantha Nataputta, thân bên hữu hướng về ông rồi đi đến Thế Tôn. Sau khi đến, liền đảnh lễ Thế Tôn và ngồi xuống một bên. Vương tử Abhaya đang ngồi một bên, nhìn mặt trời rồi suy nghĩ: "Hôm nay, không phải thời để luận chiến với Sa-môn Gotama. Ngày mai, ta sẽ luận chiến với Sa-môn Gotama tại nhà của ta," liền bạch Thế Tôn: Bạch Thế Tôn, ngày mai mong Thế Tôn nhận lời dùng cơm, cùng ba Tỷ-kheo khác với Ngài là người thứ tư.

 

Responding, "As you say, venerable sir," Prince Abhaya got up from his seat, bowed down to Nigantha Nataputta, circumambulated him, and then went to the Blessed One. On arrival, he bowed down to the Blessed One and sat to one side. As he was sitting there, he glanced up at the sun and thought, "Today is not the time to refute the Blessed One's words. Tomorrow in my own home I will overturn the Blessed One's words." So he said to the Blessed One, "May the Blessed One, together with three others, acquiesce to my offer of tomorrow's meal."

 

Bhagavà svàtanàya attacatuttho bhattanti. Adhivàsesi bhagavà tuõhãbhàvena. Atha kho abhayo ràjakumàro bhagavato adhivàsanaü viditvà uññhàyàsanà bhagavantaü abhivàdetvà padakkhiõaü katvà pakkàmi.
 

 

Thế Tôn im lặng nhận lời. Rồi Vương tử Abhaya, sau khi biết Thế Tôn đã nhận lời, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn, thân bên hữu hướng về Ngài rồi ra đi.

 

The Blessed One acquiesced with silence.
Then Prince Abhaya, understanding the Blessed One's

 

Atha kho bhagavà tassà rattiyà accayena pubbanhasamayaü nivàsetvà pattacãvaraü àdàya yena abhayassa ràjakumàrassa nivesanaü tenupasaïkami, upasaïkamitvà pa¤¤atte àsane nisãdi. Atha kho abhayo ràjakumàro bhagavantaü paõãtena khàdanãyena bhojanãyena sahatthà santappesi. Sampavàresi. Atha kho abhayo ràjakumàro bhagavantaü bhuttàviü onãtapattapàõiü a¤¤ataraü nãcaü àsanaü gahetvà ekamantaü nisãdi. Ekamantaü nisinno kho abhayo ràjakumàro bhagavantaü etadavoca:
 

 

Thế Tôn, sau khi đêm ấy đã mãn, vào buổi sáng đắp y, cầm theo y bát, đi đến chỗ của Vương tử Abhaya, sau khi đến liền ngồi trên chỗ đã soạn sẵn. Rồi Vương tử Abhaya tự tay mời mọc, làm cho Thế Tôn thỏa mãn với những món ăn thượng vị, loại cứng và loại mềm. Vương tử Abhaya chờ cho Thế Tôn sau khi đã dùng xong, tay đã rời khỏi bát, liền lấy một ghế thấp khác rồi ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi một bên, Vương tử Abhaya bạch Thế Tôn:

 

Then, after the night had passed, the Blessed One early in the morning put on his robes and, carrying his bowl and outer robe, went to Prince Abhaya's home. On arrival, he sat down on a seat made ready. Prince Abhaya, with his own hand, served & satisfied the Blessed One with fine staple & non-staple foods. Then, when the Blessed One had eaten and had removed his hand from his bowl, Prince Abhaya took a lower seat and sat down to one side. As he was sitting there he said to the Blessed One,

 

'Bhàseyya nu kho bhante tathàgato taü vàcaü yà sà vàcà paresaü appiyà amanàpà'ti. Na kho'ttha1 ràjakumàra ekaüsenàti. Ettha bhante anassuü nigaõñhàti. Kimpana tvaü ràjakumàra evaü vadesi: ']ettha bhante anassuü nigaõñhà'ti. Idàhaü bhante yena nigaõñho nàtaputto tenupasaïkami. Upasaïkamitvà nigaõñhaü nàtaputtaü abhivàdetvà ekamantaü nisãdiü. Ekamantaü nisinnaü kho maü bhante nigaõñho nàtaputto etadavoca: ehi tvaü ràjakumàra, samaõassa gotamassa vàdaü àropehi evaü te kalyàõo kittisaddo abbhuggacchati " abhayena ràjakumàrena samaõassa gotamassa evaü mahiddhikassa evaü mahànubhàvassa vàdo àropito"ti. Evaü vutte ahaü bhante nigaõñhaü nàtaputtaü etadavocaü. Yathà kathampanàhaü bhante samaõassa gotamassa evaü mahiddhikassa evaü mahànubhàvassa vàdaü àropessàmãti. Ehi tvaü ràjakumàra, yena samaõo gotamo tenupasaïkama. Upasaïkamitvà samaõaü gotamaü evaü vadehi: 'bhàseyya nu kho bhante tathàgato taü vàcaü, yà sà vàcà paresaü appiyà amanàpà'ti. Sace te samaõo gotamo evaü puññho evaü byàkaroti: bhàseyya ràjakumàra tathàgato taü vàcaü, yà sà vàcà paresaü appiyà amanàpàti. Tamenaü tvaü evaü vadeyyàsi: atha ki¤carahi te bhante puthujjanena nànàkaraõaü, puthujjanopi hi taü vàcaü bhàseyya, yà sà vàcà paresaü appiyà amanàpàti. Sace pana te samaõo gotamo evaü puññho evaü byàkaroti: 'na ràjakumàra tathàgato taü vàcaü bhàseyya, yà sà vàcà paresaü appiyà amanàpà'ti. Tamenaü tvaü evaü vadeyyàsi: atha ki¤carahi te bhante devadatto byàkato: àpàyiko devadatto, nerayiko devadatto, kappaññho devadatto atekiccho devadattoti. Tàya ca pana te vàcàya devadatto kupito ahosi anattamano'ti. Imaü kho te ràjakumàra samaõo gotamo ubhatokoñikaü pa¤haü puññho samàno neva sakkhiti uggilituü. Neva sakkhiti ogilituü. Seyyathàpi nàma purisassa ayosiïghàñakaü kaõñhe vilaggaü, so neva sakkuõeyya uggilituü, neva sakkuõeyya ogilituü evameva kho te ràjakumàra samaõo gotamo imaü ubhatokoñikaü pa¤haü puññho samàno neva sakkhiti uggilituü, neva sakkhiti ogilitunti.
 

 

Bạch Thế Tôn, Như Lai có thể nói những lời, do những lời ấy người khác không ưa, không thích chăng? -- Này Vương tử, phải chăng ở đây, (câu hỏi) có dụng ý một chiều? -- Bạch Thế Tôn, các vị Nigantha đã bị bại ở đây rồi. -- Này Vương tử, vì sao Vương tử lại nói như vầy: "Bạch Thế Tôn, các vị Nigantha đã bị bại ở đây rồi"? -- Bạch Thế Tôn, ở đây, con đi đến Nigantha Nataputta, sau khi đến con đảnh lễ Nigantha Nataputta rồi ngồi xuống một bên. Bạch Thế Tôn, Nigantha Nataputta nói với con đang ngồi một bên: "Này Vương tử, Vương tử hãy đi đến luận chiến với Sa-môn Gotama, và nhờ vậy tiếng đồn tốt đẹp sau đây được truyền đi cho Vương tử: "Sa-môn Gotama có thần lực như vậy, có uy lực như vậy, đã bị Vương tử Abhaya luận chiến". Bạch Thế Tôn, khi được nói vậy, con thưa với Nigantha Nataputta: "Thưa Tôn giả, nhưng làm thế nào, tôi có thể luận chiến với Sa-môn Gotama, một vị có thần lực như vậy, có uy lực như vậy?" -"Này Vương tử, hãy đi đến Sa-môn Gotama, sau khi đến hãy nói với Sa-môn Gotama như sau: "Bạch Thế Tôn, Như Lai có thể nói lời nói, do lời nói ấy, những người khác không ưa, không thích chăng?" Nếu Sa-môn Gotama được Vương tử hỏi như vậy và trả lời như sau: "Này Vương tử, Như Lai có thể nói lời nói, do lời nói ấy, những người khác không ưa, không thích", thời Vương tử hãy nói với Sa-môn Gotama: "Bạch Thế Tôn, nếu xử sự như vậy, thời có gì sai khác giữa kẻ phàm phu với Ngài? Kẻ phàm phu có thể nói lời nói, do lời nói ấy, những người khác không ưa, không thích". Còn nếu Sa-môn Gotama được Vương tử hỏi như vậy và trả lời như sau: "Này Vương tử, Như Lai không có thể nói lời nói, do lời nói ấy những người khác không ưa, không thích", thời Vương tử hãy nói với Sa-môn Gotama: "Bạch Thế Tôn, nếu xử sự như vậy, thời vì sao Devadatta được Ngài trả lời như sau: Devadatta phải đọa vào đọa xứ, Devadatta phải đọa vào địa ngục, Devadatta phải đọa trong một kiếp, Devadatta không thể nào cứu chữa được? Và vì Ngài nói những lời như vậy, Devadatta phẫn nộ, không hoan hỷ". Này Vương tử, Sa-môn Gotama, khi bị Vương tử hỏi câu hỏi hai móc như vậy, sẽ không thể nhả ra, cũng không thể nuốt vào. Ví như một móc sắt bị mắc vào cổ họng của một người nào, người ấy không có thể nhả ra, cũng không có thể nuốt vào được. Cũng vậy, này Vương tử, Sa-môn Gotama, khi bị Vương tử hỏi câu hỏi hai móc như vậy, sẽ không có thể nhả ra, cũng không có thể nuốt vào".

 

"Prince, there is no categorical yes-or-no answer to that."
"Then right here, venerable sir, the Niganthas are destroyed."
"But prince, why do you say, 'Then right here, venerable sir, the Niganthas are destroyed'?"
"Just yesterday, venerable sir, I went to Nigantha Nataputta and...he said to me...'Come now, prince. Go to the contemplative Gotama and on arrival say this: "Venerable sir, would the Tathagata say words that are unendearing & disagreeable to others?"...Just as if a two-horned chestnut were stuck in a man's throat: he would not be able to swallow it down or spit it up. In the same way, when the contemplative Gotama is asked this two-pronged question by you, he won't be able to swallow it down or spit it up.'"

 

Tena kho pana samayena daharo kumàro mando uttànaseyyako abhayassa ràjakumàrassa aïke nisinno hoti. Atha kho bhagavà abhayaü ràjakumàraü etadavoca: taü kiü [PTS Page ma¤¤asi ràjakumàra, svà'yaü kumàro tuyhaü và pamàdamanvàya dhàtiyà và pamàdamanvàya kaññhaü và kañhalaü và mukhe àhareyya, kinti naü kareyyàsãti. âhareyyassàhaü bhante. Sace ahaü bhante na sakkuõeyyaü àdikeneva àhattuü vàmena hatthena sãsaü paggahetvà1 dakkhiõena hatthena vaïkaïguliü karitvà salohitampi àhareyyaü. Taü kissa hetu: atthi me bhante kumàre anukampàti. Evameva kho ràjakumàra, yaü tathàgato vàcaü jànàti abhåtaü atacchaü anatthasaühitaü, sà ca paresaü appiyà amanàpà, na taü tathàgato vàcaü bhàsati. Yampi tathàgato vàcaü jànàti bhåtaü tacchaü anatthasaühitaü. Sà ca paresaü appiyà amanàpà, tampi tathàgato vàcaü na bhàsati. Ya¤ca kho tathàgato vàcaü jànàti bhåtaü tacchaü atthasaühitaü sà ca paresaü appiyà amanàpà, tatra kàla¤¤å tathàgato hoti tassà vàcàya veyyàkaraõàya. Yaü tathàgato vàcaü jànàti abhåtaü atacchaü anatthasaühitaü sà ca paresaü piyà manàpà, na taü tathàgato vàcaü bhàsati. Yampi tathàgato vàcaü jànàti bhåtaü tacchaü anatthasaühitaü. Sà ca paresaü piyà manàpà, tampi tathàgato vàcaü na bhàsati. Ya¤ca kho tathàgato vàcaü jànàti bhåtaü tacchaü atthasaühitaü. Sà ca paresaü piyà manàpà, tatra kàla¤¤å tathàgato hoti tassà vàcàya veyyàkaraõàya. Taü kissa hetu: atthi ràjakumàra tathàgatassa sattesu anukampàti.
 

 

Lúc bấy giờ, có đứa con nít ngây thơ nằm giữa trên đầu gối của Vương tử Abhaya. Rồi Thế Tôn nói với Vương tử Abhaya: -- Này Vương tử, Vương tử nghĩ thế nào? Nếu đứa con nít này, do sự vô ý của Vương tử, hay do sự vô ý của người vú hầu, thọc một cái que hay nuốt một hòn đá vào trong miệng, vậy Vương tử phải làm gì? -- Bạch Thế Tôn, con phải móc cho ra. Bạch Thế Tôn, nếu con không thể móc ra lập tức, thời với tay trái con nắm đầu nó lại, với tay mặt lấy ngón tay làm như cái móc, con sẽ móc cho vật ấy ra, dầu có phải chảy máu. Vì sao vậy? Bạch Thế Tôn, vì con có lòng thương tưởng đứa trẻ. -- Cũng vậy, này Vương tử, lời nói nào Như Lai biết không như thật, không như chân, không tương ứng với mục đích, và lời nói ấy khiến những người khác không ưa, không thích, thời Như Lai không nói lời nói ấy. Lời nói nào Như Lai biết là như thật, như chân, không tương ứng với mục đích, và lời nói ấy khiến những người khác không ưa, không thích, thời Như Lai không nói lời nói ấy. Và lời nói nào Như Lai biết là như thật, như chân, tương ứng với mục đích, và lời nói ấy khiến những người khác không ưa, không thích, Như Lai ở đây biết thời giải thích lời nói ấy. Lời nói nào Như Lai biết là không như thật, không như chân, không tương ứng với mục đích, và lời nói ấy khiến những người khác ưa thích, Như Lại không nói lời nói ấy. Lời nói nào Như Lai biết là như thật, như chân, không tương ứng với mục đích, và lời nói ấy khiến những người khác ưa và thích, Như Lai không nói lời nói ấy. Và lời nói nào Như Lai biết là như thật, như chân, tương ứng với mục đích, và lời nói ấy khiến những người khác ưa và thích, ở đây, Như Lai biết thời giải thích lời nói ấy. Vì sao vậy? Này Vương tử, Như Lai có lòng thương tưởng đối với các loài hữu tình.

 

Now at that time a baby boy was lying face-up on the prince's lap. So the Blessed One said to the prince,
"What do you think, prince: If this young boy, through your own negligence or that of the nurse, were to take a stick or a piece of gravel into its mouth, what would you do?"
"I would take it out, venerable sir. If I couldn't get it out right away, then holding its head in my left hand and crooking a finger of my right, I would take it out, even if it meant drawing blood. Why is that? Because I have sympathy for the young boy."
"In the same way, prince:
[1] In the case of words that the Tathagata knows to be unfactual, untrue, unbeneficial (or: not connected with the goal), unendearing & disagreeable to others, he does not say them.
[2] In the case of words that the Tathagata knows to be factual, true, unbeneficial, unendearing & disagreeable to others, he does not say them.
[3] In the case of words that the Tathagata knows to be factual, true, beneficial, but unendearing & disagreeable to others, he has a sense of the proper time for saying them.
[4] In the case of words that the Tathagata knows to be unfactual, untrue, unbeneficial, but endearing & agreeable to others, he does not say them.
[5] In the case of words that the Tathagata knows to be factual, true, unbeneficial, but endearing & agreeable to others, he does not say them.
[6] In the case of words that the Tathagata knows to be factual, true, beneficial, and endearing & agreeable to others, he has a sense of the proper time for saying them. Why is that? Because the Tathagata has sympathy for living beings."

 

Yeme bhante khattiyapaõóitàpi bràhmaõapaõóitàpi gahapatipaõóitàpi samaõapaõóitàpi pa¤haü abhisaïkharitvà tathàgataü upasaïkamitvà pucchanti. Pubbeva nu kho etaü bhante bhagavato cetaso parivitakkitaü hoti: 'ye maü upasaïkamitvà evaü pucchissanti. Tesàhaü evaü puññho evaü byàkarissàmã'ti udàhu ñhànaso etaü tathàgataü pañibhàtãti. Tena hi ràjakumàra ta¤¤evettha pañipucchissàmi. Yathà te khameyya. Tathà naü byàkareyyàsi. Taü kiü ma¤¤asi ràjakumàra: kusalo tvaü rathassa aïgapaccaïgànanti. Evaü bhante, kusalo ahaü rathassa aïgapaccaïgànanti, taü kimma¤¤asi ràjakumàra: ye taü upasaïkamitvà evaü puccheyyuü: kiü nàmidaü rathassa aïgapaccaïganti, pubbe nu kho te etaü cetaso parivitakkitaü assa: ye maü upasaïkamitvà evaü pucchissanti tesàhaü evaü puññho evaü byàkarissàmãti. Udàhu ñhànasovetaü taü pañibhàseyyàti. Ahaü hi bhante rathiko sa¤¤atokusalo rathassa aïgapaccaïgànaü, sabbàni me rathassa aïgapaccaïgàni suviditàni, ñhànasovetaü maü pañibhàseyyàti
 

 

-- Bạch Thế Tôn, những Sát-đế-lị có trí, những Bà-la-môn có trí, những Gia chủ có trí, những Sa-môn có trí này, sau khi soạn sẵn câu hỏi, đến Như Lai và hỏi: "Bạch Thế Tôn, không hiểu Thế Tôn có suy nghĩ trước trong trí như sau: "Nếu có những ai đến Ta và hỏi như vậy, được hỏi như vậy, Ta sẽ trả lời như vậy", hay Như Lai trả lời ngay (tại chỗ)?" -- Này Vương tử, nay ở đây Ta sẽ hỏi Vương tử, nếu Vương tử hoan hỷ, hãy trả lời câu hỏi ấy. Này Vương tử, Vương tử nghĩ như thế nào? Vương tử có giỏi về các bộ phận sai biệt một cái xe không? -- Thưa vâng, bạch Thế Tôn, con có giỏi về các bộ phận sai biệt một cái xe. -- Này Vương tử, Vương tử nghĩ thế nào? Nếu có những người đến Vương tử và hỏi như sau: "Bộ phận này của cái xe tên gọi là gì?", không hiểu Vương Tử có suy nghĩ trước trong trí như sau: "Nếu có những ai đến ta, và hỏi ta như vậy, ta sẽ trả lời cho họ như vậy", hay là Vương tử trả lời ngay (tại chỗ)? -- Bạch Thế Tôn, vì con là người đánh xe nổi tiếng, rất giỏi về các bộ phận sai biệt trong một cái xe nên con sẽ trả lời ngay (tại chỗ).

 

"Venerable sir, when wise nobles or priests, householders or contemplatives, having formulated questions, come to the Tathagata and ask him, does this line of reasoning appear to his awareness beforehand -- 'If those who approach me ask this, I -- thus asked -- will answer in this way' -- or does the Tathagata come up with the answer on the spot?" "In that case, prince, I will ask you a counter-question. Answer as you see fit. What do you think: are you skilled in the parts of a chariot?" "Yes, venerable sir. I am skilled in the parts of a chariot."
"And what do you think: When people come & ask you, 'What is the name of this part of the chariot?' does this line of reasoning appear to your awareness beforehand -- 'If those who approach me ask this, I -- thus asked -- will answer in this way' -- or do you come up with the answer on the spot?" "Venerable sir, I am renowned for being skilled in the parts of a chariot. All the parts of a chariot are well-known to me. I come up with the answer on the spot."

 

Evameva kho ràjakumàra ye te khattiyapaõóitàpi bràhmaõapaõóitàpi gahapatipaõóitàpi samaõapaõóitàpi pa¤haü abhisaïkharitvà tathàgataü upasaïkamitvà pucchanti. òhànasovetaü tathàgataü pañibhàti. Taü kissa hetu: sàhi ràjakumàra tathàgatassa dhammadhàtu suppañividdhà yassà dhammadhàtuyà suppañividdhattà ñhànasovetaü tathàgataü pañibhàtãti.
 

 

Cũng vậy, này Vương tử, những Sát-đế-lỵ có trí, những Bà-la-môn có trí, những Gia chủ có trí, những Sa-môn có trí này, sau khi soạn sẵn câu hỏi, đến Như Lai và hỏi, Như Lai sẽ trả lời ngay (tại chỗ). Vì sao vậy? Này Vương tử, pháp giới (Dhammadhatu) đã được Như Lai khéo biết. Và vì Như Lai khéo biết pháp giới nên Như Lai trả lời ngay (tại chỗ).

 

"In the same way, prince, when wise nobles or priests, householders or contemplatives, having formulated questions, come to the Tathagata and ask him, he comes up with the answer on the spot. Why is that? Because the property of the Dhamma is thoroughly penetrated by the Tathagata. From his thorough penetration of the property of the Dhamma, he comes up with the answer on the spot."

 

Evaü vutte abhayo ràjakumàro bhagavantaü etadavoca: abhikkantaü bhante abhikkantaü bhante abhikkantaü bho gotama abhikkantaü bho gotama, seyyathàpi bho gotama nikkujjitaü và ukkujjeyya, pañicchannaü và vivareyya, måëhassa và maggaü àcikkheyya, andhakàre và telapajjotaü dhàreyya, 'cakkhumanto råpàni dakkhintã'ti, evamevaü bhotà gotamena anekapariyàyena dhammo pakàsito. Esàhaü bhavantaü gotamaü saraõaü gacchàmi dhamma¤ca bhikkhusaïgha¤ca. Upàsakaü maü bhavaü gotamo dhàretu ajjatagge pàõupetaü saraõaü gatanti. Abhayaràjakumàrasuttaü aññhamaü.
 

 

Khi được nói vậy, Vương tử Abhaya bạch Thế Tôn: Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn! Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn! Bạch Thế Tôn, như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho kẻ đi lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy, Chánh pháp đã được Thế Tôn dùng nhiều phương tiện trình bày. Nay con quy y Thế Tôn, quy y Pháp và quy y chúng Tỷ-kheo Tăng. Mong Thế Tôn nhận con làm cư sĩ, từ nay cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng.

 

When this was said, Prince Abhaya said to the Blessed One: "Magnificent, venerable sir! Magnificent! Just as if he were to place upright what had been overturned, were to reveal what was hidden, were to show the way to one who was lost, or were to hold up a lamp in the dark so that those with eyes could see forms, in the same way the Blessed One has -- through many lines of reasoning -- made the Dhamma clear. I go to the Blessed One for refuge, to the Dhamma, and to the Sangha of monks. May the Blessed One remember me as a lay follower who has gone to him for refuge, from this day forward, for life."

--- o0o ---

Trách nhiệm tiếng Pali: Cô Tu Nữ Diệu Tịnh

Trình bày: Chánh Hạnh

Cập nhật ngày: 04-10-2006

--- o0o ---

Xin gởi ý kiến bài vở đến TT Thích Giác Đẳng
Email:giacdang@phapluan.com

Cập nhật ngày: 04-10-2006