I have heard that:
On one occasion the Blessed One was staying among the Mallans near a Mallan town named Uruvelakappa. Then early in the morning the Blessed One, having put on his robes and carrying his bowl and outer robe, went into Uruvelakappa for alms. Having gone into Uruvelakappa for alms, after his meal, on his return from his alms round, he said to Ven. Ananda:


Như vầy tôi nghe:
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Malla, tại một thị trấn của dân chúng Malla tên là Uruvelakappa. Rồi Thế Tôn, vào buổi sáng, đắp y, cầm y bát, đi vào Uruvelakappa để khất thực. Khất thực ở Uruvelakappa xong, sau bữa ăn, trên con đường khất thực trở về, Thế Tôn bảo Tôn giả Ànanda, nói rằng:

 

-"Stay right here, Ananda, while I go into the Great Wood for the day's abiding."


-"Này Ànanda, Thầy hăy ở đây, chờ cho Ta vào trong rừng Đại Lâm để nghỉ ban ngày."

 

-"As you say, lord," Ven.
Ananda responded.


-"Thưa vâng, bạch Thế Tôn."
Tôn giả Ànanda vâng đáp Thế Tôn.

 

Then the Blessed One went into the Great Wood and sat down at the root of a certain tree for the day's abiding.


Thế Tôn đi vào rừng Đại Lâm ngồi nghỉ ban ngày tại một gốc cây.

 

Then Tapussa the householder went to Ven. Ananda and, on arrival, having bowed down to him, sat to one side. As he was sitting there he said to Ven. Ananda:


Rồi gia chủ Tapussa đi đến Tôn giả Ànanda, sau khi đến, đảnh lễ Tôn giả Ànanda và ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, gia chủ Tapussa thưa với Tôn giả Ànanda:

 

-"Venerable Ananda, sir, we are householders who indulge in sensuality, delight in sensuality, enjoy sensuality, rejoice in sensuality. For us — indulging in sensuality, delighting in sensuality, enjoying sensuality, rejoicing in sensuality — renunciation seems like a sheer drop-off. Yet I've heard that in this doctrine & discipline the hearts of the very young monks leap up at renunciation, grow confident, steadfast, & firm, seeing it as peace. So right here is where this doctrine & discipline is contrary to the great mass of people: i.e., [this issue of] renunciation."


-"Thưa Tôn giả Ànanda, chúng tôi là người gia chủ, thụ hưởng các dục, vui thích các dục, ưa thích các dục, hoan hỷ các dục. Đối với chúng tôi, thưa Tôn giả, là những gia chủ thụ hưởng các dục, vui thích các dục, hoan hỷ các dục, thật giống như một cái vực thẳm cho chúng tôi là sự xuất ly này. Tuy vậy, thưa Tôn giả, chúng tôi được nghe rằng trong Pháp và Luật này, tâm của các Tỷ-kheo trẻ tuổi hứng khởi trong sự xuất ly, tịnh tính, an trú, giải thoát, v́ thấy rằng đây là an tịnh. Chính ở nơi đây, thưa Tôn giả, là sự sai khác trong Pháp và Luật này giữa các vị Tỷ-kheo và phần đông quần chúng, tức là sự xuất ly này."

 

-"This calls for a talk, householder. Let's go see the Blessed One. Let's approach him and, on arrival, tell him this matter. However he explains it to us, we will bear it in mind."


-"Này Gia chủ, đây là một vấn đề để nói chuyện. Này Gia chủ, chúng ta hăy đi đến yết kiến Thế Tôn, chúng ta hăy đi đến Thế Tôn, sau khi đến, hăy hỏi Thế Tôn về ư nghĩa này. Thế Tôn trả lời như thế nào, chúng ta sẽ như vậy thọ tŕ."

 

-"As you say, sir,"
Tapussa the householder responded to Ven. Ananda.


-"Thưa vâng, Tôn giả."
Gia chủ Tapussa vâng đáp Thế Tôn Ànanda.

 

Then Ven. Ananda, together with Tapussa the householder, went to the Blessed One and, on arrival, having bowed down to him, sat to one side. As he was sitting there he said to the Blessed One:


Rồi Tôn giả Ànanda cùng với gia chủ Tapussa đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Ngài và ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, Tôn giả Ananda bạch Thế Tôn:

 

"Tapussa the householder, here, has said to me, 'Venerable Ananda, sir, we are householders who indulge in sensuality, delight in sensuality, enjoy sensuality, rejoice in sensuality. For us — indulging in sensuality, delighting in sensuality, enjoying sensuality, rejoicing in sensuality — renunciation seems like a sheer drop-off. Yet I've heard that in this doctrine & discipline the hearts of the very young monks leap up at renunciation, grow confident, steadfast, & firm, seeing it as peace. So right here is where this doctrine & discipline is contrary to the great mass of people: i.e., [this issue of] renunciation.'"


Bạch Thế Tôn, gia chủ Tapussa này nói như sau:
-"Thưa Tôn giả Ànanda, chúng tôi là người gia chủ thụ hưởng các dục, vui thích các dục, ưa thích các dục, hoan hỷ các dục. Đối với chúng tôi, thưa Tôn giả, là những gia chủ, thọ hưởng các dục, vui thích các dục, ưa thích các dục, hoan hỷ các dục, thật giống như một cái vực thẳm cho chúng tôi là sự xuất ly này. Tuy vậy, thưa Tôn giả, chúng tôi được nghe rằng trong Pháp và Luật này, tâm của các Tỷ-kheo trẻ tuổi hứng khởi trong sự xuất ly, tịnh tín, an trú, giải thoát, v́ được thấy rằng đây là an tịnh. Chính ở nơi đây, thưa Tôn giả, là sự sai khác trong Pháp và Luật này giữa các Tỷ-kheo và phần đông quần chúng, tức là sự xuất ly này".

 

So it is, Ananda. So it is. Even I myself, before my Awakening, when I was still an unawakened Bodhisatta, thought: 'Renunciation is good. Seclusion is good.' But my heart didn't leap up at renunciation, didn't grow confident, steadfast, or firm, seeing it as peace.


Như vậy là phải, này Ànanda! Như vậy là phải, này Ànanda! Này Ànanda, trước khi Ta giác ngộ, chưa chứng được Chánh Đẳng Giác, c̣n là Bồ-tát, Ta suy nghĩ như sau: "Lành thay, sự xuất ly! Lành thay, sống viễn ly". Nhưng tâm của Ta không có hứng khởi trong sự xuất ly ấy, không có tịnh tín, không có an trú, không có giải thoát, dầu Ta có thấy "Đây là an tịnh".

 

The thought occurred to me: 'What is the cause, what is the reason, why my heart doesn't leap up at renunciation, doesn't grow confident, steadfast, or firm, seeing it as peace?


Này Ànanda, về vấn đề ấy, Ta suy nghĩ như sau: "Do nhân ǵ, do duyên ǵ, tâm Ta không hứng khởi trong sự xuất ly ấy, không có tịnh tín, không có an trú, không có giải thoát, dầu Ta có thấy: "Đây là an tịnh?".

 

Then the thought occurred to me: 'I haven't seen the drawback of sensual pleasures; I haven't pursued [that theme]. I haven't understood the reward of renunciation; I haven't familiarized myself with it. That's why my heart doesn't leap up at renunciation, doesn't grow confident, steadfast, or firm, seeing it as peace.


Rồi này Ànanda, Ta suy nghĩ như sau: "V́ Ta không thấy nguy hiểm trong các dục, v́ Ta không làm cho sung măn sự nguy hiểm ấy, lợi ích của xuất ly chưa được chứng đắc, Ta chưa được thưởng thức lợi ích ấy. Do vậy tâm Ta không hứng khởi trong xuất ly ấy, không tịnh tín, không an trú, không giải thoát, dầu Ta có thấy: "Đây là an tịnh".

 

[1] "Then the thought occurred to me: 'If, having seen the drawback of sensual pleasures, I were to pursue that theme; and if, having understood the reward of renunciation, I were to familiarize myself with it, there's the possibility that my heart would leap up at renunciation, grow confident, steadfast, & firm, seeing it as peace.


Này Ànanda, về vấn đề ấy, Ta suy nghĩ như sau: Nếu sau khi thấy nguy hiểm trong các dục, Ta làm cho sung măn sự nguy hiểm ấy. Sau khi chứng được lợi ích trong sự xuất ly, Ta thưởng thức lợi ích ấy", thời sự kiện này xảy ra: Tâm của Ta có thể hứng khởi trong xuất ly, tịnh tín, an trú, giải thoát, v́ Ta có thấy: "Đây là an tịnh".

 

So at a later time, having seen the drawback of sensual pleasures, I pursued that theme; having understood the reward of renunciation, I familiarized myself with it. My heart leaped up at renunciation, grew confident, steadfast, & firm, seeing it as peace. Then, quite withdrawn from sensuality, withdrawn from unskillful qualities, I entered & remained in the first jhana: rapture & pleasure born from withdrawal, accompanied by directed thought & evaluation.


Rồi này Ànanda, sau một thời gian, sau khi thấy nguy hiểm trong các dục, Ta làm cho sung măn sự nguy hiểm ấy. Sau khi chứng được lợi ích trong sự xuất ly, Ta thưởng thức lợi ích ấy. Và này Ànanda, tâm Ta hứng khởi trong xuất ly, tịnh tín, an trú, giải thoát, v́ Ta thấy: "Đây là an tịnh". Này Ànanda, sau một thời gian Ta ly dục, ly bất thiện pháp, chứng đạt và an trú sơ Thiền, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh có tầm và tứ.

 

As I remained there, I was beset with attention to perceptions dealing with sensuality. That was an affliction for me. Just as pain arises as an affliction for a healthy person, even so the attention to perceptions dealing with sensuality that beset me was an affliction for me.


Do Ta trú với sự an trú này, các tưởng tác ư câu hữu với dục vẫn hiện hành. Như vậy, đối với Ta, đây là một chứng bệnh. Ví như, này Ànanda, đối với người sung sướng, đau khổ có thể khởi lên, như là một chứng bệnh. Cũng vậy, các tưởng tác ư câu hữu với dục vẫn hiện hành ở nơi Ta. Như vậy đối với Ta, đây là một chứng bệnh.

 

[2] "The thought occurred to me: 'What if, with the stilling of directed thought & evaluation, I were to enter & remain in the second jhana: rapture & pleasure born of composure, unification of awareness free from directed thought & evaluation — internal assurance.' But my heart didn't leap up at being without directed thought, didn't grow confident, steadfast, or firm, seeing it as peace.
The thought occurred to me: 'What is the cause, what is the reason, why my heart doesn't leap up at being without directed thought, doesn't grow confident, steadfast, or firm, seeing it as peace?'
Then the thought occurred to me: 'I haven't seen the drawback of directed thought; I haven't pursued that theme. I haven't understood the reward of being without directed thought; I haven't familiarized myself with it.
That's why my heart doesn't leap up at being without directed thought, doesn't grow confident, steadfast, or firm, seeing it as peace.


Rồi này Ànanda, Ta suy nghĩ như sau: "Vậy Ta hăy chỉ tức các tầm và tứ, chứng đạt và an trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tỉnh nhất tâm. Nhưng tâm của Ta không có hứng khởi đối với không có tầm ấy, không có tịnh hứng khởi đối với không có tầm ấy, không có tịnh tín, không có an trú, không có giải thoát, dầu Ta có thấy: "Đây là an tịnh".
Này Ànanda, về vấn đề ấy, Ta suy nghĩ như sau: "Do nhân ǵ, do duyên ǵ, Tâm Ta không hứng khởi đối với không có tầm ấy, không có tịnh tín, không có an trú, không có giải thoát, dầu Ta có thấy: "Đây là an tịnh?"
Rồi Ànanda, Ta suy nghĩ như sau: "V́ Ta không thấy nguy hiểm trong các tầm, v́ Ta không làm cho sung măn sự nguy hiểm ấy, lợi ích không có tầm chưa được chứng đắc, Ta chưa được thưởng thức lợi ích ấy". Do vậy, tâm Ta không hứng khởi đối với không có tầm, không tịnh tín, không an trú, không giải thoát, dầu Ta thấy: "Đây là an tịnh".

 

So at a later time, having seen the drawback of directed thought, I pursued that theme; having understood the reward of being without directed thought, I familiarized myself with it. My heart leaped up at being without directed thought, grew confident, steadfast, & firm, seeing it as peace. With the stilling of directed thought & evaluation, I entered & remained in the second jhana: rapture & pleasure born of composure, unification of awareness free from directed thought & evaluation — internal assurance.


Rồi này Ànanda, sau một thời gian, sau khi thấy nguy hiểm trong các tầm. Ta làm cho sung măn nguy hiểm ấy; sau khi chứng được lợi ích không có tầm, Ta thưởng thức lợi ích ấy. Và này Ànanda, tâm Ta hứng khởi trong không có tầm, tịnh tín, an trú, giải thoát, v́ Ta thấy: "Đây là an tịnh". Này Ànanda, sau một thời gian Ta diệt tầm và tứ, chứng đạt và an trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tỉnh nhất tâm.

 

As I remained there, I was beset with attention to perceptions dealing with directed thought. That was an affliction for me. Just as pain arises as an affliction for a healthy person, even so the attention to perceptions dealing with directed thought that beset me was an affliction for me.


Do Ta trú với sự an trú này, các tưởng tác ư câu hữu với tầm vẫn hiện hành. Như vậy, đối với Ta, đây là một chứng bệnh. Cũng vậy, các tưởng tác ư câu hữu với tầm vẫn hiện hành ở nơi Ta. Như vậy đối với Ta, đây là một chứng bệnh.

 

[3] "The thought occurred to me: 'What if, with the fading of rapture, I were to remain in equanimity, mindful & alert, to be physically sensitive to pleasure, and to enter & remain in the third jhana, of which the Noble Ones declare, "Equanimous & mindful, he has a pleasurable abiding"?' But my heart didn't leap up at being without rapture, didn't grow confident, steadfast, or firm, seeing it as peace. Then the thought occurred to me: 'If, having seen the drawback of directed thought, I were to pursue that theme; and if, having understood the reward of being without directed thought, I were to familiarize myself with it, there's the possibility that my heart would leap up at being without directed thought, grow confident, steadfast, & firm, seeing it as peace.So at a later time, having seen the drawback of rapture, I pursued that theme; having understood the reward of being without rapture, I familiarized myself with it. My heart leaped up at being without rapture, grew confident, steadfast, & firm, seeing it as peace. With the fading of rapture, I remained in equanimity, mindful & alert, physically sensitive to pleasure, and entered & remained in the third jhana, of which the Noble Ones declare, 'Equanimous & mindful, he has a pleasurable abiding.'


Rồi này Ànanda, Ta suy nghĩ như sau: "Vậy ta hăy ly hỷ, trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và an trú Thiền thứ ba. Nhưng này Ànanda , tâm của Ta không hứng khởi đối với không có hỷ ấy, không có tịnh tín, không có an trú, không có giải thoát, dầu Ta có thấy: "Đây là an tịnh". Này Ànanda, về vấn đề ấy, Ta suy nghĩ như sau như sau: "Do nhân ǵ do duyên ǵ, tâm Ta không hứng khởi đối với không có hỷ ấy, không có tịnh tín, không có an trú, không có giải thoát, dầu Ta có thấy: "Đây là an tịnh?". Rồi này Ànanda, Ta suy nghĩ như sau: "V̀ Ta không thấy sự nguy hiểm trong hỷ, v́ Ta không làm cho sung măn sự nguy hiểm ấy, lợi ích không có hỷ chưa được chứng đắc. Ta chưa được thưởng thức lợi ích ấy. Do vậy tâm Ta không hứng khởi đối với không có hỷ ấy, không tịnh tín, không có an trú, không có giải thoát". Này Ànanda, về vấn đề ấy, Ta suy nghĩ như sau: "Nếu sau khi thấy nguy hiểm trong hỷ, Ta làm cho sung măn nguy hiểm ấy. Sau khi chứng được lợi ích trong không có hỷ, Ta thưởng thức được lợi ích trong không có hỷ, Ta thưởng thức lợi ích ấy", thời sự kiện này xảy ra: Tâm của Ta có thể hứng khởi trong không có hỷ, tịnh tín, an trú, giải thoát, v́ Ta có thấy: "Đây là an tịnh". Rồi này Ànanda, sau một thời gian, sau khi thấy nguy hiểm trong hỷ, Ta làm cho sung măn sự nguy hiểm ấy; sau khi chứng được lợi ích trong không có hỷ, Ta thưởng thức lợi ích ấy. Và này Ànanda, tâm Ta hứng khởi trong không có hỷ, tịnh tín, an trú, giải thoát, v́ Ta thấy: "Đây là an tịnh". Này Ànanda, sau một thời gian, Ta ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và an trú Thiền thứ ba.

 

As I remained there, I was beset with attention to perceptions dealing with rapture. That was an affliction for me. Just as pain arises as an affliction for a healthy person, even so the attention to perceptions dealing with rapture that beset me was an affliction for me.


Do Ta trú với sự an trú này, các tưởng tác ư câu hữu với hỷ vẫn hiện hành. Đây đối với Ta, đây là một chứng bệnh. Ví như, này Ànanda, đối với người sung sướng, đau khổ có thể khởi lên như là một chứng bệnh. Cũng vậy các tưởng, tác ư câu hữu với hỷ vẫn hiện hành ở nơi Ta. Như vậy đối với Ta, đây là một chứng bệnh.

 

[4] The thought occurred to me: 'What if, with the abandoning of pleasure & stress — as with the earlier disappearance of elation & distress — I were to enter & remain in the fourth jhana: purity of equanimity & mindfulness, neither-pleasure-nor-pain?' But my heart didn't leap up at being without the pleasure of equanimity, didn't grow confident, steadfast, or firm, seeing it as peace. Then the thought occurred to me: 'If, having seen the drawback of directed thought, I were to pursue that theme; and if, having understood the reward of being without directed thought, I were to familiarize myself with it, there's the possibility that my heart would leap up at being without directed thought, grow confident, steadfast, & firm, seeing it as peace.' So at a later time, having seen the drawback of the pleasure of equanimity, I pursued that theme; having understood the reward of neither-pleasure-nor-pain, I familiarized myself with it. My heart leaped up at neither-pleasure-nor-pain, grew confident, steadfast, & firm, seeing it as peace. With the abandoning of pleasure & stress — as with the earlier disappearance of elation & distress — I entered & remained in the fourth jhana: purity of equanimity & mindfulness, neither-pleasure-nor-pain.


Rồi này Ànanda, Ta suy nghĩ như sau: "Vậy ta hăy đoạn lạc, đoạn khổ, diệt hỷ ưu đă cảm thọ từ trước , chứng và trú Thiền thứ tư không khổ không lạc, xả niệm thanh tịnh. Nhưng tâm của Ta không có hứng khởi đối với không khổ, không lạc, không có tịnh tín, không có an trú, không có giải thoát, dầu Ta có thấy: "Đây là an tịnh". Này Ànanda, về vấn đề ấy, Ta suy nghĩ như sau như sau: "Do nhân ǵ do duyên ǵ, tâm Ta không hứng khởi đối với không khổ, không lạc, không có tịnh tín, không có an trú, không có giải thoát, dầu Ta có thấy: "Đây là an tịnh?". Rồi này Ànanda, Ta suy nghĩ như sau: "V́ Ta không thấy nguy hiểm trong xả lạc, v́ Ta không làm cho sung măn sự nguy hiểm ấy. Lợi ích không khổ, không lạc chưa được chứng đắc. Ta chưa được thưởng thức lợi ích ấy. Do vậy tâm Ta không hứng khởi đối với không khổ, không lạc ấy, không tịnh tín, không có an trú, không giải thoát". Này Ànanda, về vấn đề ấy, Ta suy nghĩ như sau: "Nếu sau khi thấy nguy hiểm trong xả lạc, Ta làm cho sung măn nguy hiểm ấy. Sau khi chứng được lợi ích trong không khổ, không lạc, Ta thưởng thức sự lợi ích ấy", thời sự kiện này xảy ra: Tâm của Ta có thể hứng khởi trong không khổ, không lạc, tịnh tín, an trú, giải thoát, v́ Ta có thấy: "Đây là an tịnh". Rồi này Ànanda, sau một thời gian, sau khi thấy nguy hiểm trong xả lạc, Ta làm cho sung măn sự nguy hiểm ấy; sau khi chứng được lợi ích trong không có hỷ, Ta thưởng thức lợi ích ấy. Và này Ànanda, tâm Ta hứng khởi trong không khổ, không lạc, tịnh tín, an trú, giải thoát, v́ Ta thấy: "Đây là an tịnh". Này Ànanda, sau một thời gian, Ta xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đă cảm thọ từ trước , chứng và trú Thiền thứ tư không khổ không lạc, xả niệm thanh tịnh.

 

As I remained there, I was beset with attention to perceptions dealing with equanimity. That was an affliction for me. Just as pain arises as an affliction for a healthy person, even so the attention to perceptions dealing with equanimity that beset me was an affliction for me.


Do Ta trú với sự an trú này, các tưởng tác ư câu hữu với xả lạc vẫn hiện hành. Như vậy, đối với Ta, đây là một chứng bệnh. Ví như, này Ànanda, đối với người sung sướng, đau khổ có thể khởi lên như là một chứng bệnh. Cũng vậy các tưởng, tác ư câu hữu với hỷ vẫn hiện hành ở nơi Ta. Như vậy đối với Ta, đây là một chứng bệnh.

 

[5] "The thought occurred to me: 'What if, with the complete transcending of perceptions of [physical] form, with the disappearance of perceptions of resistance, and not heeding perceptions of diversity, thinking, "Infinite space," I were to enter & remain in the dimension of the infinitude of space?' But my heart didn't leap up at the dimension of the infinitude of space, didn't grow confident, steadfast, or firm, seeing it as peace. Then the thought occurred to me: 'If, having seen the drawback of directed thought, I were to pursue that theme; and if, having understood the reward of being without directed thought, I were to familiarize myself with it, there's the possibility that my heart would leap up at being without directed thought, grow confident, steadfast, & firm, seeing it as peace. So at a later time, having seen the drawback of forms, I pursued that theme; having understood the reward of the dimension of the infinitude of space, I familiarized myself with it. My heart leaped up at the dimension of the infinitude of space, grew confident, steadfast, & firm, seeing it as peace. With the complete transcending of perceptions of form, with the disappearance of perceptions of resistance, and not heeding perceptions of diversity, thinking, 'Infinite space,' I entered & remained in the dimension of the infinitude of space.


Rồi này Ananda, Ta suy nghĩ như sau: "Vậy Ta hăy vượt qua các sắc tưởng một cách hoàn toàn, chấm dứt các đối ngại tưởng, không tác ư đến các tưởng sai biệt, chứng đạt và an trú Không vô biên xứ. Nhưng tâm của Ta không có hứng khởi đối với Không vô biên xứ, không có tịnh tín, không có an trú, không có giải thoát, dầu Ta có thấy: "Đây là an tịnh". Này Ànanda, về vấn đề ấy, Ta suy nghĩ như sau như sau: "Do nhân ǵ do duyên ǵ, tâm Ta không hứng khởi đối với Không vô biên xứ, không có tịnh tín, không có an trú, không có giải thoát, dầu Ta có thấy: "Đây là an tịnh?". Rồi này Ànanda, Ta suy nghĩ như sau: "V́ Ta không thấy sự nguy hiểm trong các sắc, Ta không làm cho sung măn nguy hiểm ấy, lợi ích của Không vô biên xứ chưa được chứng đắc. Ta chưa được thưởng thức lợi ích ấy. Do vậy tâm Ta không hứng khởi đối với Không vô biên xứ, không tịnh tín, không an trú, không giải thoát". Này Ànanda, về vấn đề ấy, Ta suy nghĩ như sau: "Nếu sau khi thấy nguy hiểm trong các sắc, Ta làm cho sung măn nguy hiểm ấy. Sau khi chứng được lợi ích trong Không vô biên xứ, Ta thưởng thức lợi ích ấy", thời sự kiện này xảy ra: Tâm của Ta có thể hứng khởi trong Không vô biên xứ, tịnh tín, an trú, giải thoát, v́ Ta có thấy: "Đây là an tịnh". Rồi này Ànanda, sau một thời gian, sau khi thấy nguy hiểm trong các sắc, Ta làm cho sung măn nguy hiểm ấy; sau khi chứng được lợi ích trong Không vô biên xứ, Ta thưởng thức lợi ích ấy. Và này Ànanda, tâm Ta hứng khởi trong Không vô biên xứ, tịnh tín, an trú, giải thoát, v́ Ta thấy: "Đây là an tịnh". Này Ànanda, sau một thời gian, Ta vượt qua các sắc tưởng một cách hoàn toàn, chấm dứt các chướng ngại tưởng, không tác ư đến các tưởng sai biệt, biết rằng: "Hư không là vô biên" chứng đạt và an trú Không vô biên xứ.

 

As I remained there, I was beset with attention to perceptions dealing with forms. That was an affliction for me. Just as pain arises as an affliction for a healthy person, even so the attention to perceptions dealing with forms that beset me was an affliction for me.


Do Ta trú với sự an trú này, các tưởng tác ư câu hữu với các sắc vẫn hiện hành. Đây đối với Ta, đây là một chứng bệnh. Ví như, này Ànanda, đối với người sung sướng, đau khổ có thể khởi lên như là một chứng bệnh. Cũng vậy các tưởng, tác ư câu hữu với sắc vẫn hiện hành ở nơi Ta. Như vậy đối với Ta, đây là một chứng bệnh.

 

[6] "The thought occurred to me: 'What if, with the complete transcending of the dimension of the infinitude of space, thinking, "Infinite consciousness," I were to enter & remain in the dimension of the infinitude of consciousness?' But my heart didn't leap up at the dimension of the infinitude of consciousness, didn't grow confident, steadfast, or firm, seeing it as peace. Then the thought occurred to me: 'If, having seen the drawback of directed thought, I were to pursue that theme; and if, having understood the reward of being without directed thought, I were to familiarize myself with it, there's the possibility that my heart would leap up at being without directed thought, grow confident, steadfast, & firm, seeing it as peace. So at a later time, having seen the drawback of the dimension of the infinitude of space, I pursued that theme; having understood the reward of the dimension of the infinitude of consciousness, I familiarized myself with it. My heart leaped up at the dimension of the infinitude of consciousness, grew confident, steadfast, & firm, seeing it as peace. With the complete transcending of the dimension of the infinitude of space, thinking, 'Infinite consciousness,' I entered & remained in the dimension of the infinitude of consciousness.


Rồi này Ànanda, Ta suy nghĩ như sau: "Vậy Ta hăy vượt qua Không vô biên xứ một cách hoàn toàn, biết rằng: "Thức là vô biên", chứng đạt và an trú Thức vô biên xứ. Nhưng tâm của Ta không có hứng khởi đối với Thức vô biên xứ, không có tịnh tín, không có an trú, không có giải thoát, dầu Ta có thấy: "Đây là an tịnh". Này Ànanda, về vấn đề ấy, Ta suy nghĩ như sau như sau: "Do nhân ǵ do duyên ǵ, tâm Ta không hứng khởi đối với Thức vô biên xứ, không có tịnh tín, không có an trú, không có giải thoát, dầu Ta có thấy: "Đây là an tịnh?". Rồi này Ànanda, Ta suy nghĩ như sau: "V́ Ta không thấy sự nguy hiểm trong Không vô biên xứ, v́ Ta không làm cho sung măn nguy hiểm ấy, lợi ích của Thức vô biên xứ chưa được chứng đắc. Ta chưa được thưởng thức lợi ích ấy. Do vậy tâm Ta không hứng khởi đối với Thức vô biên xứ, không tịnh tín, không an trú, không giải thoát". Này Ànanda, về vấn đề ấy, Ta suy nghĩ như sau: "Nếu sau khi thấy nguy hiểm trong Không vô biên xứ, Ta làm cho sung măn nguy hiểm ấy. Sau khi chứng được lợi ích trong Thức vô biên xứ, Ta thưởng thức lợi ích ấy", thời sự kiện này xảy ra: Tâm của Ta có thể hứng khởi trong Thức vô biên xứ, tịnh tín, an trú, giải thoát, v́ Ta có thấy: "Đây là an tịnh". Rồi này Ànanda, sau một thời gian, sau khi thấy nguy hiểm trong Không vô biên xứ, Ta làm cho sung măn nguy hiểm ấy; sau khi chứng được lợi ích trong Thức vô biên xứ, Ta thưởng thức lợi ích ấy. Và này Ànanda, tâm Ta hứng khởi trong Thức vô biên xứ, tịnh tín, an trú, giải thoát, v́ Ta thấy: "Đây là an tịnh". Này Ànanda, sau một thời gian, Ta vượt qua Không vô biên xứ một cách hoàn toàn, biết rằng: "Thức là vô biên", chứng đạt và an trú Thức vô biên xứ.

 

As I remained there, I was beset with attention to perceptions dealing with the dimension of the infinitude of space. That was an affliction for me. Just as pain arises as an affliction for a healthy person, even so the attention to perceptions dealing with the dimension of the infinitude of space that beset me was an affliction for me.


Do Ta trú với sự an trú này, các tưởng tác ư câu hữu với Không vô biên xứ vẫn hiện hành. Đây đối với Ta, đây là một chứng bệnh. Ví như, này Ànanda, đối với người sung sướng, đau khổ có thể khởi lên như là một chứng bệnh. Cũng vậy các tưởng, tác ư câu hữu với Không vô biên xứ vẫn hiện hành ở nơi Ta. Như vậy đối với Ta, đây là một chứng bệnh.

 

7] "The thought occurred to me: 'What if, with the complete transcending of the dimension of the infinitude of consciousness, thinking, "There is nothing," I were to enter & remain in the dimension of nothingness?' But my heart didn't leap up at the dimension of nothingness, didn't grow confident, steadfast, or firm, seeing it as peace. Then the thought occurred to me: 'If, having seen the drawback of directed thought, I were to pursue that theme; and if, having understood the reward of being without directed thought, I were to familiarize myself with it, there's the possibility that my heart would leap up at being without directed thought, grow confident, steadfast, & firm, seeing it as peace. So at a later time, having seen the drawback of the dimension of the infinitude of consciousness, I pursued that theme; having understood the reward of the dimension of nothingness, I familiarized myself with it. My heart leaped up at the dimension of nothingness, grew confident, steadfast, & firm, seeing it as peace. With the complete transcending of the dimension of the infinitude of consciousness, thinking, 'There is nothing,' I entered & remained in the dimension of nothingness.


Rồi này Ànanda, Ta suy nghĩ như sau: "Vậy Ta hăy vượt qua Thức vô biên xứ một cách hoàn toàn, biết rằng: "Không có vật ǵ", chứng đạt và an trú Vô sở hữu xứ. Nhưng tâm của Ta không có hứng khởi đối với Vô sở hữu xứ , không có tịnh tín, không có an trú, không có giải thoát, dầu Ta có thấy: "Đây là an tịnh". Này Ànanda, về vấn đề ấy, Ta suy nghĩ như sau như sau: "Do nhân ǵ do duyên ǵ, tâm Ta không hứng khởi đối với Vô sở hữu xứ , không có tịnh tín, không có an trú, không có giải thoát, dầu Ta có thấy: "Đây là an tịnh?". Rồi này Ànanda, Ta suy nghĩ như sau: "V́ Ta không thấy sự nguy hiểm trong Thức vô biên xứ, v́ Ta không làm cho sung măn nguy hiểm ấy, lợi ích của Vô sở hữu xứ chưa được chứng đắc. Ta chưa được thưởng thức lợi ích ấy. Do vậy tâm Ta không hứng khởi đối với Vô sở hữu xứ, không tịnh tín, không an trú, không giải thoát". Này Ànanda, về vấn đề ấy, Ta suy nghĩ như sau: "Nếu sau khi thấy nguy hiểm trong Thức vô biên xứ, Ta làm cho sung măn nguy hiểm ấy. Sau khi chứng được lợi ích trong Vô sở hữu xứ, Ta thưởng thức lợi ích ấy", thời sự kiện này xảy ra: Tâm của Ta có thể hứng khởi trong Vô sở hữu xứ, tịnh tín, an trú, giải thoát, v́ Ta có thấy: "Đây là an tịnh". Rồi này Ànanda, sau một thời gian, sau khi thấy nguy hiểm trong Thức vô biên xứ, Ta làm cho sung măn nguy hiểm ấy; sau khi chứng được lợi ích trong Vô sở hữu xứ, Ta thưởng thức lợi ích ấy. Và này Ànanda, tâm Ta hứng khởi trong Vô sở hữu xứ, tịnh tín, an trú, giải thoát, v́ Ta thấy: "Đây là an tịnh". Này Ànanda, sau một thời gian, Ta vượt qua Thức vô biên xứ một cách hoàn toàn, biết rằng: "Không có vật ǵ", chứng đạt và an trú Vô sở hữu xứ.

 

As I remained there, I was beset with attention to perceptions dealing with the dimension of the infinitude of consciousness. That was an affliction for me. Just as pain arises as an affliction for a healthy person, even so the attention to perceptions dealing with the dimension of the infinitude of consciousness that beset me was an affliction for me.


Do Ta trú với sự an trú này, các tưởng tác ư câu hữu với các Thức vô biên xứ vẫn hiện hành, như vậy đối với Ta, đây là một chứng bệnh. Ví như, này Ànanda, đối với người sung sướng, đau khổ có thể khởi lên như là một chứng bệnh. Cũng vậy các tưởng, tác ư câu hữu với Thức vô biên xứ vẫn hiện hành ở nơi Ta. Như vậy đối với Ta, đây là một chứng bệnh.

 

[8] "The thought occurred to me: 'What if I, with the complete transcending of the dimension of nothingness, were to enter & remain in the dimension of neither perception nor non-perception?' But my heart didn't leap up at the dimension of neither perception nor non-perception, didn't grow confident, steadfast, or firm, seeing it as peace. Then the thought occurred to me: 'If, having seen the drawback of directed thought, I were to pursue that theme; and if, having understood the reward of being without directed thought, I were to familiarize myself with it, there's the possibility that my heart would leap up at being without directed thought, grow confident, steadfast, & firm, seeing it as peace. So at a later time, having seen the drawback of the dimension of nothingness, I pursued that theme; having understood the reward of the dimension of neither perception nor non-perception, I familiarized myself with it. My heart leaped up at the dimension of neither perception nor non-perception, grew confident, steadfast, & firm, seeing it as peace. With the complete transcending of the dimension of nothingness, I entered & remained in the dimension of neither perception nor non-perception.


Rồi này Ànanda, Ta suy nghĩ như sau: "Vậy Ta hăy vượt qua Vô sở hữu xứ một cách hoàn toàn, chứng đạt và an trú Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Nhưng tâm của Ta không có hứng khởi đối với Phi tưởng phi phi tưởng xứ, không có tịnh tín, không có an trú, không có giải thoát, dầu Ta có thấy: "Đây là an tịnh". Này Ànanda, về vấn đề ấy, Ta suy nghĩ như sau như sau: "Do nhân ǵ do duyên ǵ, tâm Ta không hứng khởi đối với Phi tưởng phi phi tưởng xứ, không có tịnh tín, không có an trú, không có giải thoát, dầu Ta có thấy: "Đây là an tịnh?". Rồi này Ànanda, Ta suy nghĩ như sau: "V́ Ta không thấy sự nguy hiểm trong Vô sở hữu xứ, v́ Ta không làm cho sung măn nguy hiểm ấy, lợi ích của Phi tưởng phi phi tưởng xứ chưa được chứng đắc. Ta chưa được thưởng thức lợi ích ấy. Do vậy tâm Ta không hứng khởi đối với Phi tưởng phi phi tưởng xứ, không tịnh tín, không an trú, không giải thoát". Này Ànanda, về vấn đề ấy, Ta suy nghĩ như sau: "Nếu sau khi thấy nguy hiểm trong Vô sở hữu xứ, Ta làm cho sung măn nguy hiểm ấy. Sau khi chứng được lợi ích trong Phi tưởng phi phi tưởng xứ, Ta thưởng thức lợi ích ấy", thời sự kiện này xảy ra: Tâm của Ta có thể hứng khởi trong Phi tưởng phi phi tưởng xứ, tịnh tín, an trú, giải thoát, v́ Ta có thấy: "Đây là an tịnh". Rồi này Ànanda, sau một thời gian, sau khi thấy nguy hiểm trong Vô sở hữu xứ, Ta làm cho sung măn nguy hiểm ấy; sau khi chứng được lợi ích trong Phi tưởng phi phi tưởng xứ, Ta thưởng thức lợi ích ấy. Và này Ànanda, tâm Ta hứng khởi trong Phi tưởng phi phi tưởng xứ, tịnh tín, an trú, giải thoát, v́ Ta thấy: "Đây là an tịnh". Này Ànanda, sau một thời gian, Ta vượt qua Vô sở hữu xứ một cách hoàn toàn, chứng đạt và an trú Phi tưởng phi phi tưởng xứ.

 

As I remained there, I was beset with attention to perceptions dealing with the dimension of nothingness. That was an affliction for me. Just as pain arises as an affliction for a healthy person, even so the attention to perceptions dealing with the dimension of nothingness that beset me was an affliction for me.


Do Ta trú với sự an trú này, các tưởng tác ư câu hữu với các Vô sở hữu xứ vẫn hiện hành, như vậy đối với Ta, đây là một chứng bệnh. Ví như, này Ànanda, đối với người sung sướng, đau khổ có thể khởi lên như là một chứng bệnh. Cũng vậy các tưởng, tác ư câu hữu với Vô sở hữu xứ vẫn hiện hành ở nơi Ta. Như vậy đối với Ta, đây là một chứng bệnh.

 

[9] "The thought occurred to me: 'What if I, with the complete transcending of the dimension of neither perception nor non-perception, were to enter & remain in the cessation of perception & feeling?' But my heart didn't leap up at the cessation of perception & feeling, didn't grow confident, steadfast, or firm, seeing it as peace. The thought occurred to me: 'What is the cause, what is the reason, why my heart doesn't leap up at the cessation of perception & feeling, doesn't grow confident, steadfast, or firm, seeing it as peace?' Then the thought occurred to me: 'I haven't seen the drawback of the dimension of neither perception nor non-perception; I haven't pursued that theme. I haven't understood the reward of the cessation of perception & feeling; I haven't familiarized myself with it. That's why my heart doesn't leap up at the cessation of perception & feeling, doesn't grow confident, steadfast, or firm, seeing it as peace.'


Rồi này Ànanda, Ta suy nghĩ như sau: "Vậy Ta hăy vượt qua Phi tưởng phi phi tưởng xứ một cách hoàn toàn, chứng đạt và an trú Diệt thọ tưởng định. Nhưng tâm của Ta không có hứng khởi đối với Diệt thọ tưởng định, không có tịnh tín, không có an trú, không có giải thoát, dầu Ta có thấy: "Đây là an tịnh". Này Ànanda, về vấn đề ấy, Ta suy nghĩ như sau như sau: "Do nhân ǵ do duyên ǵ, tâm Ta không hứng khởi đối với Diệt thọ tưởng định, không có tịnh tín, không có an trú, không có giải thoát, dầu Ta có thấy: "Đây là an tịnh?". Rồi này Ànanda, Ta suy nghĩ như sau: "V́ Ta không thấy sự nguy hiểm trong Phi tưởng phi phi tưởng xứ, v́ Ta không làm cho sung măn nguy hiểm ấy, lợi ích của Diệt thọ tưởng định chưa được chứng đắc. Ta chưa được thưởng thức lợi ích ấy. Do vậy tâm Ta không hứng khởi đối với Diệt thọ tưởng định, không tịnh tín, không an trú, không giải thoát".

 

Then the thought occurred to me: 'If, having seen the drawback of the dimension of neither perception nor non-perception, I were to pursue that theme; and if, having understood the reward of the cessation of perception & feeling, I were to familiarize myself with it, there's the possibility that my heart would leap up at the cessation of perception & feeling, grow confident, steadfast, & firm, seeing it as peace


Này Ànanda, về vấn đề ấy, Ta suy nghĩ như sau: "Nếu sau khi thấy nguy hiểm trong Phi tưởng phi phi tưởng xứ, Ta làm cho sung măn nguy hiểm ấy. Sau khi chứng được lợi ích trong Diệt thọ tưởng định, Ta thưởng thức lợi ích ấy", thời sự kiện này xảy ra: Tâm của Ta có thể hứng khởi trong Diệt thọ tưởng định, tịnh tín, an trú, giải thoát, v́ Ta có thấy: "Đây là an tịnh".

 

So at a later time, having seen the drawback of the dimension of neither perception nor non-perception, I pursued that theme; having understood the reward of the cessation of perception & feeling, I familiarized myself with it. My heart leaped up at the cessation of perception & feeling, grew confident, steadfast, & firm, seeing it as peace. With the complete transcending of the dimension of neither perception nor non-perception, I entered & remained in the cessation of perception & feeling. And as I saw with discernment, the mental fermentations went to their total end.


Rồi này Ànanda, sau một thời gian, sau khi thấy nguy hiểm trong Phi tưởng phi phi tưởng xứ, Ta làm cho sung măn nguy hiểm ấy; sau khi chứng được lợi ích trong Diệt thọ tưởng định, Ta thưởng thức lợi ích ấy. Và này Ànanda, tâm Ta hứng khởi trong Diệt thọ tưởng định, tịnh tín, an trú, giải thoát, v́ Ta thấy: "Đây là an tịnh". Này Ànanda, sau một thời gian, Ta vượt qua Phi tưởng phi phi tưởng xứ một cách hoàn toàn, chứng đạt và an trú Diệt thọ tưởng định.

 

Ananda, as long as I had not attained & emerged from these nine step-by-step dwelling-attainments in forward & backward order in this way, I did not claim to have directly awakened to the right self-awakening unexcelled in the cosmos with its devas, Maras, & Brahmas, with its contemplatives & priests, its royalty & common people. But as soon as I had attained & emerged from these nine step-by-step dwelling-attainments in forward & backward order in this way, then I did claim to have directly awakened to the right self-awakening unexcelled in the cosmos with its devas, Maras, & Brahmas, with its contemplatives & priests, its royalty & common people. Knowledge & vision arose in me: 'My release is unshakable. This is the last birth. There is now no further becoming.'"


Cho đến khi nào, này Ànanda, chín thứ đệ trú Thiền chứng này chưa được Ta thuận thứ nghịch thứ chứng đạt và xuất khởi, thời này Ànanda, trong thế giới, với Thiên giới, Ma giới, Phạm thiên giới, với quần chúng Sa-môn và Bà-la-môn, chư Thiên và loài Người, Ta chưa xác chứng rằng ta đă chứng Chánh Đẳng Chánh giác. Cho đến khi nào, này Ànanda, chín thứ đệ trú Thiền chứng này đă được Ta thuận thứ nghịch thứ chứng đạt và xuất khởi, thời này Ànanda, trong thế giới này, với Thiên giới, Ma giới, Phạm thiên giới, với quần chúng Sa-môn và Bà-la-môn, chư Thiên và loài Người, cho đến khi ấy, Ta mới xác chứng rằng Ta đă chứng đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Tri và Kiến khởi lên nơi Ta. Ta biết rằng: "Bất động là tâm giải thoát của Ta. Đây là đời sống cuối cùng, nay không c̣n tái sanh nữa".