Monks, these seven perceptions, when developed & pursued, are of great fruit, of great benefit. They gain a footing in the Deathless, have the Deathless as their final end. Which seven?


Có bảy tưởng này, này các Tỷ-kheo, được tu tập, được làm cho sung măn, có quả lớn, có lợi ích lớn, thể nhập vào bất tử, lấy bất tử làm cứu cánh. Thế nào là bảy?

 

The perception of the unattractive, the perception of death, the perception of loathsomeness in food, the perception of distaste for every world, the perception of inconstancy, the perception of stress in what is inconstant, the perception of not-self in what is stressful.


Tưởng bất tịnh, tưởng chết, tưởng nhàm chán đối với các món ăn, tưởng không hoan hỷ đối với tất cả thế giới, tưởng vô thường, tưởng khổ trong vô thường, tưởng vô ngă trong khổ.

 

[1] "'The perception of the unattractive, when developed & pursued, is of great fruit, of great benefit. It gains a footing in the Deathless, has the Deathless as its final end': Thus was it said. In reference to what was it said?


Tưởng bất tịnh, này các Tỷ-kheo, được tu tập, được làm cho sung măn, có quả lớn, có lợi ích lớn, thể nhập vào bất tử, lấy bất tử làm cứu cánh, được nói đến như vậy. Do duyên ǵ được nói đến như vậy?

 

When a monk's awareness often remains steeped in the perception of the unattractive, his mind shrinks away from the completion of the sexual act, bends away, pulls back, and is not drawn in, and either equanimity or loathing take a stance. Just as a cock's feather or a piece of tendon, when thrown into a fire, shrinks away, bends away, pulls back, and is not drawn in; in the same way, when a monk's awareness often remains steeped in the perception of the unattractive, his mind shrinks away from the completion of the sexual act, bends away, pulls back, and is not drawn in, and either equanimity or loathing take a stance.


Này các Tỷ-kheo, khi một Tỷ-kheo sống nhiều với các tưởng bất tịnh, thời tâm thối lui, tâm trở lưng, quay lưng để không đắm vào các dâm dục; do đó tâm vị ấy không căng thẳng, thanh thản, khởi lên nhàm chán. Ví như, này các Tỷ-kheo, lông gà hay là dây gân quăng vào lửa thời thối lui, trở lưng, quay lưng, và không căng thẳng; cũng vậy, này các Tỷ-kheo, khi một Tỷ-kheo sống nhiều với các tưởng bất tịnh, thời tâm thối lui, tâm trở lưng, quay lưng để không đắm vào các dâm dục; do đó tâm vị ấy không căng thẳng, thanh thản, khởi lên nhàm chán.

 

If, when a monk's awareness often remains steeped in the perception of the unattractive, his mind inclines to the completion of the sexual act, or if non-loathing takes a stance, then he should realize, 'I have not developed the perception of the unattractive; there is no step-by-step distinction in me; I have not arrived at the fruit of [mental] development.' In that way he is alert there.


Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo sống nhiều với các tưởng bất tịnh, nhưng tâm lại chảy theo, đắm vào dâm dục, không khởi lên nhàm chán, thời Tỷ-kheo ấy cần phải hiểu rằng: "Tưởng bất tịnh không được ta tu tập ; ở nơi ta không có sự sai khác trước và sau. Ta không đạt được quả tu tập". Ở đấy, vị ấy tỉnh giác như vậy.

 

But if, when a monk's awareness often remains steeped in the perception of the unattractive, his mind shrinks away from the completion of the sexual act, bends away, pulls back, and is not drawn in, and either equanimity or loathing take a stance, then he should realize, 'I have developed the perception of the unattractive; there is a step-by-step distinction in me; I have arrived at the fruit of [mental] development.' In that way he is alert there.


Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo sống nhiều với các tưởng bất tịnh, thời tâm thối lui, tâm trở lưng, quay lưng để không đắm vào các dâm dục; do đó tâm vị ấy không căng thẳng, thanh thản, khởi lên nhàm chán, thời Tỷ-kheo ấy cần phải hiểu rằng: " Tưởng bất tịnh không được ta tu tập ; ở nơi ta không có sự sai khác trước và sau. Ta không đạt được quả tu tập". Ở đấy, vị ấy tỉnh giác như vậy.

 

'The perception of the unattractive, when developed & pursued, is of great fruit, of great benefit. It gains a footing in the Deathless, has the Deathless as its final end': Thus was it said, and in reference to this was it said.


Tưởng bất tịnh, này các Tỷ-kheo, được tu tập, được làm cho sung măn, có quả lớn, có lợi ích lớn, thể nhập vào bất tử, lấy bất tử làm cứu cánh, được nói đến như vậy. Do duyên ǵ được nói đến như vậy.

 

[2] "'The perception of death, when developed & pursued, is of great fruit, of great benefit. It gains a footing in the Deathless, has the Deathless as its final end': Thus was it said. In reference to what was it said?


Tưởng chết, này các Tỷ-kheo, được tu tập, được làm cho sung măn, có quả lớn, có lợi ích lớn, được nói đến như vậy. Do duyên ǵ được nói đến như vậy?

 

When a monk's awareness often remains steeped in the perception of death, his mind shrinks away from fervor for life, bends away, pulls back, and is not drawn in, and either equanimity or loathing take a stance. Just as a cock's feather or a piece of tendon, when thrown into a fire, shrinks away, bends away, pulls back, and is not drawn in; in the same way, when a monk's awareness often remains steeped in the perception of death, his mind shrinks away from fervor for life, bends away, pulls back, and is not drawn in, and either equanimity or loathing take a stance.


Này các Tỷ-kheo, khi một Tỷ-kheo sống nhiều với các tưởng chết, thời tâm thối lui, tâm trở lưng, quay lưng để không đắm vào các sự sống; do đó tâm vị ấy không căng thẳng, thanh thản, khởi lên nhàm chán. Ví như, này các Tỷ-kheo, lông gà hay là dây gân quăng vào lửa thời thối lui, trở lưng, quay lưng, và không căng thẳng; cũng vậy, này các Tỷ-kheo, khi một Tỷ-kheo sống nhiều với các tưởng chết, thời tâm thối lui, tâm trở lưng, quay lưng để không đắm vào các sự sống; do đó tâm vị ấy không căng thẳng, thanh thản, khởi lên nhàm chán.

 

If, when a monk's awareness often remains steeped in the perception of death, his mind inclines to fervor for life, or if non-loathing takes a stance, then he should realize, 'I have not developed the perception of death; there is no step-by-step distinction in me; I have not arrived at the fruit of [mental] development.' In that way he is alert there.


Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo sống nhiều với các tưởng chết, nhưng tâm lại chảy theo, đắm vào sự sống, không khởi lên nhàm chán, thời Tỷ-kheo ấy cần phải hiểu rằng: "Tưởng chết không được ta tu tập ; ở nơi ta không có sự sai khác trước và sau. Ta không đạt được quả tu tập". Ở đấy, vị ấy tỉnh giác như vậy.

 

But if, when a monk's awareness often remains steeped in the perception of death, his mind shrinks away from fervor for life, bends away, pulls back, and is not drawn in, and either equanimity or loathing take a stance, then he should realize, 'I have developed the perception of death; there is a step-by-step distinction in me; I have arrived at the fruit of [mental] development.' In that way he is alert there.


Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo sống nhiều với các tưởng chết, thời tâm thối lui, tâm trở lưng, quay lưng để không đắm vào các sự sống; do đó tâm vị ấy không căng thẳng, thanh thản, khởi lên nhàm chán, thời Tỷ-kheo ấy cần phải hiểu rằng: " Tưởng chết không được ta tu tập ; ở nơi ta không có sự sai khác trước và sau. Ta không đạt được quả tu tập". Ở đấy, vị ấy tỉnh giác như vậy.

 

'The perception of death, when developed & pursued, is of great fruit, of great benefit. It gains a footing in the Deathless, has the Deathless as its final end': Thus was it said, and in reference to this was it said.


Tưởng chết, này các Tỷ-kheo, được tu tập, được làm cho sung măn, có quả lớn, có lợi ích lớn, thể nhập vào bất tử, lấy bất tử làm cứu cánh, được nói đến như vậy. Do duyên ǵ được nói đến như vậy.

 

[3] "'The perception of loathsomeness in food, when developed & pursued, is of great fruit, of great benefit. It gains a footing in the Deathless, has the Deathless as its final end': Thus was it said. In reference to what was it said?


Tưởng nhàm chán đối với món ăn, này các Tỷ-kheo, được tu tập, được làm cho sung măn, có quả lớn, có lợi ích lớn, như vậy được nói đến. Do duyên ǵ được nói đến như vậy?

 

When a monk's awareness often remains steeped in the perception of loathsomeness in food, his mind shrinks away from craving for flavors, bends away, pulls back, and is not drawn in, and either equanimity or loathing take a stance. Just as a cock's feather or a piece of tendon, when thrown into a fire, shrinks away, bends away, pulls back, and is not drawn in; in the same way, when a monk's awareness often remains steeped in the perception of loathsomeness in food, his mind shrinks away from craving for flavors, bends away, pulls back, and is not drawn in, and either equanimity or loathing take a stance.


Này các Tỷ-kheo, khi một Tỷ-kheo sống nhiều với các tưởng nhàm chán đối với các món ăn , thời tâm thối lui, tâm trở lưng, quay lưng để không đắm vào các vị ; do đó tâm vị ấy không căng thẳng, thanh thản, khởi lên nhàm chán. Ví như, này các Tỷ-kheo, lông gà hay là dây gân quăng vào lửa thời thối lui, trở lưng, quay lưng, và không căng thẳng; cũng vậy, này các Tỷ-kheo, khi một Tỷ-kheo sống nhiều với các tưởng nhàm chán đối với món ăn, thời tâm thối lui, tâm trở lưng, quay lưng để không đắm vào các vị ; do đó tâm vị ấy không căng thẳng, thanh thản, khởi lên nhàm chán.

 

If, when a monk's awareness often remains steeped in the perception of loathsomeness in food, his mind inclines to craving for flavors, or if non-loathing takes a stance, then he should realize, 'I have not developed the perception of loathsomeness in food; there is no step-by-step distinction in me; I have not arrived at the fruit of [mental] development.' In that way he is alert there.


Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo sống nhiều với các tưởng nhàm chán đối với món ăn, nhưng tâm lại chảy theo, đắm vào các vị, không khởi lên nhàm chán, thời Tỷ-kheo ấy cần phải hiểu rằng: "Tưởng nhàm chán đối với các món ăn không được ta tu tập ; ở nơi ta không có sự sai khác trước và sau. Ta không đạt được quả tu tập". Ở đấy, vị ấy tỉnh giác như vậy.

 

But if, when a monk's awareness often remains steeped in the perception of loathsomeness in food, his mind shrinks away from craving for flavors, bends away, pulls back, and is not drawn in, and either equanimity or loathing take a stance, then he should realize, 'I have developed the perception of loathsomeness in food; there is a step-by-step distinction in me; I have arrived at the fruit of [mental] development.' In that way he is alert there.


Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo sống nhiều với các tưởng nhàm chán đối với món ăn , thời tâm thối lui, tâm trở lưng, quay lưng để không đắm vào các vị ; do đó tâm vị ấy không căng thẳng, thanh thản, khởi lên nhàm chán, thời Tỷ-kheo ấy cần phải hiểu rằng: " Tưởng nhàm chán đối với món ăn không được ta tu tập ; ở nơi ta không có sự sai khác trước và sau. Ta không đạt được quả tu tập". Ở đấy, vị ấy tỉnh giác như vậy.

 

'The perception of loathsomeness in food, when developed & pursued, is of great fruit, of great benefit. It gains a footing in the Deathless, has the Deathless as its final end': Thus was it said, and in reference to this was it said.


Tưởng nhàm chán đối với món ăn, này các Tỷ-kheo, được tu tập, được làm cho sung măn, có quả lớn, có lợi ích lớn, như vậy được nói đến. Do duyên ǵ được nói đến như vậy?

 

[4] "'The perception of distaste for every world, when developed & pursued, is of great fruit, of great benefit. It gains a footing in the Deathless, has the Deathless as its final end': Thus was it said. In reference to what was it said?


Tưởng không hoan hỷ đối với các thế giới, này các Tỷ-kheo, được tu tập, được làm cho sung măn, có quả lớn, có lợi ích lớn, như vậy được nói đến. Do duyên ǵ được nói đến như vậy?

 

When a monk's awareness often remains steeped in the perception of distaste for every world, his mind shrinks away from worldly embellishments, bends away, pulls back, and is not drawn in, and either equanimity or loathing take a stance. Just as a cock's feather or a piece of tendon, when thrown into a fire, shrinks away, bends away, pulls back, and is not drawn in; in the same way, when a monk's awareness often remains steeped in the perception of distaste for every world, his mind shrinks away from worldly embellishments, bends away, pulls back, and is not drawn in, and either equanimity or loathing take a stance.


Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo sống nhiều với tâm không hoan hỷ đối với các thế giới, thời tâm thối lui, tâm trở lưng, quay lưng các ḷe loẹt của thế giới; do đó tâm vị ấy không căng thẳng, thanh thản, khởi lên nhàm chán. Ví như, này các Tỷ-kheo, lông gà hay là dây gân quăng vào lửa thời thối lui, trở lưng, quay lưng, và không căng thẳng; cũng vậy, này các Tỷ-kheo, khi một Tỷ-kheo sống nhiều với các tưởng không hoan hỷ đối với các thế giới, thời tâm thối lui, tâm trở lưng, quay lưng để không đắm vào các ḷe loẹt của thế giới ; do đó tâm vị ấy không căng thẳng, thanh thản, khởi lên nhàm chán.

 

If, when a monk's awareness often remains steeped in the perception of distaste for every world, his mind inclines to worldly embellishments, or if non-loathing takes a stance, then he should realize, 'I have not developed the perception of distaste for every world; there is no step-by-step distinction in me; I have not arrived at the fruit of [mental] development.' In that way he is alert there.


Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo sống nhiều với các tưởng không hoan hỷ đối với các thế giới, nhưng tâm lại chảy theo, đắm vào các ḷe loẹt của thế giới, không khởi lên nhàm chán, thời Tỷ-kheo ấy cần phải hiểu rằng: "Tưởng không hoan hỷ đối với các thế giới không được ta tu tập ; ở nơi ta không có sự sai khác trước và sau. Ta không đạt được quả tu tập". Ở đấy, vị ấy tỉnh giác như vậy.

 

But if, when a monk's awareness often remains steeped in the perception of distaste for every world, his mind shrinks away from worldly embellishments, bends away, pulls back, and is not drawn in, and either equanimity or loathing take a stance, then he should realize, 'I have developed the perception of distaste for every world; there is a step-by-step distinction in me; I have arrived at the fruit of [mental] development.' In that way he is alert there.


Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo sống nhiều với các tưởng không hoan hỷ đối với các thế giới, thời tâm thối lui, tâm trở lưng, quay lưng để không đắm vào các ḷe loẹt của thế giới ; do đó tâm vị ấy không căng thẳng, thanh thản, khởi lên nhàm chán, thời Tỷ-kheo ấy cần phải hiểu rằng: " Tưởng không hoan hỷ đối với các thế giới không được ta tu tập ; ở nơi ta không có sự sai khác trước và sau. Ta không đạt được quả tu tập". Ở đấy, vị ấy tỉnh giác như vậy.

 

'The perception of distaste for every world, when developed & pursued, is of great fruit, of great benefit. It gains a footing in the Deathless, has the Deathless as its final end': Thus was it said, and in reference to this was it said.


Tưởng không hoan hỷ đối với các thế giới, này các Tỷ-kheo, được tu tập, được làm cho sung măn, có quả lớn, có lợi ích lớn, như vậy được nói đến. Do duyên ǵ được nói đến như vậy.

 

[5] "'The perception of inconstancy, when developed & pursued, is of great fruit, of great benefit. It gains a footing in the Deathless, has the Deathless as its final end': Thus was it said. In reference to what was it said?


Tưởng vô thường, này các Tỷ-kheo, được tu tập, được làm cho sung măn, có quả lớn, có lợi ích lớn, như vậy được nói đến. Do duyên ǵ được nói đến như vậy?

 

When a monk's awareness often remains steeped in the perception of inconstancy, his mind shrinks away from gains, offerings, & fame, bends away, pulls back, and is not drawn in, and either equanimity or loathing take a stance. Just as a cock's feather or a piece of tendon, when thrown into a fire, shrinks away, bends away, pulls back, and is not drawn in; in the same way, when a monk's awareness often remains steeped in the perception of inconstancy, his mind shrinks away from gains, offering, & fame, bends away, pulls back, and is not drawn in, and either equanimity or loathing take a stance.


Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo sống nhiều với tưởng vô thường, thời tâm thối lui, tâm trở lưng, quay lưng với các lợi dưỡng, cung kính, danh vọng. Do đó tâm vị ấy không căng thẳng, thanh thản, khởi lên nhàm chán.Ví như, này các Tỷ-kheo, lông gà hay là dây gân quăng vào lửa thời thối lui, trở lưng, quay lưng, và không căng thẳng; cũng vậy, này các Tỷ-kheo, khi một Tỷ-kheo sống nhiều với các tưởng vô thường, thời tâm thối lui, tâm trở lưng, quay lưng để không đắm vào các lợi dưỡng, cung kính, danh vọng. Do đó tâm vị ấy không căng thẳng, thanh thản, khởi lên nhàm chán.

 

If, when a monk's awareness often remains steeped in the perception of inconstancy, his mind inclines to gains, offering, & fame, or if non-loathing takes a stance, then he should realize, 'I have not developed the perception of inconstancy; there is no step-by-step distinction in me; I have not arrived at the fruit of [mental] development.' In that way he is alert there.


Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo sống nhiều với các tưởng vô thường, nhưng tâm lại chảy theo, đắm vào các lợi dưỡng, cung kính, danh vọng, không khởi lên nhàm chán, thời Tỷ-kheo ấy cần phải hiểu rằng: "Tưởng vô thường không được ta tu tập ; ở nơi ta không có sự sai khác trước và sau. Ta không đạt được quả tu tập". Ở đấy, vị ấy tỉnh giác như vậy.

 

But if, when a monk's awareness often remains steeped in the perception of inconstancy, his mind shrinks away from gains, offering, & fame, bends away, pulls back, and is not drawn in, and either equanimity or loathing take a stance, then he should realize, 'I have developed the perception of inconstancy; there is a step-by-step distinction in me; I have arrived at the fruit of [mental] development.' In that way he is alert there.


Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo sống nhiều với các tưởng vô thường, thời tâm thối lui, tâm trở lưng, quay lưng để không đắm vào các các lợi dưỡng, cung kính, danh vọng. Do đó tâm vị ấy không căng thẳng, thanh thản, khởi lên nhàm chán, thời Tỷ-kheo ấy cần phải hiểu rằng: " Tưởng vô thường không được ta tu tập ; ở nơi ta không có sự sai khác trước và sau. Ta không đạt được quả tu tập". Ở đấy, vị ấy tỉnh giác như vậy.

 

'The perception of inconstancy, when developed & pursued, is of great fruit, of great benefit. It gains a footing in the Deathless, has the Deathless as its final end': Thus was it said, and in reference to this was it said.


Tưởng vô thường, này các Tỷ-kheo, được tu tập, được làm cho sung măn, có quả lớn, có lợi ích lớn, như vậy được nói đến. Do duyên ǵ được nói đến như vậy?

 

[6] "'The perception of stress in what is inconstant, when developed & pursued, is of great fruit, of great benefit. It gains a footing in the Deathless, has the Deathless as its final end': Thus was it said. In reference to what was it said?


Tưởng khổ trên vô thường, này các Tỷ-kheo, được tu tập, được làm cho sung măn, có quả lớn, có lợi ích lớn, thể nhập vào bất tử, lấy bất tử làm cứu cánh, được nói đến như vậy. Do duyên ǵ được nói đến như vậy?

 

When a monk's awareness often remains steeped in the perception of stress in what is inconstant, a fierce perception of danger & fear is established in him toward idleness, indolence, laziness, heedlessness, lack of commitment, & lack of reflection, as if toward a murderer with an upraised sword.


Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo sống nhiều với các tưởng khổ trên vô thường, thời các tưởng sợ hăi sắc bén được an lập trên thụ động, biếng nhác, thả lỏng, phóng dật, không chú tâm, không quán sát; ví như một kẻ giết người giơ đao lên.

 

If, when a monk's awareness often remains steeped in the perception of stress in what is inconstant, a fierce perception of danger & fear is not established in him toward idleness, indolence, laziness, heedlessness, lack of commitment, & lack of reflection, as if toward a murderer with an upraised sword, then he should realize, 'I have not developed the perception of stress in what is inconstant; there is no step-by-step distinction in me; I have not arrived at the fruit of [mental] development.' In that way he is alert there.


Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo sống nhiều với các tưởng khổ trên vô thường, nhưng các tưởng sợ hăi sắc bén không được an lập trên thụ động, biếng nhác, thả lỏng, phóng dật, không chú tâm, không quán sát; thời giống như một kẻ giết người giơ đao lên. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy cần phải hiểu rằng: "Tưởng khổ trên vô thường không được ta tu tập; ở nơi ta không có sự sai khác trước và sau. Ta không đạt được quả của sự tu tập." Ở đây, vị ấy tỉnh giác như vậy.

 

But if, when a monk's awareness often remains steeped in the perception of stress in what is inconstant, a fierce perception of danger & fear is established in him toward idleness, indolence, laziness, heedlessness, lack of commitment, & lack of reflection, as if toward a murderer with an upraised sword, then he should realize, 'I have developed the perception of stress in what is inconstant; there is a step-by-step distinction in me; I have arrived at the fruit of [mental] development.' In that way he is alert there.


Nhưng này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo sống nhiều với các tưởng khổ trên vô thường, thời các tưởng sợ hăi sắc bén an lập trên thụ động, biếng nhác, thả lỏng, phóng dật, không chú tâm, không quán sát, ví như một kẻ giết người giơ đao lên. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo cần phải hiểu rằng: "Tưởng khổ trên vô thường không được ta tu tập; ở nơi ta không có sự sai khác trước và sau. Ta không đạt được quả của sự tu tập." Ở đây, vị ấy tỉnh giác như vậy.

 

'The perception of stress in what is inconstant, when developed & pursued, is of great fruit, of great benefit. It gains a footing in the Deathless, has the Deathless as its final end': Thus was it said, and in reference to this was it said.


Tưởng khổ trên vô thường, này các Tỷ-kheo, được tu tập, được làm cho sung măn, có quả lớn, có lợi ích lớn, thể nhập vào bất tử, lấy bất tử làm cứu cánh, được nói đến như vậy. Do duyên ǵ được nói đến như vậy.

 

[7] "'The perception of not-self in what is stressful, when developed & pursued, is of great fruit, of great benefit. It gains a footing in the Deathless, has the Deathless as its final end': Thus was it said. In reference to what was it said?


Tưởng vô ngă trên khổ, này các Tỷ-kheo, được tu tập, được làm cho sung măn, có quả lớn, có lợi ích lớn, thể nhập vào bất tử, lấy bất tử làm mục đích, được nói đến như vậy. Do duyên ǵ được nói đến như vậy?

 

When a monk's awareness often remains steeped in the perception of not-self in what is stressful, his heart is devoid of I-making & my-making with regard to this conscious body and externally with regard to all themes, has transcended pride, is at peace, and is well-released.


Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo sống nhiều với các tưởng vô ngă trên khổ, này các Tỷ-kheo, ư của vị ấy thoát khỏi các tư tưởng ngă, ngă sở, ngă mạn, đối với cái thân có thức nầy và đối với tất cả tướng ở ngoài, khéo giải thoát, được an tịnh, vượt qua các thiên kiến.

 

If, when a monk's awareness often remains steeped in the perception of not-self in what is stressful, his heart is not devoid of I-making & my-making with regard to this conscious body and externally with regard to all themes, has not transcended pride, is not at peace, and is not well-released, then he should realize, 'I have not developed the perception of not-self in what is stressful; there is no step-by-step distinction in me; I have not arrived at the fruit of [mental] development.' In that way he is alert there.


Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo sống nhiều với tâm chất chứa tưởng vô ngă trên khổ, này các Tỷ-kheo, ư của vị ấy không thoát khỏi các tư tưởng ngă, ngă sở, ngă mạn, đối với cái thân có thức nầy và đối với tất cả tướng ở ngoài, khéo giải thoát, được an tịnh, vượt qua các thiên kiến. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy cần phải hiểu rằng: "Tưởng vô ngă trên khổ không được ta tu tập; ở nơi ta không có sự sai khác trước và sau. Ta không đạt được quả của sự tu tập." Ở đây, vị ấy tỉnh giác như vậy.

 

But if, when a monk's awareness often remains steeped in the perception of not-self in what is stressful, his heart is devoid of I-making & my-making with regard to this conscious body and externally with regard to all themes, has transcended pride, is at peace, and is well-released, then he should realize, 'I have developed the perception of not-self in what is stressful; there is a step-by-step distinction in me; I have arrived at the fruit of [mental] development.' In that way he is alert there.


Nhưng này Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo sống nhiều với các tưởng vô ngă trên khổ, này các Tỷ-kheo, ư của vị ấy thoát khỏi các tư tưởng ngă, ngă sở, ngă mạn đối với cái thân có thức và đối với tất cả tướng ở ngoài, khéo giải thoát, được an tịnh, vượt qua các thiên kiến. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy cần phải hiểu rằng: "Tưởng vô ngă trên khổ không được ta tu tập; ở nơi ta không có sự sai khác trước và sau. Ta không đạt được quả của sự tu tập." Ở đây, vị ấy tỉnh giác như vậy.

 

'The perception of not-self in what is stressful, when developed & pursued, is of great fruit, of great benefit. It gains a footing in the Deathless, has the Deathless as its final end': Thus was it said, and in reference to this was it said.


Tưởng vô ngă trên khổ, này các Tỷ-kheo, được tu tập, được làm cho sung măn, có quả lớn, có lợi ích lớn, thể nhập vào bất tử, lấy bất tử làm cứu cánh, được nói đến như vậy. Do duyên ǵ được nói đến như vậy.

 

Monks, these seven perceptions, when developed & pursued, are of great fruit, of great benefit. They gain a footing in the Deathless, have the Deathless as their final end."


Bảy tưởng này, này các Tỷ-kheo, được tu tập, được làm cho sung măn, có quả lớn, có lợi ích lớn, thể nhập vào bất tử, lấy bất tử làm cứu cánh.

 

See also: AN 7.70; AN 9.16; AN 10.60