Once the Blessed One was staying among the Bhaggas in the Deer Park at Bhesakala Grove, near Crocodile Haunt.


Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Bhagga, tại núi Sumsumàra, rừng Bhesakala, vườn Lộc Uyển.

 

And at that time Ven. Anuruddha was living among the Cetis in the Eastern Bamboo Park. Then, as he was alone in seclusion, this line of thinking arose in Ven. Anuruddha's awareness:


Lúc bấy giờ, Tôn giả Anuruddha sống giữa dân chúng Ceĺ, tại Pàćnavamsadàya, Rồi Tôn giả Anuruddha, trong khi sống độc cư, thiền tịnh, tâm tư khởi lên như sau :

 

-This Dhamma is for one who is modest, not for one who is self-aggrandizing.
-This Dhamma is for one who is content, not for one who is discontent.
-This Dhamma is for one who is reclusive, not for one who is entangled.
-This Dhamma is for one whose persistence is aroused, not for one who is lazy.
-This Dhamma is for one whose mindfulness is established, not for one whose mindfulness is confused.
-This Dhamma is for one whose mind is centered, not for one whose mind is uncentered.
-This Dhamma is for one endowed with discernment, not for whose discernment is weak."


-Pháp này để cho người ít dục, pháp này không phải để cho người nhiều dục.
-Pháp này để cho người biết đủ, pháp này không phải để cho người không biết đủ.
-Pháp này để cho người sống thanh vắng, pháp này không phải để cho người ưa hội chúng.
-Pháp này để cho người tinh cần tinh tấn, pháp này không phải để cho người biếng nhác.
-Pháp này để cho người trú niệm, pháp này không phải để cho người nhất niệm.
-Pháp này để cho người Thiền định, pháp này không phải để cho người không Thiền định.
-Pháp này để cho người có trí tuệ, pháp này không phải để cho người ác tuệ.

 

Then the Blessed One, realizing with his awareness the line of thinking in Ven. Anuruddha's awareness — just as a strong man might extend his flexed arm or flex his extended arm — disappeared from among the Bhaggas in the Deer Park at Bhesakala Grove, near Crocodile Haunt, and re-appeared among the Cetis in the Eastern Bamboo Park, right in front of Ven. Anuruddha. There he sat down on a prepared seat. As for Ven. Anuruddha, having bowed down to the Blessed One, he sat to one side. As he was sitting there the Blessed One said to him:


Rồi Thế Tôn với tâm của ḿnh rơ biết tâm của Tôn giả Anuruddha, ví như người lực sĩ duỗi bàn tay đang co lại ; hay co lại bàn tay đang duỗi ra ; cũng vậy, Thế Tôn biến mất ở giữa dân chúng Bhagga, tại núi Sumsumàra, rừng Bhesakalà, vườn Lộc Uyển, và hiện ra giữa dân chúng Ceĺ, tại Pàćnavamsadàya, trước mặt Tôn giả Anuruddha. Thế Tôn ngồi xuống trên chỗ đă soạn sẵn. Rồi Thế Tôn nói với Tôn giả Anuruddha đang ngồi một bên :

 

"Good, Anuruddha, very good. It's good that you think these thoughts of a great person:


Lành thay, lành thay, này Anuruddha ! Lành thay, này Anuruddha, Thầy đă suy nghĩ đến bảy niệm của bậc Đại nhân :

 

-This Dhamma is for one who is modest, not for one who is self-aggrandizing.
-This Dhamma is for one who is content, not for one who is discontent.
-This Dhamma is for one who is reclusive, not for one who is entangled.
-This Dhamma is for one whose persistence is aroused, not for one who is lazy.
-This Dhamma is for one whose mindfulness is established, not for one whose mindfulness is confused.
-This Dhamma is for one whose mind is centered, not for one whose mind is uncentered.
-This Dhamma is for one endowed with discernment, not for whose discernment is weak."


-Pháp này để cho người ít dục, pháp này không phải để cho người nhiều dục.
-Pháp này để cho người biết đủ, pháp này không phải để cho người không biết đủ.
-Pháp này để cho người sống thanh vắng, pháp này không phải để cho người ưa hội chúng.
-Pháp này để cho người tinh cần tinh tấn, pháp này không phải để cho người biếng nhác.
-Pháp này để cho người trú niệm, pháp này không phải để cho người nhất niệm.
-Pháp này để cho người Thiền định, pháp này không phải để cho người không Thiền định.
-Pháp này để cho người có trí tuệ, pháp này không phải để cho người ác tuệ.

 

Now then, Anuruddha, think the eighth thought of a great person: 'This Dhamma is for one who enjoys non-complication, who delights in non-complication, not for one who enjoys & delights in complication.'


Do vậy, này Anuruddha, hăy suy nghĩ đến niệm thứ tám này của bậc Đại nhân : "Pháp này để cho người không ưa lư luận, không thích hư luận, Pháp này không phải để cho người ưa lư luận, thích hư luận ".

 

"Anuruddha, when you think these eight thoughts of a great person, then — whenever you want — quite withdrawn from sensuality, withdrawn from unskillful qualities, you will enter & remain in the first jhana: rapture & pleasure born from withdrawal, accompanied by directed thought & evaluation.


Khi nào, này Anuruddha, Thầy sẽ suy nghĩ đến tám tư niệm này của bậc Đại nhân, thời nếu Thầy muốn, Thầy sẽ chứng đạt và an trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm có tứ.

 

When you think these eight thoughts of a great person, then — whenever you want — with the stilling of directed thought and evaluation, you will enter & remain in the second jhana: rapture & pleasure born of composure, unification of awareness free from directed thought & evaluation — internal assurance.


Khi nào, này Anuruddha, Thầy sẽ suy nghĩ đến tám tư niệm này của bậc Đại nhân, thời nếu Thầy muốn, diệt tầm diệt tứ, Thầy sẽ chứng đạt và an trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tĩnh nhất tâm.

 

When you think these eight thoughts of a great person, then — whenever you want — with the fading of rapture, you will remain in equanimity, mindful & alert, physically sensitive to pleasure. You will enter & remain in the third jhana, of which the Noble Ones declare, 'Equanimous and mindful, he has a pleasurable abiding.'


Khi nào, này Anuruddha, khi nào Thầy sẽ suy nghĩ đến tám tư niệm này của bậc Đại nhân, thời nếu Thầy muốn, Thầy sẽ ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là "xả niệm lạc trú", chứng và an trú Thiền thứ ba.

 

When you think these eight thoughts of a great person, then — whenever you want — with the abandoning of pleasure & pain, as with the earlier disappearance of elation & distress, you will enter & remain in the fourth jhana: purity of equanimity & mindfulness, neither-pleasure-nor-pain.


Khi nào, này Anuruddha, Thầy sẽ suy nghĩ đến tám tư niệm này của bậc Đại nhân, thời nếu Thầy muốn, Thầy sẽ xả lạc xả khổ, diệt hỷ ưu đă cảm thọ trước, chứng và an trú Thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh.

 

Now, when you think these eight thoughts of a great person and become a person who can attain at will, without trouble or difficulty, these four jhanas — heightened mental states providing a pleasant abiding in the here & now — then your robe of cast-off rags will seem to you to be just like the clothes chest of a householder or householder's son, full of clothes of many colors. As you live contented, it will serve for your delight, for a comfortable abiding, for non-agitation, & for alighting on Unbinding.


Khi nào, này Anuruddha, Thầy sẽ suy nghĩ đến tám tư niệm này của bậc Đại nhân, khi nào bốn Thiền này thuộc tăng thượng tâm, hiện tại lạc trú, chứng được không khó khăn, chứng được không mệt nhọc, chứng được không phí sức, thời này Anuruddha, tấm y lượm từ đống rác lên của Thầy sẽ giống như tủ áo đầy những vải có nhiều màu sắc của người gia chủ hay con người gia chủ. Để được sống biết đủ, ưa thích, không có lo âu, được lạc trú, được bước vào Niết-bàn.

 

When you think these eight thoughts of a great person and become a person who can attain at will, without trouble or difficulty, these four jhanas — heightened mental states providing a pleasant abiding in the here & now — then your meal of almsfood will seem to you to be just like the rice & wheat of a householder or householder's son, cleaned of black grains, and served with a variety of sauces & seasonings. As you live contented, it will serve for your delight, for a comfortable abiding, for non-agitation, & for alighting on Unbinding.


Khi nào, này Anuruddha, Thầy sẽ suy nghĩ đến tám tư niệm này của bậc Đại nhân, thời nếu Thầy muốn, khi nào bốn Thiền này thuộc tăng thượng tâm, hiện tại lạc trú, chứng được không khó khăn, chứng được không mệt nhọc, chứng được không phí sức, thời này Anuruddha, các món ăn từng miếng Thầy khất thực được sẽ giống như món cơm bằng gạo trắng, các hạt đen đă được lượm sạch, với nhiều loại súp, với nhiều loại đồ ăn của người gia chủ, hay của con người gia chủ. Để được sống biết đủ, ưa thích, không có lo âu, được lạc trú, được bước vào Niết-bàn.

 

When you think these eight thoughts of a great person and become a person who can attain at will, without trouble or difficulty, these four jhanas — heightened mental states providing a pleasant abiding in the here & now — then your dwelling at the foot of a tree will seem to you to be just like the gabled mansion of a householder or householder's son, plastered inside & out, draft-free, bolted, and with its shutters closed. As you live contented, it will serve for your delight, for a comfortable abiding, for non-agitation, & for alighting on Unbinding.


Khi nào, này Anuruddha, Thầy sẽ suy nghĩ đến tám tư niệm này của bậc Đại nhân, thời nếu Thầy muốn, khi nào bốn Thiền này thuộc tăng thượng tâm, hiện tại lạc trú, chứng được không khó khăn, chứng được không mệt nhọc, chứng được không phí sức, thời này Anuruddha, chỗ nằm dưới gốc cây thầy sẽ giống như nhà có nóc nhọn, có trét hồ trong ngoài, cửa được cài then, cửa sổ được đóng lại ngăn chặn gió của người gia chủ, hay của con người gia chủ. Để được sống biết đủ, ưa thích, không có lo âu, được lạc trú, được bước vào Niết-bàn.

 

When you think these eight thoughts of a great person and become a person who can attain at will, without trouble or difficulty, these four jhanas — heightened mental states providing a pleasant abiding in the here & now — then. your bed on a spread of grass will seem to you like the couch of a householder or householder's son, spread with long-haired coverlets, white woolen coverlets, embroidered coverlets, antelope-hide & deer-skin rugs, covered with a canopy, and with red cushions for the head & feet.As you live contented, it will serve for your delight, for a comfortable abiding, for non-agitation, & for alighting on Unbinding.


Khi nào, này Anuruddha, Thầy sẽ suy nghĩ đến tám tư niệm này của bậc Đại nhân, khi nào bốn Thiền này thuộc tăng thượng tâm, hiện tại lạc trú, chứng được không khó khăn, chứng được không mệt nhọc, chứng được không phí sức, thời này Anuruddha, giường nằm và chỗ ngồi trải với đệm cỏ của Thầy sẽ giống như ghế dài, nệm trải giường nằm bằng len, chăn len trắng, chăn len thêu bông, nệm bằng da con sơn dương gọi là kadali, tấm thảm với đầu che phía trên, ghế dài có đầu gối chân màu đỏ của các người gia chủ, hay của con người gia chủ. Để được sống biết đủ, ưa thích, không có lo âu, được lạc trú, được bước vào Niết-bàn.

 

When you think these eight thoughts of a great person and become a person who can attain at will, without trouble or difficulty, these four jhanas — heightened mental states providing a pleasant abiding in the here & now — then your medicine of strong-smelling urine will seem to you to be just like the various tonics of a householder or householder's son: ghee, fresh butter, oil, honey, and molasses sugar. As you live contented, it will serve for your delight, for a comfortable abiding, for non-agitation, & for alighting on Unbinding.


Khi nào, này Anuruddha, Thầy sẽ suy nghĩ đến tám tư niệm này của bậc Đại nhân, khi nào bốn Thiền này thuộc tăng thượng tâm, hiện tại lạc trú, chứng được không khó khăn, chứng được không mệt nhọc, chứng được không phí sức, thời này Anuruddha, dược phẩm nước tiểu hôi của Thầy sẽ giống như các loại dược phẩm của các người gia chủ, hay của con người gia chủ, như thục tô, sanh tô, dầu, mật, đường bánh. Để được sống biết đủ, ưa thích, không có lo âu, được lạc trú, được bước vào Niết-bàn.

 

Now, then, Anuruddha, you are to stay right here among the Cetis for the coming Rains Retreat."


Vậy này Anuruddha, nhân kỳ an cư mùa mưa sắp đến, hăy trú giữa dân chúng Cet́ ở Pàćnavamsadàya.

 

"As you say, lord," Ven. Anuruddha replied.


-" Thưa vâng, bạch Thế Tôn." Tôn giả Anuruddha vâng đáp Thế Tôn.

 

Then, having given this exhortation to Ven. Anuruddha, the Blessed One — as a strong man might extend his flexed arm or flex his extended arm — disappeared from the Eastern Bamboo Park of the Cetis and reappeared among the Bhaggas in the Deer Park at Bhesakala Grove, near Crocodile Haunt. He sat down on a prepared seat and, as he was sitting there, he addressed the monks:


Rồi Thế Tôn sau khi khuyến giáo Tôn giả Anuruddha với lời khuyến giáo này, như người lực sĩ duỗi cánh tay đang co lại, hay co lại cánh tay đang duỗi ra ; cũng vậy, Ngài biến mất giữa dân chúng Cet́ ở Pàćnavamsadàya và hiện ra giữa dân chúng Bhagga, trên núi Sumsumàra trong rừng Bhesakalà, vườn Lộc Uyển. Thế Tôn ngồi xuống trên chỗ đă soạn sẵn, sau khi ngồi xuống, Thế Tôn bảo các Tỷ-kheo :

 

"Monks, I will teach you the eight thoughts of a great person. Listen & pay close attention. I will speak."


Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ thuyết tám tư niệm của bậc Đại nhân cho các Thầy. Hăy lắng nghe và khéo tư niệm, Ta sẽ giảng :

 

- "Yes, lord," the monks responded.


- "Thưa vâng, bạch Thế Tôn." Các tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn

 

The Blessed One said, "Now, what are the eight thoughts of a great person?


Thế tôn nói như sau : -" Này các Tỷ-kheo, thế nào là tám tư niệm của bậc Đại nhân ?"

 

-This Dhamma is for one who is modest, not for one who is self-aggrandizing.
-This Dhamma is for one who is content, not for one who is discontent.
-This Dhamma is for one who is reclusive, not for one who is entangled.
-This Dhamma is for one whose persistence is aroused, not for one who is lazy.
-This Dhamma is for one whose mindfulness is established, not for one whose mindfulness is confused.
-This Dhamma is for one whose mind is centered, not for one whose mind is uncentered.
-This Dhamma is for one endowed with discernment, not for whose discernment is weak."
-This Dhamma is for one who enjoys non-complication, who delights in non-complication, not for one who enjoys & delights in complication.


-Pháp này để cho người ít dục, pháp này không phải để cho người nhiều dục.
-Pháp này để cho người biết đủ, pháp này không phải để cho người không biết đủ.
-Pháp này để cho người sống thanh vắng, pháp này không phải để cho người ưa hội chúng.
-Pháp này để cho người tinh cần tinh tấn, pháp này không phải để cho người biếng nhác.
-Pháp này để cho người trú niệm, pháp này không phải để cho người nhất niệm.
-Pháp này để cho người Thiền định, pháp này không phải để cho người không Thiền định.
-Pháp này để cho người có trí tuệ, pháp này không phải để cho người ác tuệ.
-Pháp này để cho người không ưa lư luận, không thích luận hư, Pháp này không phải để cho người ưa lư luận, thích luận hư.

 

'This Dhamma is for one who is modest, not for one who is self-aggrandizing.' Thus was it said. With reference to what was it said?


Này các Tỷ-kheo, Pháp này để cho người ít dục, Pháp này không để cho người có dục lớn", như vậy đă được nói đến. Do duyên ǵ được nói như vậy ?

 

There is the case where a monk, being modest, does not want it to be known that 'He is modest.' Being content, he does not want it to be known that 'He is content.' Being reclusive, he does not want it to be known that 'He is reclusive.' His persistence being aroused, he does not want it to be known that 'His persistence is aroused.' His mindfulness being established, he does not want it to be known that 'His mindfulness is established.' His mind being centered, he does not want it to be known that 'His mind is centered.' Being endowed with discernment, he does not want it to be known that 'He is endowed with discernment.' Enjoying non-complication, he does not want it to be known that 'He is enjoying non-complication.' 'This Dhamma is for one who is modest, not for one who is self-aggrandizing.' Thus was it said. And with reference to this was it said.


Này các Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo ít dục không muốn : "Mong người ta biết tôi là ít dục" ; biết đủ, không muốn : "Mong người ta biết tôi là biết đủ" ; sống viễn ly, không muốn : " Mong người ta biết tôi sống viễn ly" ; , tinh cần tinh tấn, không muốn : " Mong người ta biết tôi sống tinh cần tinh tấn" ; trú niệm, không muốn : " Mong người ta biết tôi trú niệm" ; có định, không muốn : " Mong người ta biết tôi có định" ; có tuệ, không muốn : " Mong người ta biết tôi có tuệ " ; không thích hư luận, không muốn : " Mong người ta biết tôi không thích hư luận". Này các Tỷ-kheo, Pháp này để cho người ít dục, Pháp này không để cho người có dục lớn", đă được nói đến như vậy. Do duyên này được nói như vậy.

 

'This Dhamma is for one who is content, not for one who is discontent.' Thus was it said. With reference to what was it said?


Này các Tỷ-kheo, Pháp này để cho người biết đủ, Pháp này không để cho người không biết đủ ", như vậy đă được nói đến. Do duyên ǵ được nói như vậy ?

 

There is the case where a monk is content with any old robe cloth at all, any old almsfood, any old lodging, any old medicinal requisites for curing sickness at all. 'This Dhamma is for one who is content, not for one who is discontent.' Thus was it said. And with reference to this was it said.


Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo biết đủ với bất cứ vật dụng ǵ như y áo, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh. Này các Tỷ-kheo, Pháp này để cho người biết đủ, Pháp này không để cho người không biết đủ ", đă được nói đến như vậy. Do duyên này được nói như vậy.

 

'This Dhamma is for one who is reclusive, not for one who is entangled.' Thus was it said. With reference to what was it said?


Này các Tỷ-kheo, Pháp này để cho người sống viễn ly, Pháp này không để cho người ưa hội chúng", như vậy đă được nói đến. Do duyên ǵ được nói như vậy ?

 

There is the case where a monk, when living in seclusion, is visited by monks, nuns, lay men, lay women, kings, royal ministers, sectarians & their disciples. With his mind bent on seclusion, tending toward seclusion, inclined toward seclusion, aiming at seclusion, relishing renunciation, he converses with them only as much is necessary for them to take their leave. 'This Dhamma is for one who is reclusive, not for one who is entangled.' Thus was it said. And with reference to this was it said.


Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo sống viễn ly, có nhiều người đến thăm như Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-Niganthà, nam cư sĩ, nữ cư sĩ, vua chúa, đại thần, các ngoại đạo sư, đệ tử của các ngoại đạo sư. Ở đây, Tỷ-kheo với tâm thuận về viễn ly, hướng về viễn ly, nhập vào viễn ly, trú vào viễn ly, thích thú xuất ly, nói lời hoàn toàn liên hệ đến lánh xa. Này các Tỷ-kheo, Pháp này để cho người viễn ly, Pháp này không để cho người không ưa hội chúng", đă được nói đến như vậy. Do duyên này được nói như vậy.

 

'This Dhamma is for one whose persistence is aroused, not for one who is lazy.' Thus was it said. With reference to what was it said?


Này các Tỷ-kheo, Pháp này để cho người tinh cần tinh tấn, Pháp này không để cho người biếng nhác", như vậy đă được nói đến. Do duyên ǵ được nói như vậy ?

 

There is the case where a monk keeps his persistence aroused for abandoning unskillful mental qualities and taking on skillful mental qualities. He is steadfast, solid in his effort, not shirking his duties with regard to skillful mental qualities. 'This Dhamma is for one whose persistence is aroused, not for one who is lazy.' Thus was it said. And with reference to this was it said.


Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo sống tinh cần tinh tấn, đoạn tận các pháp bất thiện, thành tựu các Pháp thiện, nỗ lực kiên tŕ, không từ bỏ gánh nặng đối với các thiện pháp. Này các Tỷ-kheo, Pháp này để cho người tinh cần tinh tấn, Pháp này không để cho người biếng nhác", đă được nói đến như vậy. Do duyên này được nói như vậy.

 

'This Dhamma is for one whose mindfulness is established, not for one whose mindfulness is confused.' Thus was it said. With reference to what was it said?


Này các Tỷ-kheo, Pháp này để cho người trú niệm, Pháp này không để cho người thất niệm", như vậy đă được nói đến. Do duyên ǵ được nói như vậy ?

 

There is the case where a monk is mindful, highly meticulous, remembering & able to call to mind even things that were done & said long ago. 'This Dhamma is for one whose mindfulness is established, not for one whose mindfulness is confused.' Thus was it said. And with reference to this was it said.


Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đầy đủ niệm, thành tựu niệm tuệ tối thắng, ức nhớ tùy niệm những điều đă làm, nói đă lâu. Này các Tỷ-kheo, Pháp này để cho người trú niệm, Pháp này không để cho người thất niệm", đă được nói đến như vậy. Do duyên này được nói như vậy.

 

'This Dhamma is for one whose mind is centered, not for one whose mind is uncentered.' Thus was it said. With reference to what was it said?


Này các Tỷ-kheo, Pháp này để cho người thiền định, Pháp này không để cho người không thiền định", như vậy đă được nói đến. Do duyên ǵ được nói như vậy ?

 

There is the case where a monk, quite withdrawn from sensuality, withdrawn from unskillful mental qualities, enters & remains in the first jhana: rapture & pleasure born from withdrawal, accompanied by directed thought & evaluation. With the stilling of directed thought & evaluation, he enters & remains in the second jhana: rapture & pleasure born of composure, unification of awareness free from directed thought & evaluation — internal assurance. With the fading of rapture he remains in equanimity, mindful & alert, and physically sensitive of pleasure. He enters & remains in the third jhana, of which the Noble Ones declare, 'Equanimous & mindful, he has a pleasurable abiding.' With the abandoning of pleasure & pain — as with the earlier disappearance of elation & distress — he enters & remains in the fourth jhana: purity of equanimity & mindfulness, neither pleasure nor pain. 'This Dhamma is for one whose mind is centered, not for one whose mind is uncentered.' Thus was it said. And with reference to this was it said.


Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ly dục, ly ác pháp, chứng đạt và an trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm có tứ. Diệt tầm diệt tứ, vị ấy chứng đạt và an trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tĩnh nhất tâm. Ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là "xả niệm lạc trú", vị ấy chứng và an trú Thiền thứ ba. Vị ấy xả lạc xả khổ, diệt hỷ ưu đă cảm thọ trước, chứng và an trú Thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh. Này các Tỷ-kheo, Pháp này để cho người thiền định, Pháp này không để cho người không thiền định", đă được nói đến như vậy. Do duyên này được nói như vậy.

 

'This Dhamma is for one endowed with discernment, not for one whose discernment is weak.' Thus was it said. With reference to what was it said?


Này các Tỷ-kheo, Pháp này để cho người có trí tuệ, Pháp này không để cho người không trí tuệ", như vậy đă được nói đến. Do duyên ǵ được nói như vậy ?

 

There is the case where a monk is discerning, endowed with discernment of arising & passing away — noble, penetrating, leading to the right ending of stress. 'This Dhamma is for one endowed with discernment, not for one whose discernment is weak.' Thus was it said. And with reference to this was it said.


Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo có trí tuệ, có trí tuệ về sanh diệt, thành tựu Thánh thể nhập (quyết trạch), đưa đến chơn chánh đoạn diệt khổ đau. Này các Tỷ-kheo, Pháp này để cho người có trí tuệ, Pháp này không để cho người không trí tuệ", đă được nói đến như vậy. Do duyên này được nói như vậy

 

'This Dhamma is for one who enjoys non-complication, who delights in non-complication, not for one who enjoys & delights in complication.' Thus was it said. With reference to what was it said?


Này các Tỷ-kheo, Pháp này để cho người không ưa hư luận, không thích hư luận, Pháp này không để cho người ưa hư luận, thích hư luận", như vậy đă được nói đến. Do duyên ǵ được nói như vậy ?

 

There is the case where a monk's mind leaps up, grows confident, steadfast, & is firm in the cessation of complication. 'This Dhamma is for one who enjoys non-complication, who delights in non-complication, not for one who enjoys & delights in complication.' Thus was it said. And with reference to this was it said."


Này các Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo đối với đoạn diệt hư luận, tâm được phấn chấn, tịnh tín, an trú, hướng đến. Này các Tỷ-kheo, Pháp này để cho người không ưa hư luận, không thích hư luận, Pháp này không để cho người ưa hư luận, thích hư luận", đă được nói đến như vậy. Do duyên này được nói như vậy.

 

Now, during the following Rains Retreat, Ven. Anuruddha stayed right there in the Eastern Bamboo Park among the Cetis. Dwelling alone, secluded, heedful, ardent, & resolute, he in no long time reached & remained in the supreme goal of the holy life for which clansmen rightly go forth from home into homelessness, knowing & realizing it for himself in the here & now. He knew: "Birth is ended, the holy life fulfilled, the task done. There is nothing further for the sake of this world."


Rồi Tôn giả Anuruddha, mùa mưa an cư đến, đến trú ở giữa dân chúng Cet́, tại Paćnavamsadàya. Rồi Tôn giả Anuruddha sống một ḿnh, an tịnh, không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, không bao lâu chứng đạt được các mục đích mà các Thiện nam tử chơn chánh xuất gia, từ bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh, tức là vô thượng cứu cánh Phạm hạnh ngay trong hiện tại, vị ấy tự ḿnh chứng tri với thắng trí, chứng ngộ, chứng nhập và an trú. Vị ấy biết rơ : "Sanh đă tận, Phạm hạnh đă thành, những ǵ nên làm đă làm, không c̣n trở lui lại trạng thái này nữa"

 

And thus Ven. Anuruddha became another one of the arahants. Then, on attaining arahantship, he uttered this verse:


Và Tôn giả Anuruddha trở thành một vị A-la-hán nữa.Ngay trong thời gian ấy, nói lên những bài kệ này :

 

Knowing my thoughts,
      the Teacher, 
 unexcelled in the cosmos,
came to me through his power
in a body made of mind.
      He taught 
in line with my thoughts,
	and then further.


The Buddha,
delighting in non-complication,
taught 	      non-complication.
Knowing his Dhamma,
I kept delighting in his bidding.
  The three knowledges
  have been attained;
  the Buddha's bidding,
		done.




Thế gian vô thượng sư
Rơ biết tư tưởng ta
Với thân do ư tạo
Thần thông đến với ta
Tùy theo ta nghĩ ǵ
Ngài thuyết rơ tất cả




Phật không ưa hư luận
Ngài thuyết, không hư luận
Ngộ pháp, ta hoan hỷ
Trú trong giáo pháp ngài
Ba minh đă đạt được 
Giáo pháp Phật làm xong.

 

See also: SN 48.10; AN 4.28; AN 8.53.